When he was wicked

Cô mỉm cười và nghiêng tới trước. “Em nhớ được có anh cho riêng mình.”
“Em chỉ cần nói ra thôi, cô nương của anh. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Anh sẽ đưa vụt em đi và để em tự do làm gì em muốn với anh.”
Cô cười khúc khích. “Có thể là ngay bây giờ.”
Anh nghĩ đó là một ý kiến tuyệt vời, nhưng tinh thần hiệp sĩ buộc anh phải nói, “Anh tưởng em nhức người.”
“Không nhức đến mức đó. Không nếu như anh làm tất cả mọi việc.”
“Cái đó, cưng à, không phải là vấn đề.” Anh kéo áo mình ra khỏi người và nằm xuống cạnh cô, tặng cô một nụ hôn thật dài, ngon lành. Anh lui lại với một tiêng thở dài thỏa mãn, rồi chỉ ngắm cô. “Em đẹp quá,” anh thì thầm. “Hơn bất cứ lúc nào.”
Cô mỉm cười—cái nụ cười lười biếng, ấm áp có ý rằng cô rất sung sướng, hoặc biết rằng cô sắp.
Anh yêu nụ cười đó.
Anh tiếp tục xử lý những cái nút phía sau thân váy của cô kéo dài xuống dưới khi bất chợt một ý nghĩ vụt ra trong đầu. “Đợi đã,” anh nói. “Em có thể nào?”
“Em có thể làm sao?”
Anh ngừng lại, nhíu mày trong khi cố đếm trong đầu. Chẳng phải cô lẽ ra đang trong kỳ sao? “Không phải đến thời gian của em rồi sao?” anh hỏi.
cô hé ra, và cô chớp mắt. “Không,” cô nói, giọng cô nghe có vẻ rúng động—không phải vì câu hỏi của anh mà vì câu trả lời của cô. “Không, em không.”
Anh nhích vị trí của mình, lùi lại vài inch để có thể nhìn rõ mặt cô hơn. “Em có nghĩ là...?”
“Em không biết.” Giờ cô đang chớp mắt thật nhanh, và anh có thể nghe thấy hơi thở của cô đã trở nên gấp gáp hơn. “Em đoán thế. Em có thể...”
Anh muốn nhảy cẫng lên vui sướng, nhưng anh không dám. Chưa được. “Em nghĩ khi nào—“
“—em sẽ biết? Em không biết. Có thể—“
“—một tháng nữa? Hai?”
“Có thể hai. Có thể sớm hơn. Em không biết.” Bàn tay cô đưa lên bụng. “Có thể nó không lâu thế.”
“Có thể không,” anh nói thận trọng.
“Nhưng cũng có thể.”
“Có thể.”
Anh cảm thấy tiếng cười đang sôi lên trong người, một cảm giác cuộn lên trong bụng, lớn lên và nhột nhạt cho đến khi nó tuôn ra khỏi môi anh.
“Mình không thể chắc chắn,” cô cảnh báo, nhưng anh có thể thấy cô cũng đang phấn khích.
“Không,” anh nói, nhưng bằng cách nào đó anh biết họ có thể.
“Em không muốn đẩy hy vọng lên quá cao.”

“Không, không, tất nhiên chúng ta không được.”
Đôi mắt cô mở lớn, và cô đặt cả hai tay lên bụng mình, vẫn tuyệt đối, hoàn toàn phẳng.
“Em có cảm thấy gì không?” anh thì thầm.
Cô lắc đầu. “Sẽ còn quá sớm, dù sao đi nữa.”
Anh biết vậy. Anh biết là anh biết vậy. Anh không biết tại sao mình lại hỏi.
Và rồi Francesca nói điều lạ lùng nhất. “Nhưng thằng bé có ở đó,” cô thì thầm. “Em biết vậy.”
“Frannie...” Nếu cô sai, nếu trái tim cô tan vỡ lần nữa—anh không nghĩ anh có thể chịu đựng nổi.
Nhưng cô đang lắc đầu. “Thật thế đấy,” cô nói, và cô không tỏ ra cứng cỏi. Cô không cố thuyết phục anh, hay thậm chí cả chính mình. Anh có thể nghe thấy điều đó trong giọng cô. Bằng cách nào đó cô đã biết.
“Em có cảm thấy mệt mỏi không?” anh hỏi.
Cô lắc đầu.
“Em có—Chúa ơi, em đã không nên chơi với tụi trẻ con chiều nay.”
“Eloise có chơi mà.”
“Eloise có thể làm cái quái gì chị ấy thích. Chị ấy không phải là em.”
Cô mỉm cười. Như đức mẹ, cô mỉm cười, anh có thể thề như vậy. Và cô nói, “Em sẽ không gục ngã đâu.”
Anh nhớ lại khi cô bị sẩy thai nhiều năm trước. Đó không phải là con anh, nhưng anh đã cảm thấy nỗi đau, nóng bỏng và cào xé, như một bàn tay bóp quanh trái tim anh. Anh họ anh—người chồng đầu tiên của cô—chỉ mới mất được vài tuần, và họ đều đang quằn quại vì sự mất mát đó. Khi cô mất đứa con của John...
Anh không nghĩ ai trong bọn họ có thể sống nổi sau một sự mất mát như vậy nữa.
“Francesca,” anh nói vẻ khẩn trương, “em phải cẩn thận. Làm ơn.”
“Chuyện đó sẽ không xảy ra nữa đâu,” cô nói, lắc đầu.
“Sao em biết được?”
Cô cho anh một cái nhún vai khó hiểu. “Em không biết. Em chỉ biết thế thôi.”
Chúa ơi, anh cầu mong cô đang không tự huyễn hoặc mình. “Em có muốn nói với gia đình không?” anh hỏi khẽ.
Cô lắc đầu. “Chưa. Không phải em sợ cái gì hết,” cô vội thêm. “Em chỉ muốn—“ Đôi môi cô mím lại trong một nụ cười mềm mại đáng yêu nhất có thể. “Em chỉ muốn nó là của riêng mình một thời gian. Của chúng ta.”
Anh đưa bàn tay cô lên môi mình. “Một thời gian là bao lâu?”
“Em chẳng rõ.” Nhưng đôi mắt cô đang trở nên tinh quái. “Em chưa rõ lắm...”

Một năm sau...
Violet Bridgerton yêu các con mình như nhau, nhưng bà cũng yêu họ khác nhau. Và khi nói đến chuyện nhớ họ, bà nhớ họ theo một cách có thể gọi là logic nhất. Trái tim bà hướng nhiều nhất về người mà bà được gặp ít nhất. Và đó là lý do tại sao, khi bà đợi trong phòng khách của Aubrey Hall, ngóng một cỗ xe mang gia huy Kilmartin tiến vào con đường dẫn, bà nhận ra mình đang bồn chồn sốt ruột, cứ năm phút lại nhảy dựng dậy để ngó ra ngoài cửa sổ.
“Em ấy đã viết rằng họ sẽ đến hôm nay,” Kate đảm bảo với bà.
“Mẹ biết,” Violet trả lời với một nụ cười bẽn lẽn. “Chỉ là mẹ đã không gặp nó trọn một năm. Mẹ biết Scotland xa, nhưng mẹ chưa bao giờ trải qua tròn một năm mà không được gặp một trong mấy đứa con của mẹ.”
“Thật sao?” Kate hỏi. “Thật là đáng khâm phục.”
“Chúng ta đều có những ưu tiên của mình,” Violet nói, kết luận rằng giả vờ không tỏ vẻ sốt ruột cũng chẳng có ích gì. Bà đặt cái khung thêu của mình xuống và tới bên cửa sổ, nghển cổ lên khi bà nghĩ mình vừa thấy cái gì đó ánh lên trong nắng.
“Ngay cả khi Colin đi du lịch nhiều như thế?” Kate hỏi.
“Lần nó đi lâu nhất là 342 ngày,” Violet trả lời. “Khi nó đi du lịch vùng Địa Trung Hải.”
“Mẹ đếm?”
Violet nhún vai. “Mẹ chẳng thể đừng được. Mẹ thích đếm.” Bà nhớ lại tất cả những lần đếm hồi các con còn đang lớn lên, đảm bảo rằng bà vẫn có số con sau mỗi buổi đi chơi bằng với lúc đầu. “Như thế dễ kiểm soát mọi việc hơn.”
Kate mỉm cười khi cô đưa tay xuống và đung đưa chiếc nôi dưới chân. “Con sẽ không bao giờ than phiền về việc phải lo cho bốn đứa.”
Violet bước qua phòng và ngó xuống đứa cháu mới nhất của mình. Mary bé bỏng thực sự là một điều ngạc nhiên nhỏ, đến khá nhiều năm sau Charlotte. Kate đã tưởng mình xong với chuyện đẻ con rồi, nhưng, mười tháng trước, cô ra khỏi giường, bước một cách bình thản về chỗ cái bô, xả hết, và thông báo với Anthony, “Em tin là chúng ta lại sắp có con.”
Hay đúng hơn là họ đã nói với Violet như vậy. Bà rất cẩn thận tránh xa phòng ngủ các con ngoại trừ trong trường hợp ốm đau hoặc sinh đẻ.
“Mẹ chưa bao giờ than phiền,” Violet nói khẽ. Kate không nghe thấy, nhưng Violet cũng không định nói cho cô nghe. Bà mỉm cười cúi nhìn Mary, đang ngủ ngon lành dưới một cái chăn màu tím. “Mẹ nghĩ mẹ con hẳn sẽ rất vui,” bà nói, nhìn lên Kate.
Kate gật đầu, đôi mắt cô bắt đầu mờ nước. Mẹ cô—thực ra là mẹ kế của cô, nhưng Mary Sheffield đã nuôi nấng cô từ khi còn là một cô bé—đã qua đời một tháng trước khi Kate nhận ra mình có thai. “Con biết nghe thật phi lý,” Kate nói, cúi người để ngắm kỹ gương mặt con gái hơn, “nhưng con có thể thề là nó trông hơi giống bà.”
Violet chớp mắt và nghiêng đầu về một bên. “Mẹ nghĩ là con nói đúng.”
“Có điểm nào đó trong đôi mắt.”
“Không, là cái mũi.”
“Mẹ nghĩ vậy sao? Con thì nghĩ là— Ô, nhìn kìa!” Kate chỉ ra ngoài cửa sổ. “Francesca phải không nhỉ?”
Violet đứng thẳng dậy và vội về phía cửa sổ. “Đúng rồi!” bà kêu. “Ồ, và trời đang nắng ngoài kia. Mẹ sẽ ra đợi bên ngoài.”
Gần như không liếc lại đằng sau, bà vớ lấy một cái khăn choàng từ cái bàn bên cạnh và lao ra hành lang. Đã thật lâu từ lần cuối bà gặp Frannie, nhưng đó không phải là lý do duy nhất bà thấy háo hức được gặp cô. Francesca đã thay đổi trong lần đến thăm trước, từ hồi lễ rửa tội của Isabella. Thật khó giải thích, nhưng Violet đã cảm thấy có cái gì đó thay đổi trong cô.
Trong các con bà, Francesca luôn là người ít nói nhất, kín đáo nhất. Cô yêu gia đình cô, và cô cũng thích được tách ra khỏi họ, tự khẳng định bản thân mình, xây dựng cuộc sống riêng của mình. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi cô chưa bao giờ lựa chọn chia sẻ cảm xúc của mình về cái góc khuất đau đớn nhất của cuộc đời cô—vô sinh. Nhưng lần trước, mặc dù họ không nói trực tiếp về chuyện đó, có cái gì đó vẫn được truyền đi giữa họ, và Violet gần như cảm thấy như thể bà đã có thể gánh bớt phần nào sự đau đớn của cô.
Khi Francesca đi, những đám mây sau đôi mắt cô đã tan đi. Violet không biết có phải là cuối cùng cô đã chấp nhận số phận của mình, hay là cô đơn giản đã học được cách tận hưởng những gì mình có, nhưng Francesca dường như, lần đầu tiên trong ký ức gần nhất của Violet, đã được hạnh phúc trọn vẹn mà không phải e dè.

Violet chạy dọc hành lang—đúng thế, với tuổi của bà! —và đẩy toang cánh cửa trước để bà có thể đợi trên con đường dẫn vào. Cỗ xe của Francesca đã gần đến nơi, đang cua khúc cuối cùng để một bên cửa có thể hướng về ngôi nhà.
Violet có thể thấy Michael qua cửa sổ. Anh vẫy tay. Bà tươi cười.
“Ôi, mẹ nhớ các con!” bà kêu, vội tiến tới trước khi anh nhảy xuống. “Con phải hứa không bao giờ được để lâu như vậy nữa.”
“Cứ như là con có thể từ chối mẹ điều gì,” anh nói, cúi xuống để hôn má bà. Rồi anh quay người, đưa tay ra để đỡ Francesca.
Violet ôm con gái, rồi lui lại để ngắm cô. Frannie...
Đang tỏa sáng.
Cô rõ ràng đang sáng bừng lên.
“Con nhớ mẹ, mẹ à,” cô nói.
Violet có thể đã trả lời, nhưng bà nhận ra mình đang nghẹn lại một cách hoàn toàn bất ngờ. Bà cảm thấy đôi môi mình đang mím lại, rồi run rẩy bên khóe miệng khi bà cố kềm những giọt nước mắt. Bà không biết tại sao bà lại đa cảm đến thế. Phải, đã hơn một năm rồi, nhưng chẳng phải bà đã chịu được 342 ngày trước đây sao? Lần này cũng đâu có khác mấy.
“Con có cái này cho mẹ,” Francesca nói, và Violet có thể thề là đôi mắt cô còn đang ánh lên nữa.
Francesca quay người về phía cỗ xe và đưa hai tay ra. Một cô hầu hiện ra ở cửa, đang ôm một cái bọc gì đó, và cô ta đưa xuống cho bà chủ của mình.
Violet thở dốc. Chúa ơi, có thể nào...
“Mẹ à,” Francesca khẽ nói, ôm lấy cái bọc nhỏ bé quý báu, “đây là John.”
Những giọt nước mắt, đang chờ đợi một cách thiếu kiên nhẫn trong mắt Violet, bắt đầu lăn xuống. “Frannie,” bà thì thầm, bế đứa bé vào tay, “sao con không nói cho mẹ?”
Và Francesca—cô con gái thứ ba bí hiểm, dễ làm người ta phát điên của bà—nói, “Con không biết.”
“Nó thật xinh,” Violet nói, không thèm quan tâm đến chuyện bà đã không được cho biết. Bà chẳng quan tâm đến cái gì hết trong lúc này—chẳng cái gì hết ngoài chú bé nhỏ xíu trong tay bà, đang nhìn bà chăm chăm với một vẻ mặt thông minh đến không thể tin được.
“Nó có đôi mắt của con,” Violet nói, nhìn lên Francesca.
Frannie gật đầu, và nụ cười cô trông gần như có vẻ ngơ ngẩn, như thể cô không thể tin được điều này. “Con biết.”
“Và cái miệng của con.”
“Con nghĩ là mẹ nói đúng.”
“Và—ôi trời, mẹ nghĩ nó có cái mũi của con luôn.”
“Con nghe nói,” Michael nói với một giọng thích thú, “rằng con cũng có tham gia trong việc tạo ra thằng bé, nhưng đến giờ con vẫn chưa thấy cái gì chứng minh cả.”
Francesca nhìn anh với đầy sự yêu thương đến mức gần như làm Violet phải nín thở. “Nó có sự quyến rũ của anh,” cô nói.
Violet cười to lên, rồi bà lại cười lần nữa. Có quá nhiều sự hạnh phúc bên trong bà—bà không thể nào kìm nó được. “Mẹ nghĩ đã đến lúc chúng ta giới thiệu anh bạn nhỏ này cho gia đình của cậu ta,” bà nói. “Các con có nghĩ thế không?”
Francesca đưa tay ra để bế em bé, nhưng Violet đã quay đi. “Chưa đâu,” bà nói. Bà muốn bế chú bé thêm chút nữa. Có thể là đến Thứ ba.
“Mẹ à, con nghĩ có thể nó đói.”
Violet ra vẻ tinh quái. “Cu cậu sẽ cho ta biết.”
“Nhưng—“

“Mẹ cũng biết một vài điều về các em bé, Francesca Bridgerton Stirling.” Violet mỉm cười với John. “Chúng yêu bà của chúng, ví dụ thế.”
Chú bé ậm ừ và kêu gừ gừ, và rồi—bà chắc chắn—mỉm cười.
“Đi với bà nào, chú nhóc,” bà thì thầm, “bà có thật nhiều chuyện để kể với cháu.”
Và sau lưng bà, Francesca quay sang Michael và nói, “Anh có nghĩ mình có thể lấy thằng bé về trong suốt chuyến thăm này không?”
Anh lắc đầu, rồi thêm, “Như vậy sẽ cho chúng ta thêm thời gian để xem xét kiếm cho anh chàng một cô em.”
“Michael!”
“Nghe lời hắn đi,” Violet gọi, không thèm quay lại.
“Trời đất ơi,” Francesca lẩm bẩm.
Nhưng cô có nghe lời.
Và cô tận hưởng.
Và chín tháng sau, cô chào buổi sáng với Janet Helen Stirling.
Cô bé giống hệt cha mình.
Kết
Quý độc giả thân mến,
Tôi đã bắt các nhân vật trong When He Was Wicked chịu đựng khá nhiều bất hạnh về mặt sức khỏe. Nghiên cứu về các tình trạng của cả John và Michael thật rất phức tạp; tôi phải đảm bảo các quá trình bệnh lý của họ hợp lý về mặt khoa học, cùng lúc đó chỉ để lộ ra những gì được biết đến với nền y học năm 1824 tại nước Anh.
John chết vì tai biến mạch máu não. Đó là những điểm suy yếu tại thành mạch máu trong bộ não. Chúng có thể nằm yên trong đó rất nhiều năm hoặc chúng có thể phình ra đột ngột rồi vỡ ra, dẫn đến chảy máu trong não, sau đó có thể dẫn đến bất tỉnh, hôn mê, và tử vong. Những cơn đau đầu gây ra bởi vỡ mạch máu não là rất đột ngột và bùng nổ nhưng có thể được báo trước bởi một cơn đau đầu kéo dài trong một khoảng thời gian trước khi sự nứt vỡ thực sự diễn ra.
Chẳng có gì có thể làm để cứu được anh; ngay cả ngày nay xấp xỉ một nửa những ca tai biến mạch máu não dẫn đến tử vong.
Trong thế kỷ 19, cách duy nhất để có thể chẩn đoán xác minh chắc chắn một ca tai biến mạch máu não là bằng cách giải phẫu tử thi. Tuy nhiên có rất ít khả năng một bá tước sẽ bị giải phẫu sau khi chết; bởi vậy, cái chết của John sẽ vẫn là một bí ẩn đối với những người yêu mến anh. Tất cả những gì Francesca biết là chồng cô bị đau đầu, đi nằm, và chết.
Bước ngoặt trong việc chữa trị tai biến mạch máu não đến cùng với việc sử dụng phổ biến của kỹ thuật chụp X quang mạch máu vào những năm 1950. Kỹ thuật này, bao gồm việc tiêm chất không thấu xạ vào các mạch máu dẫn lên não để có thể chụp X-quang hình ảnh sơ đồ mạch máu, được phát triển bởi Egas Moniz tại Bồ Đào Nha năm 1927. Một ghi chú thú vị về lịch sử: Moniz giành được giải Nobel về Y học năm 1949, nhưng không phải là cho công trình vang dội và cứu sống nhiều người trong lĩnh vực chụp X quang mạch máu. Thực tế, ông được vinh danh cho khám phá của mình về thùy não trước như một phương pháp trị một số bệnh tâm lý.
Còn về bệnh sốt rét, đó là một bệnh từ xa xưa. Trong suốt lịch sử được ghi nhận, người ta quan sát được rằng việc tiếp xúc với không khí ấm, ẩm ướt thường gắn liền với các cơn sốt định kỳ, suy nhược, thiếu máu, suy thận, hôn mê, và tử vong. Tên của căn bệnh (malaria) lấy từ tiếng Italia có nghĩa là “khí hại”, và phản ánh niềm tin của tổ tiên chúng ta rằng không khí bản thân nó là thủ phạm. Trong When He Was Wicked, Michael đã nói “chướng khí” là căn nguyên căn bệnh của anh.
Ngày nay chúng ta đã hiểu rằng sốt rét thực ra là một bệnh do ký sinh. Các điều kiện nóng, ẩm ướt bản thân nó không phải thủ phạm, mà đúng hơn là môi trường sinh đẻ cho muỗi thuộc loài Anopheles, sinh vật truyền bệnh. Trong cú cắn của loài côn trùng này, muỗi Anopheles cái vô tình đưa những vi sinh vật nhỏ xíu vào trong cơ thể chủ bệnh không may mắn. Các vi sinh vật này là những ký sinh trùng đơn bào thuộc gen Plasmodium. Có bốn loài Plasmodium có thể nhiễm vào người: falciparum, vivax, ovale và malariae. Một khi đã vào mạch máu, những vi sinh vật này sẽ được đưa đến gan, tại đó chúng sinh sôi với tốc độ dữ dội; trong vòng một tuần, hàng chục ngàn ký sinh trùng này được đưa trở lại vào mạch máu, nơi chúng nhiễm vào các hồng cầu và ăn các tế bào chứa ô xy mang theo hemoglobin ở bên trong. Cứ hai hoặc ba ngày, thông qua một quá trình đồng bộ vẫn chưa được hiểu rõ, những lứa sau của các ký sinh trùng này lại bung ra từ các hồng cầu, dẫn đến sốt cao và những cơn rét run. Trong trường hợp sốt rét falciparum, những tế bào bị nhiễm trở nên nhầy dính, và vón cục lại trong các mạch máu tại thận và não bộ, dẫn đến suy thận và hôn mê—và tử vong, nếu không được chữa trị kịp thời.
Michael thật may mắn. Mặc dù anh không biết việc này, anh nhiễm sốt rét vivax, chúng có thể sống dai dẳng trong gan của bệnh nhân hàng thập kỷ nhưng hiếm khi giết chết nạn nhân. Sự mệt mỏi và các cơn sốt gây ra bởi sốt rét vivax, tuy nhiên, lại rất trầm trọng.
Trong phần cuối cuốn sách, cả Michael và Francesca đều lo lắng rằng tần số lên cơn cao hơn có thể là dấu hiệu cho thấy rằng anh đang bắt đầu chịu thua căn bệnh. Thực tế, với sốt rét vivax, chuyện đó không thực sự quan trọng. Có rất ít tính chu kỳ cũng như nguyên nhân lý giải khi nào một bệnh nhân vivax có thể chịu một đợt sốt rét (ngoại trừ trong trường hợp bị giảm khả năng miễn dịch, như là ung thư, có thai, hoặc AIDS). Thực tế, một số bệnh nhân hoàn toàn không bị lên cơn sốt nữa và sống mạnh khỏe cho đến hết đời. Tôi muốn nghĩ rằng Michael là một trong những người may mắn, nhưng ngay cả có không như vậy, chẳng có lý do gì để nghĩ rằng anh sẽ không sống cho đến già. Hơn nữa, bởi vì sốt rét hoàn toàn không phải một bệnh di truyền, anh không thể truyền nó cho các thành viên trong gia đình mình.
Nguyên nhân của bệnh sốt rét sẽ không được hiểu rõ cho đến vài thập kỷ sau khi When He Was Wicked diễn ra, nhưng các cơ sở cho việc chữa trị đã được biết đến: Thuốc đặc trị có thể được chế ra bằng các sử dụng vỏ của một loài cây cinchona nhiệt đới. Thứ này thường được hòa với nước, gọi là “nước ký ninh”. Ký ninh lần đầu tiên được thương mại hóa tại Pháp vào năm 1820, nhưng việc sử dụng đã khá phổ biến từ trước đó.
Sốt rét đã gần như được loại bỏ khỏi thế giới phát triển, hầu hết là nhờ các nỗ lực diệt trừ muỗi. Tuy nhiên, nó vẫn còn là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong và thương tật cho những người sống tại các nước đang phát triển. Có khoảng 1 triệu đến 3 triệu người chết vì sốt rét falciparum mỗi năm. Con số đó tương đương với cứ ba mươi giây lại có một người chết. Hầu hết các ca tử vong thuộc khu vực phụ cận Sahara Châu Phi, và phần lớn là trẻ em dưới năm tuổi.
Một phần doanh thu từ cuốn sách này sẽ được ủng hộ cho các nghiên cứu phát triển thuốc trị sốt rét.
Thân ái,


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui