Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

6

KẺ LẦM ĐƯỜNG

Kho vũ khí trông quả đúng là “kho vũ khí.” Những bức tường kim loại bóng mờ treo đủ loại kiếm, dao găm, giáo, móc, gậy lông vũ, lưỡi lê, roi, chùy, móc câu và cung. Những bao da mềm mại đựng đầy mũi tên treo lủng lẳng trên móc, rồi còn cả chồng những ủng, xà cạp, và ống bao tay. Không khí ngập mùi kim loại, mùi da thuộc dầu đánh bóng thép. Alec và Jace, không còn để chân trần nữa, đang ngồi bên chiếc bàn dài giữa phòng, cúi đầu chăm chú nhìn vật gì đó ở giữa. Jace ngước lên khi cửa đóng lại sau Clary. “Bác Hodge đâu rồi?” anh hỏi.

“Đang viết thư cho các Tu Huynh Câm.”

Alec kiểm lại cái rùng mình. “Ừ hử.”

Clary chậm rãi bước tới bàn, thừa biết được Alec đang quan sát mình. “Các anh đang làm gì đấy?”

“Đang làm cho xong mấy thứ này.” Jade dịch sang bên để cô có thể thấy những thứ trên bàn ba thanh gậy dài mảnh tỏa ánh sáng bạc nhàn nhạt. Chúng chẳng có vẻ sắc hay nguy hiểm gì hết. “Sanvi, Sansavi và Semangelaf. Chúng là những thiên đao.”

“Trông chúng không giống dao cho lắm. Sao các anh tạo ra nó được? Phép thuật à?”

Alec có vẻ kinh hoảng, như thể cô vừa bắt anh ta mặc váy xòe và biểu diễn một động tác xoay vòng hoàn hảo trong múa ba lê vậy. “Điều buồn cười về người thường là,” Jace nói, chẳng rõ với ai, “họ quá bị ám ảnh bởi phép thuật trong khi họ còn chẳng biết từ đó có nghĩa gì.”

“Tôi biết nó có nghĩa gì chứ,” Clary quạt lại.

“Không, em không biết đâu, em chỉ nghĩ mình biết thôi. Phép thuật là thứ sức mạnh hắc ám và mãnh liệt, chứ không phải chỉ là mấy cây gậy phép lấp la lấp lánh, quả cầu pha lê hay những con cá vàng biết nói đâu.”

“Tôi chưa bao giờ nói nó có liên quan tới cá vàng biết nói, anh...”

Jace phẩy tay, ngắt lời cô. “Chỉ vì em gọi lươn điện là vịt cao su thì lươn điện cũng không thể biến thành vịt cao su được, đúng không? Chúa quả đã cứu mạng mấy tên thần kinh khốn khổ thích tắm cùng vịt.”

“Anh chỉ nói vớ nói vẩn,” Clary nhận xét.

“Không có,” Jace nói, rất kiêu hãnh.

“Có đó,” Alec lên tiếng, khá đột ngột. “Nghe này, bọn này không sử dụng phép thuật, được chưa?” cậu ta nói chêm vào mà không nhìn Clary. “Cô chỉ cần biết có thế thôi.”

Clary những muốn quát lại anh ta, nhưng cố ghìm lại. Alec vốn có vẻ đã không thích cô; chẳng việc gì phải gia tăng thêm lòng thù địch của cậu ấy. Cô quay sang Jace. “Bác Hodge nói em có thể về nhà.”

Jace suýt làm rơi lưỡi thiên đao đang cầm. “Bác ấy nói gì?”

“Để xem qua đồ đạc của mẹ tôi,” cô chữa lại. “Nếu có anh đi cùng.”

“Jace,” Alec thốt lên, nhưng Jace phớt lờ.

“Nếu anh thực sự muốn chứng minh bố hoặc mẹ tôi là Thợ Săn Bóng Tối, chúng ta phải xem qua đồ đạc của mẹ tôi. Những gì còn sót lại của họ.”

“Đi thám hiểm thôi.” Jace cười toe ma mãnh. “Ý hay. Nếu chúng ta đi ngay bây giờ, chúng ta sẽ còn được ba bốn tiếng ban ngày đấy.”

“Cậu có muốn tớ đi cùng không?” Alec hỏi, trong khi Clary và Jace tiến tới cửa. Clary liếc nhìn lại. Anh ta hơi đứng dậy, ánh mắt chờ đợi.

“Không.” Jace không buồn quay lại. “Thế này là được rồi. Clary và tớ có thể tự lo được.”

Cái nhìn Alec ném cho Clary chua như giấm. Cô mừng vì cánh cửa đã đóng lại.

Jace đi trước dẫn đường qua sảnh, Clary phải rảo bước mới theo kịp những sải chân dài của anh. “Em có cầm chìa khóa nhà không?”

Clary liếc nhìn đôi giày. “Có.”

“Tốt. Không phải chúng ta không thể đột nhập vào, nhưng nếu làm vậy thì rủi ro mình quấy rầy bất cứ lực lượng canh phòng nào có mặt tại đấy sẽ cao hơn.”


“Nếu anh đã nói vậy.” Hành lang mở rộng thành một sảnh lớn lát đá hoa cương, cổng kim loại đen trên một trong những bức vách. Chỉ khi Jace ấn nút cạnh cửa làm nó sáng lên thì Clary mới nhận ra đó là thang máy. Thang máy cót két cọt kẹt khi đi lên. “Jace này?”

“Ừ?”

“Sao anh biết tôi mang dòng máu Thợ Săn Bóng Tối? Có cách nào để phân biệt à?”

Thang máy lên tới nơi với tiếng cọt kẹt lần cuối. Jace mở chốt và kéo cửa mở. Nội thất thang máy làm Clary nghĩ tới một cái lồng chim, bốn vách kim loại màu đen và đôi ba chỗ trang trí mạ vàng. “Anh đoán thôi,” anh nói sau khi chốt cửa. “Đấy dường như là lời giải thích hợp lý nhất.”

“Anh đoán à? Hẳn anh phải chắc chắn lắm, vì anh đã có thể giết chết tôi cơ mà.”

Jace nhấn một nút trên tường, thang máy lồng lên di chuyển với tiếng ầm ầm bần bật tới mức cô cảm nhận được âm thanh đó qua từng mảnh xương trên bàn chân mình. “Anh chắc chắn chín mươi phần trăm.”

“Hiểu rồi,” Clary nói.

Hẳn trong giọng nói cô phải thế nào đó, vì anh quay sang nhìn cô.Bàn tay Clary táng thẳng mặt Jace, một cái tát mạnh đến mức làm anh loạng choạng lùi lại. Anh đặt tay lên má, vì ngạc nhiên nhiều hơn là vì đau. “Là vì cái quái gì đây?”

“Vì mười phần trăm kia,” cô đáp, rồi họ đi hết chặng thang máy ra đến ngoài phố trong câm lặng.

Suốt chuyến tàu tới Brooklyn, Jace đắm chìm trong im lặng giận dữ. Dù vậy Clary vẫn đi sát theo anh, cảm thấy có chút tội lỗi, đặc biệt khi cô nhìn theo vết hằn đỏ do cái tát của mình để lại trên má Jace.

Cô chẳng màng đến sự im lặng ấy là mấy; như thể còn cho cô thêm cơ hội suy nghĩ. Cô cứ mãi tái hiện cuộc nói chuyện với chú Luke, nghĩ tới nghĩ lui. Nghĩ đến thì đau đớn lắm, giống như bập mãi chiếc răng gãy xuống môi, nhưng cô không thể ngừng lại được.

Ở xa đầu kia toa tàu, hai thiếu nữ đang ngồi trên băng ghế màu cam mà cười khúc khích với nhau. Kiểu con gái mà Clary không bao giờ ưa được ở trường St.Savier, luôn chưng diện loại giày bít bằng nhựa hồng cùng nước da nâu giả tạo. Trong thoáng chốc Clary tự hỏi có phải họ đang cười mình không, trước khi ngạc nhiên nhận ra họ đang nhìn Jace.

Cô nhớ tới cách cô gái ở quán cà phê nhìn chằm chằm vào Simon. Bọn con gái luôn có vẻ mặt đó khi họ nghĩ ai đó đáng yêu mà. Cô gần quên mất là Jace cũng đáng yêu, sau những gì đã xảy ra ấy. Anh không mang vẻ đẹp mong manh dễ vỡ như Alec, nhưng khuôn mặt Jace thú vị hơn nhiều. Trong ánh sáng ban ngày đôi mắt anh mang màu vàng nâu lóng lánh... và đang nhìn thẳng vào cô. Anh nhướn một bên mày. “Anh giúp gì được em chăng?”

Clary quay ngoắt lại thành kẻ phản bội phe ta ngay. “Những cô gái đằng kia đang nhìn anh kìa.”

Jace khoác ngay vào cái vẻ hài lòng tự mãn. “Tất nhiên rồi,” anh nói. “Anh hấp dẫn chết đi được mà.”

“Anh chưa bao giờ nghe nói khiêm tốn cũng là một nét cuốn hút sao?”

“Chỉ từ những người xấu xí thôi,” Jace tự tin nói. “Có thể là những kẻ ngoan hiền tiếm cứ lấy quả đất này, nhưng trong giờ phút này, thế gian đang thuộc về những kẻ tự cao tự đại. Như anh đây.” Anh nháy mắt với hai cô gái, hai cô nàng cười khúc khích giấu mặt vào tóc.

Clary thở dài. “Sao họ có thể thấy anh vậy?”

“Dùng bùa phép cũng mệt mỏi lắm. Thi thoảng bọn anh chẳng buồn vận dụng đến làm gì.”

Sự cố với mấy cô gái trên tàu hình như khiến tâm tính anh ta khá lên đôi chút. Khi họ rời nhà ga và lên đồi tới nhà Clary, anh rút một trong mấy lưỡi thiên đao ra khỏi túi và bắt đầu xoay qua xoay lại giữa các đầu và trên đốt ngón tay, ngâm nga ư ử.

“Anh có cần thiết phải làm vậy không?” Clary hỏi. “Khó chịu lắm đấy.”

Jace càng ư ử tợn. Là làn điệu ngâm nga lớn tiếng, lai lai giữa bài “Happy Birthday” và “Battle Hymn of the Republic.”

“Xin lỗi đã tát anh,” cô nói.

Jace thôi ư ử. “Cứ mừng là em đã đánh anh chứ không phải Alec đi. Phải cậu ta thì cậu ta sẽ tát lại em ngay.”

“Có vẻ anh ấy chỉ đợi có cơ hội thôi, “Clary vừa nói vừa tiện chân đá lon sô đa rỗng ra khỏi lối đi. “Alec gọi anh là gì đấy nhỉ? Para... gì đó?”

”Parabatai,” Jace đáp. “Nó có nghĩa là một cặp chiến binh chiến đấu cùng nhau – những người gần gũi hơn cả anh em ruột thịt. Alec còn hơn là bạn thân của anh. Bố anh và bố Alec cũng từng là parabatai khi họ còn trẻ. Bố cậu ấy là cha đỡ đầu của anh – vì thế mà anh sống cùng họ. Anh là con nuôi nhà đó.”

“Nhưng họ của anh đâu phải là Lightwood.”


“Không,” Jace nói, và đáng lẽ cô đã hỏi ra họ anh là gì, nhưng họ đã tới nhà cô, và trái tim cô bắt đầu đập mạnh tới nỗi tưởng như những người cách đó hàng dặm còn nghe rõ. Tai cô vang lên tiếng ù ù, và lòng bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi. Cô dừng lại trước dãy rào vuông vắn trước nhà, chầm chậm ngước mắt nhìn lên, tưởng là nhìn thấy những vòng dây màu vàng của cảnh sát niêm phong cửa trước, những mảnh kính vỡ vương vất khắp trảng cỏ, toàn bộ ngôi nhà biến thành đốngđổ nát.

Nhưng chẳng có chút dấu hiệu đổ nát nào cả. Tắm mình trong ráng chiều dịu nhẹ, căn nhà đá nâu dường như đang tỏa sáng. Những chú ong lười nhác bay vo ve quanh những khóm hồng trồng dưới ô cửa sổ phòng Quý Bà Dorothea.

“Căn nhà vẫn như cũ,” Clary nói.

“Bên ngoài thôi.” Jace cho tay vào túi quần jean và rút ra lại một cỗ máy kỳ cục bằng nhựa và kim loại khác mà cô từng nhầm là điện thoại.

“Vậy đây là máy Cảm Ứng? Nó có chức năng gì?”

“Rà bắt tần sóng, giống như radio ấy, nhưng những tần sóng này là sóng quỷ.”

“Bước sóng ngắn do quỷ phát ra?”

“Đại loại thế.” Jace giơ máy cảm ứng ra trước mặt khi tiến dần tới căn nhà. Máy tí tách khe khẽ khi họ bước lên bậc tam cấp, rồi dừng hẳn. Jace cau mày. “Nó bắt được dấu vết các hoạt động, nhưng cũng có thể là do còn vương lại từ đêm đó. Anh không bắt được bất cứ bước sóng mạnh nào cho thấy có quỷ hiện diện ở đây.”

Clary thở hắt ra dù không nhận thức được mình nín thở nãy giờ. “Tốt.” Cô cúi xuống lấy chìa khóa. Khi đứng thẳng dậy, cô thấy những vết cào xước trên cửa trước. Hẳn lần trước trời tối quá nên cô không nhìn thấy chúng. Chúng giống những vết vuốt cào, dài và song song, khắc sâu trên thớ gỗ.

Jace chạm vào tay cổ. “Anh vào trước cho,” anh bảo. Clary muốn nói rằng cô không cần trốn sau lưng anh, nhưng cô không thể nói thành lời. Cô có thể nếm được hương vị của nỗi sợ hãi mình đã cảm nhận khi lần đầu trông thấy quỷ Ravener. Cái vị sắc ngọt và tanh tanh trên đầu lưỡi, giống vị những đồng xu cũ.

Anh dùng một tay đẩy cửa, tay đang cầm máy Cảm Ứng vẫy ra hiệu cho cô theo sau. Vừa vào trong sảnh, Clary liền chớp mắt, cho mắt thích ứng với không gian tranh tối tranh sáng. Bóng đèn trên đầu vẫn hỏng, giếng trời quá bẩn không cho chút ánh sáng nào lọt vào, và bóng tối phủ dày đặc lên sàn nhà đá sứt sẹo. Cánh cửa phòng Quý Bà Dorothea đang đóng kín. Không có lấy một chút ánh sáng nào lọt qua khe hổng dưới cửa. Clary bỗng lo lắng nghĩ liệu có chuyện gì xảy ra với bà lão không.

Jace giơ tay và vuốt dọc thành cầu thang. Khi lấy tay ra thì tay đã âm ẩm, lốm đốm những vệt mang màu đỏ sậm dưới ánh sáng mờ mịt. “Máu.”

“Có thể là máu tôi.” Giọng cô nghe nhỏ xíu. “Từ mấy đêm trước.”

“Nếu vậy thì giờ nó phải khô rồi,” Jace nói. “Đi nào.”

Anh bước lên cầu thang, Clary đi sát theo sau. Đầu cầu thang tối đen, cô phải lần sờ chìa khóa những ba lần trước khitra được đúng chìa vào ổ khóa. Jace nhoài người lên trước, nóng nảy quan sát. “Đừng thở vào cổ tôi,” cô rít lên; hai tay cô lẩy bẩy. Cuối cùng thì lẫy khóa cũng bập vào, ổ khóa lách cách mở ra.

Jace kéo cô ra sau. “Anh vào trước.”

Cô lưỡng lự nhưng rồi cũng bước sang nhường đường cho anh qua. Hai bàn tay cô nhớp nháp, và không phải vì cái nóng. Thật ra bên trong căn hộ khá mát, gần như là lạnh – không khí lạnh buốt từ ngoài sảnh chính lọt vào, khiến cô nổi da gà. Cô cảm thấy gai ốc nổi đầy người khi cô bước theo Jace vào hành lang ngắn dẫn tới phòng khách.

Phòng khách trống không. Trống vốc đến lạnh người, hệt như ngày đầu tiên mẹ con cô chuyển tới đây – những bức tường và sàn nhà trần trụi, mọi đồ nội thất đều biến mất, thậm chí những tấm rèm cũng bị tháo khỏi cửa sổ. Chỉ có những ô nước sơn hơi nhạt hơn trên tường cho thấy nơi những bức tranh của mẹ từng ngự trị. Clary đi như trong mơ, quay người bước vào bếp, Jace theo sau, đôi mắt vàng đang nheo lại.

Bếp cũng trống trải, thậm chí tủ lạnh cũng biến mất, cả ghế, cả bàn – những tủ chạn mở toang, những cái giá rỗng không làm cô nhớ tới một bài hát ru. Cô húng hắng giọng. “Thế lũ quỷ,” cô nói, “muốn gì với cái lò vi sóng của nhà tôi vậy nhỉ?”

Jace lắc đầu, khóe môi trên hơn trễ xuống. “Anh không biết, nhưng giờ anh không cảm nhận được bất cứ sự hiện diện nào của quỷ ở nơi đây. Hẳn chúng phải biến đi lâu rồi.”

Cô liếc nhìn quanh thêm lần nữa. Cô lờ mờ nhận ra, đã có người dọn sạch vũng nước sốt Tabasco bị đổ rồi.

“Em hài lòng chưa?” Jace hỏi. “Ở đây chẳng có gì cả.”

Cô lắc đầu. “Tôi muốn xem phòng mình.”

Có vẻ Jace định nói gì đó nhưng lại thôi. “Nếu em cần,” anh nói và nhét lưỡi thiên đao vào túi áo.

Đèn ngoài hành lang bị hỏng, nhưng Clary không cần lắm ánh sáng để xác định vị trí trong nhà chính mình. Với Jace đi sát sau, cô tìm ra cánh cửa phòng ngủ và chạm tay vào nắm đấm. Nắmcửa lạnh lẽo trong tay cô – quá lạnh tới rát tay, giống như chạm vào tảng băng bằng tay trần. Cô thấy Jace liếc nhìn cô, nhưng cô đã vặn nắm đấm, hoặc đúng ra là đang cố. Nắm cửa chầm chậm chuyển động, gần như là dinh dính, như thể bên kia cửa bị dán với thứ gì đó dính như keo và sền sệt như siro...


Cánh cửa bật tung vào trong, khiến cô ngã bệt xuống. Cô trượt văng đi qua sảnh hành lang đến đập người vào tường, lăn sấp bụng. Trong tai cô vang lên tiếng gầm nho nhỏ khi cô lê mình quỳ dậy.

Jace, lưng áp sát vào tường, đang luống cuống mò trong túi áo, mặt hoàn toàn bất ngờ. Sừng sững trước mặt anh như một người khổng lồ từ trong truyện cổ là một người đàn ông bồ tượng, từ đầu đến chân to lừng lững như cây sồi, một lưỡi rìu to bản được nắm chặt trong bàn tay to tướng trắng ỏn nom giống tay người chết. Những mảnh vải rách rưới bám hờ trên làn da cáu bẩn, còn mái tóc bết lại thành tảng, đầy những đất. Hắn bốc mùi mồ hôi độc và da thịt thối rữa. Clary mừng vì không thể nhìn được mặt hắn – nhìn đằng sau đã quá đủ rồi.

Jace đang cầm thanh thiên đao trong tay. Anh giơ nó lên và hét lớn: “Sansavi!”

Một lưỡi dao từ trong ốngvút ra. Clary nghĩ tới những bộ phim thời xa xưa khi mà những lưỡi lê được giấu trong cây gậy ba toong, chỉ cần gạt nút một cái là lưỡi lê liền bắn ra. Nhưng cô chưa bao giờ thấy một con dao nào thế này: trong như kính, chuôi dao tỏa sáng, sắc ghê người và gần dài bằng cẳng tay Jace. Anh đánh tới, chém thẳng vào gã khổng lồ, giờ đang loạng choạng rống lên lùi lại.

Jace quay phắt lại, chạy về phía cô. Anh tóm lấy tay cô, kéo cô đứng dậy, đẩy cô chạy trước qua hành lang. Cô có thể nghe thấy cái thứ kia đang đuổi theo, ngay sát nút; tiếng bước chân của nó nghe như những quả tạ chì rớt xuống sàn nhà, nhưng lại đang đuổi theo rất nhanh.

Họ phóng ra ngoài lối vào rồi ra đến đầu cầu thang, Jace quay lại đóng sầm cửa. Cô nghe tiếng cách của ổ khóa tự động và hít thở lấy sức. Cánh cửa rung bần bật trên bản lề khi một cú đâm sầm cực mạnh từ bên trong căn hộ tông vào cửa. Clary lùi xuống cầu thang, Jace liếc nhìn cô. Mắt anh long lên nổi hứng khởi thất thường. “Đi xuống! Thoát khỏi...”

Một tiếng rầm nữa vang lên, lần này bản lề phải đầu hàng và cánh cửa bay vèo ra ngoài. Lẽ ra cánh cửa hất Jace bay tưng nếu như anh không di chuyển cực nhanh đến nỗi mắt Clary gần như không theo kịp; đột nhiên anh đã đứng trên bậc thang trên cùng, lưỡi dao sáng loáng trên tay anh tựa sao băng. Cô thấy Jace nhìn cô và hét gì đó, nhưng cô không thể nghe nổi vì tiếng gầm của sinh vật khổng lồ đang lao ra khỏi cánh cửa vỡ tung kia, nhắm thẳng tới anh. Cô dán sát người vào tường khi sinh vật đó phóng qua cô kèm một đợt sóng nóng ran hôi hám – và rồi lưỡi rìu của nó vung lên, xé toạc không trung, chẻ thẳng vào đầu Jace. Anh thụp xuống tránh, lưỡi rìu cắm vào thành cầu thang, bập thật sâu.

Jace phá lên cười. Tiếng cười dường như đã chọc giận sinh vận nọ; chẳng thèm lấy lại rìu, gã lao về phía Jace với nắm tay giương cao. Jace khua thanh thiên đao theo hình vòng cung đẹp mắt, đâm lút cán vào vai gã khổng lồ. Trong khoảnh khắc gã đứng lảo đảo tại chỗ. Rồi gã lao tới, hai tay rướn ra cố tóm lấy. Jace vội bước sang bên, nhưng không đủ nhanh: hai nắm tay to tướng đã kịp tóm được anh khi gã khổng lồ loạng choạng rồi đổ kềnh, kéo theo Jace. Anh hét lên một tiếng; tiếp theo đó là hàng loạt những tiếng động đánh đấm thình thịch rầm rập, và rồi im lặng.

Clary lồm cồm đứng dậy và chạy bổ xuống cầu thang. Jace đang nằm ở chân cầu thang, cánh tay gập lại bên dưới thân mình theo một góc không bình thường. Nằm vắt ngang chân anh là gã khổng lồ, chuôi thanh thiên đao vẫn còn lòi ra khỏi vai hắn. Gã chưa chết hẳn, nhưng hơi thở yếu ớt, máu sủi bọt rỉ ra khỏi miệng. Giờ Clary có thể nhìn thấy mặt gã – trẳng ỏn và mỏng như giấy, chi chít những vết sẹo đen sì kinh dị, gần như che hết ngũ quan trên khuôn mặt. Hai hốc mắt nó là hai cái lỗ sâu hoắm hốc đỏ mưng mủ. Cố không nôn, Clary lóc cóc chạy xuống nốt mấy bậc thang cuối, bước qua gã khổng lồ đang co giật trên mặt đất, đến quỳ xuống cạnh Jace.

Anh vẫn nằm im. Cô đặt một tay lên vai anh, cảm nhận chiếc áo anh ươn ướt máu – máu anh hay máy gã khổng lồ, cô không biết nữa. “Jace ơi?”

Mắt anh mở ra. “Hắn chết chưa?”

“Gần chết,” Clary trả lời ngắn gọn.

“Chết tiệt.” Anh nhăn mặt. “Chân anh...”

“Nằm im.” Cô bò sang bên kia đầu Jace, cho tay dưới tay anh mà kéo. Anh rên rỉ đau đớn khi chân anh thoát ra khỏi cái xác đang co giật của sinh vật kia. Clary thả ra, Jace chật vật đứng dậy, tay trái đặt ngang ngực. Cô đứng dậy. “Tay anh vẫn bình thường chứ?”

“Không. Gẫy rồi,” anh nói. Em cho tay vào trong túi anh nhé?”

Cô lưỡng lự, rồi gật đầu. “Túi nào?”

“Bên trong áo khoác, túi bên phải. Lấy một thanh thiên đao ra đưa cho anh.” Anh đứng im trong khi cô căng thẳng cho tay vào túi áo anh. Cô đang đứng rất gần và có thể ngửi thấy mùi cơ thể anh, mùi mồ hôi và xà bông lẫn với mùi máu. Hơi thở anh phả xuống và cổ cô nhồn nhột. Những ngón tay cô nắm chặt lấy một cái ống và cô rút ra, không dám nhìn anh.

“Cám ơn,” anh nói. Những ngón tay anh nhanh gọn lần trên ống trước khi anh gọi lên: “Sanvi.” Giống như con dao trước đó, cái ống biến thành một con dao ác nghiệt, vầng hào quang từ nó soi sáng gương mặt anh. “Đừng nhìn,” anh vừa nói vừa đi đến đứng trước cái xác của sinh vật mặt sẹo kia. Anh giơ lưỡi dao lên trên đầu hắn rồi cắm xuống. Máu phun như suối từ cổ gã khổng lồ, bắn lên đôi giày của Jace.

Cô cứ nghĩ sinh vật đó sẽ biến mất, co rút lại như cậu thiếu niên cô thấy ở Xứ Quỷ. Nhưng không. Không khí sặc sụa mùi máu: đặc sệt và ngai ngái. Jace khụt khịt lầm bầm gì đó. Mặt anh trắng bệch, dù vì đau hay vì kinh tởm thì cô không rõ. “Anh đã bảo em đừng có nhìn mà.”

“Em nghĩ nó sẽ biến mất chứ,” cô nói. “Trở về không gian của nó – như anh từng bảo.”

“Anh nói đó là điều xảy ra với quỷ khi chúng chết.” Nói rồi anh nhăn mặt, kéo áo khoác ra khỏi vai, để lộ phần trên cánh tay trái. “Đây không phải quỷ.” Anh dùng tay phải rút gì đó ra khỏi thắt lưng. Đó là vật trơn láng có hình dáng gậy phép anh đã dùng để vẽ những vòng tròn chồng lên nhau vào da Clary. Nhìn xuống nó, cô có cảm giác cẳng tay mình sắp bừng cháy.

Jace thấy cô nhìn trừng trừng thì mở mồm cười yếu ớt. “Cái này,” anh nói, “là thanh stele.” Anh chạm thanh stele vào một ấn ký được xăm ngay bên dưới vai, một hình dáng lạ mắt trông gần giống hình ngôi sao. Hai cánh sao nhú ra khỏi phần sao còn lại, rời rạc ra. “Và đây,” anh nói, “là chuyện xảy ra khi Thợ Săn Bóng Tối bị thương.”

Dùng đầu thanh stele, Jace vẽ một đường nối hai cánh sao lại. Khi anh hạ tay, Ấn Ký bắt đầu sáng lên như thể được khắc bằng mực lân tinh. Trong khi Clary quan sát, ấn ký lặn vào da anh, giống như một vật nặng chìm vào trong nước. Nó chỉ để lại một vết tích gợi nhớ mờ nhạt: vết sẹo mờ mờ, trắng trắng, gần như không thể thấy được.

Một hình ảnh xuất hiện lên trong trí Clary. Lưng mẹ cô, phơi ra trong bộ đồ bơi, xương bả vai và đường cong xương sống đầy những vết trắng nho nhỏ. Giống như điều gì đấy cô từng thấy trong mơ – lưng mẹ cô không thực sự trông như vậy, cô biết chứ. Nhưng hình ảnh đó làm cô khó chịu.

Jace thở dài, vẻ mặt căng cứng lại vì đau giờ biến mất. Anh động đậy tay, lúc đầu chậm rãi, sau đó thoải mái hơn, nhấc tay lên hạ tay xuống, nắm mở bàn tay. Rõ ràng tay anh đã không còn gãy nữa.

“Kỳ diệu quá,” Clary thốt lên. “Làm sao anh...”

“Đó là chữ iratze – chữ rune trị thương.” Jace đáp. “Vết chữ rune bằng thanh stele sẽ làm nó được kích hoạt.” Anh nhét thanh đũa phép nhỏ vào thắt lưng và kéo áo khoác lên. Anh dùng mũi giày thúc vào cái xác gã khổng lồ. “Chúng ta phải báo cáo chuyện này với bác Hodge,” anh nói. “Bác ấy sẽ mất hồn,” anh nói thêm, như thể ý nghĩ về cái sự hết hồn của bác Hodge làm cho anh thấy chút hả hê. Jace, Clary nghĩ, là loại người hứng chí lắm khi có chuyện đang xảy ra, kể cho đó là chuyện xấu đi chăng nữa.

“Sao bác ấy lại mất hồn?” Clary hỏi. “Và tôi hiểu là cái thứ này không phải quỷ - vì thế nên máy Cảm Ứng không nhận ra nó, đúng không?”

Jace gật đầu. “Em có thấy những vết sẹo chằng chịt trên mặt hắn không?”

“Có.”

“Những vết sẹo đó là vết tích của thanhstele. Giống cái này này.” Anh vỗ vỗ thanh stele đeo nơi thắt lưng. “Em từng hỏi anh chuyện gì xảy ra khi vẽ Ấn Ký lên người không mang mang dòng máu Thợ Săn Bóng Tối. Chỉ một Ấn Ký có thể làm em bị bỏng, thậm chí là giết chết em, nhưng nếu là rất nhiều ấn ký, những ấn ký mang quyền năng vĩ đại thì sao? Vẽ nó lên cơ thể những người hoàn toàn bình thường, không mang dòng máu Thợ Săn Bóng Tối sẽ thế nào? Em sẽ có cái này.” Anh hất hàm chỉ cái xác chết. “Những chữ rune đó đau đớn điên cuồng. Những kẻ bị vẽ Ấn Ký sẽ phát điên – cơn đau khiến họ không kiểm soát nổi đầu óc. Họ trở thành những kẻ giết người tàn bạo không gớm tay. Họ không ngủ không ăn trừ khi em ép họ, rồi họ chết, thường rất nhanh. Những chữ rune chứa quyền năng to lớn và có thể dùng cho việc tốt – nhưng cũng có thể gây chuyện ác. Những Kẻ Lầm Đường là những kẻ ác.”

Clary kinh hoàng nhìn Jace. “Nhưng sao lại có người muốn tự gây ra điều đó cho mình chứ?”


“Chẳng ai muốn cả đâu. Có kẻ đã làm chuyện đó với họ. Là một pháp sư, có lẽ vậy, hay một kẻ biến thái từ Thế Giới Ngầm. Không ai có thể tạo ra những Kẻ Lầm Đường, ngoại trừ chính những Thợ Săn Bóng Tối với khả năng vẽ Ấn Ký. Những Kẻ Lầm Đường cực kỳ trung thành với ai vẽ Ấn Ký lên người chúng, và chúng giết người không gớm tay. Chúng có thể nghe những lệnh đơn giản nữa. Giống như là sở hữu một – một đội quân nô lệ ấy.” Anh bước qua xác của Kẻ Lầm Đường, liếc ra sau nhìn cô. “Anh quay lên lầu lại đây.”

“Nhưng trên đó chẳng còn gì.”

“Có thể còn vài tên nữa,” Jace nói, nghe như chính anh đang mong chờ điều đó. “Em nên đợi ở đây.” Anh dợm bước lên.

“Ta sẽ không làm vậy nếu ta là cậu,” một giọng nói léo nhéo quen thuộc vang lên. “Sẽ còn có thêm nhiều kẻ như vậy nữa tới.”

Jace, đã sắp lên tới tầng trên, quay ngoắt lại nhìn. Cả Clary cũng vậy, dù cô thừa biết ai đang nói. Cái giọng lụ khụ đó không thể lẫn vào đâu được.

“Quý bà Dorothea?”

Bà lão đạo mạo nghiêng đầu. Bà đang đứng ở lối vào căn hộ của mình, đang mặc thứ gì đó na ná cái lều bằng lụa tím lịm. Những sợi dây chuyền vàng lấp lánh trên cổ tay và chằng chịt quanh cổ họng. Mái tóc dài từng vệt trắng đen xen kẽ xù lên từ búi tóc ghim trên đỉnh đầu.

Jace vẫn đang nhìn. “Nhưng...”

“Còn nhiều gì ạ?”

“Nhiều Kẻ Lầm Đường hơn,” Dorothea trả lời với sự vui vẻ mà Clary cảm thấy không phù hợp với hoàn cảnh này cho lắm. Bà ta liếc nhìn quanh sảnh lớn. “Cô cậu gây ra đống hổ lốn này, đúng không? Ta thừa biết cô cậu cũng không định dọn dẹp gì đâu. Biết quá rồi mà.”

“Nhưng bà là người thường,” Jace nói, cuối cùng cũng nói được hết câu.

“Quá tinh mắt,” Dorothea nói, đôi mắt sáng lên. “Hội Clave quả tình đã làm được cuộc cải cách với cậu nhỉ.”

Sự bối rối trên mặt Jace đang dịu đi, thay vào đấy là vẻ giận dữ đang bừng dậy. “Bà biết hội Clave à?” anh hỏi. “Bà biết về họ, và bà biết có Kẻ Lầm Đường trong căn nhà này, vậy bà không báo động cho họ biết? Mỗi sự tồn tại của Kẻ Lầm Đường thôi đã là tội ác chống lại Hiệp Định rồi...”

“Cả hội Clave hay Hiệp Định đều chẳng làm gì cho ta cả,” Quý bà Dorothea nói, mắt lóe lên ánh nhìn giận dữ. “Ta chẳng nợ họ gì sất.” Trong một thoáng, cái âm giọng New York của bà ta biến mất, thay thế bằng một chất giọng khác, thứ giọng nặng nề, đặc sệt âm địa phương hơn mà Clary không nhận ra.

“Jace, thôi đi,” Clary nói. Cô quay sang Quý Bà Dorothea. “Nếu bà biết về Clave và Kẻ Lầm Đường,” cô nói, “vậy có thể bà biết chuyện xảy ra với mẹ cháu?

Dorothea lắc đầu, đôi khuyên tai lúc lắc theo. Mặt bà ta lộ vẻ thương cảm. “Ta khuyên cháu,” bà ta nói, “hãy quên mẹ cháu đi. Mẹ cháu đi rồi.”

Sàn nhà dưới chân Clary dường như đang nghiêng ngả. “Ý bà là mẹ cháu chết rồi?”

“Không.” Dorothea thốt lên chừng như do dự lắm. “Ta chắc chắn là mẹ cháu còn sống. Trong lúc này.”

“Vậy cháu phải tìm mẹ,” Clary nói. Thế giới dừng nghiêng ngả; Jace vẫn đứng sau cô, đặt tay lên khuỷu tay cô tựa như ôm, nhưng cô chẳng buồn để tâm. “Bà hiểu không? Cháu phải tìm ra mẹ trước khi...”

Quý Bà Dorothea giơ một tay lên chặn lại. “Ta không muốn dây dưa tới chuyện của giới Thợ Săn Bóng Tối.”

“Nhưng bà biết mẹ cháu. Mẹ cháu là hàng xóm...”

“Hội Clave chính thức điều tra vụ việc này.” Jace xen ngang. “Tôi lúc nào cũng có thể trở lại cùng các Tu Huynh Câm.”

“Ôi, vì...” Dorothea liếc nhìn cánh cửa, rồi nhìn Jace và Clary. “Ta nghĩ cô cậu nên vào trong,” rốt cuộc bà ta cũng nói. “Ta sẽ nói cho cô cậu nghe những gì ta biết.” Bà ta dợm bước về phía cửa, nhưng rồi dừng lại trước ngưỡng cửa mà trừng mắt nhìn. “Nhưng nếu cậu dám nói với bất cứ ai rằng ta đã giúp, Thợ Săn Bóng Tối ạ, thì sáng mai cậu sẽ thức giấc với mái tóc dệt bằng rắn và mọc thêm hai cánh tay nữa đấy.”

“Có thêm hai cánh tay nữa có khi lại hay,” Jace nói. “Khá tiện trong lúc chiến đấu.”

“Chẳng hay đâu nếu cúng mọc ra từ...” Dorothea dừng lại và mỉm cười với Jace, không phải là không có ác ý. “Cổ.”

“Kinh,” Jace đã dịu giọng đi.

“Kinh là đúng đấy, Jace Wayland.” Dorothea rảo bước vào căn hộ, cái lều tím lịm bay dập dờn chung quanh bà ta như một lá cờ lòe loẹt.

Clary nhìn Jace. “Wayland à?”

“Họ của anh.” Jace có vẻ choáng. “Không thể nói là anh thích vụ bà ta biết chuyện này.”

Clary liếc nhìn theo Dorothea. Đèn đóm đã sáng choang bên trong căn hộ; cái mùi hương trầm nồng nồng đã tràn ra ngoài cửa, hòa trộn cùng mùi máu tanh tưởi thật khó chịu. “Nhưng mà, tôi nghĩ thôi thì chúng ta cũng nên nói chuyện với bà ấy. Có mất gì đâu?”

“Một khi em dành thêm thì giờ ở thế giới của anh,” Jace nói, “thì em sẽ không bao giờ hỏi lại anh câu đó nữa đâu.”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận