Giờ thứ 31 của 45
Đến sân bay Mamaroneck, Amelia Sachs nhận ra Roland Bell đang lởn vởn bên ngoài hangar. Thêm sáu nhân viên cảnh sát nữa đang đứng gác quanh toà nhà rộng thênh thang. Sachs đoán kiểu gì xung quanh đó cũng bố trí các tay súng bắn tỉa.
Mắt cô nhận ra ngay mô đất nhỏ nơi cô đã nằm thụp xuống để tránh đạn. Cảm giác buồn nôn đến ghê tởm lại trào lên trong bụng Sachs khi cô nhớ đến mùi đất ẩm trộn lẫn với mùi thuốc nổ cordite ngòn ngọt tỏa từ những phát đạn súng ngắn bất lực của mình.
Cô quay lại và lên tiếng chào Bell. “Thám tử.”
Ánh mắt anh liếc về phía cô ngay lập tức. “Ê.” Rồi anh lại tiếp tục lia mắt khắp sân bay. Phong cách miền Nam vui nhộn và dễ gần của anh đã biến đâu mất. Anh đã thay đổi thành con người khác. Sachs nhận ra rằng giờ đây anh và cô cùng chia sẻ một điều không vẻ vang gì. Cả hai đều nổ súng vào tên Vũ công Quan tài và đều bắn trượt.
Cả hai cũng đều từng ở trong khu vực tiêu diệt của hắn và đều sống sót. Mặc dù vậy, Bell vẫn có thể ngẩng cao đầu hơn cô nhiều. Sachs có thể thấy là tấm áo giáp chống đạn của anh còn lưu giữ nguyên những dấu hiệu vẻ vang đó: những vết hằn từ hai đầu đạn bắn sượt qua người anh trong cuộc đọ súng ở ngôi nhà an toàn. Anh đã đứng vững ở vị trí của mình.
“Percey đâu rồi?”, Sachs hỏi.
“Trong kia. Đang hoàn thành công việc sửa chữa.”
“Chị ấy tự làm à?”
“Có lẽ thế. Cô ấy thật đáng nể, thật sự đấy. Không ai có thể tin là một phụ nữ không được…, hừm, nói thế nào nhỉ, không được quyến rũ cho lắm như cô ấy lại có sức hút mạnh mẽ đến thế. Cô thấy chứ?”
Ừ hứ. Đừng có khiến tôi phải gây chuyện thêm.
“Còn ai khác ở đây không? Người của Công ty ấy?” Cô hất đầu về phía khu văn phòng của Hudson Air. “Bên trong vẫn còn ánh đèn.”
“Percey đã cho hầu hết mọi người về nhà rồi. Tay phi công phụ bay cùng cô ấy sẽ tới đây bất kỳ lúc nào. Và có ai đó thuộc Bộ phận Điều hành đang ở bên trong. Đại loại là lúc nào cũng phải có người trực khi đang có chuyến bay, tôi đoán thế. Tôi kiểm tra anh ta rồi. Không vấn đề gì.”
“Vậy là chị ấy định tự bay thật à?”, Sachs hỏi.
“Có vẻ thế.”
“Máy bay vẫn được canh gác thường xuyên chứ?”
“Ừ, suốt từ hôm qua đến giờ. Mà cô đang làm gì ở đây vậy?”
“Cần thêm một số mẫu để phân tích.”
“Cái tay Rhyme đó, anh ta cũng thật đáng nể.”
“Ừ hứ.”
“Hai người làm việc cùng nhau ngay từ hồi đầu à?”
“Chúng tôi mới làm chung một vài vụ thôi”, cô nói lảng. “Anh ấy lôi tôi ra khỏi phòng Quan hệ Công chúng.”
“Đấy chắc hẳn là một việc tốt rồi còn gì. Này, tôi nghe nói là cô thực sự có thể đóng đinh bằng đạn à?”
“Tôi có thể gì cơ?”
“Bắn ấy. Bằng súng ngắn. Cô còn là thành viên đội tuyển bắn súng nữa mà.”
Và lúc này đây tôi đang ở nơi vừa diễn ra cuộc thi mới nhất của mình, cô cay đắng nghĩ thầm. “Chỉ là trò thể thao cuối tuần thôi mà”, cô lầm bầm.
“Bản thân tôi cũng là người thường tập luyện và thi bắn súng ngắn, nhưng nói thật với cô, ngay cả trong một ngày đẹp trời, với một khẩu nòng dài đẹp đẽ nhất và bắn ở chế độ từng phát một, khoảng cách xa nhất mà tôi có thể bắn trúng cũng chỉ là 50 hoặc cùng lắm là 60 thước.”
Cô thầm biết ơn những tâm sự của anh nhưng rồi chợt nhận ra anh cũng chỉ đang cố gắng tìm cách an ủi cô về sự thất bại của ngày hôm qua; những lời đó với cô chỉ là vô nghĩa.
“Có lẽ tôi phải vào nói chuyện với Percey thôi.”
“Ngay bên kia kìa, sĩ quan.”
Sachs đẩy cửa bước vào khoang hangar rộng mênh mông. Cô chậm rãi từng bước, quan sát kỹ càng tất cả những nơi tên Vũ công có thể ẩn náu. Sachs dừng lại sau một dãy hòm chất cao ngất; Percey vẫn chưa nhìn thấy cô.
Người phụ nữ đang đứng trên một giàn giáo nhỏ, hai tay chống bên hông, mắt đăm đăm nghiên cứu mạng lưới chằng chịt đến hoa cả mắt gồm đủ các loại đường ống và dây dẫn của buồng động cơ đang mở nắp. Cô đã xắn cao cả hai ông tay áo, hai bàn tay cũng nhem nhuốc đầy dầu mỡ. Cô tự gật đầu như đang động viên mình rồi chúi đầu hẳn vào trong buồng động cơ.
Sachs đứng như trời trồng tại chỗ, tròn mắt nhìn hai bàn tay của người nữ phi công đang lướt như bay trên cỗ máy, chỉnh lại chỗ này, thăm dò chỗ kia, hàn kim loại vào với kim loại, và siết chặt lại những con ốc bằng các động tác chính xác và dứt khoát từ hai cánh tay gầy gò. Cô vừa lắp xong một ống hình trụ lớn màu đỏ, mà theo Sachs đoán thì là bình cứu hoả dự phòng, trong vòng chưa đến mười giây.
Nhưng có một bộ phận – trông giống như một ống dẫn lớn bên trong bằng kim loại – mãi không chịu vào đúng vị trí.
Percey trèo xuống khỏi giàn giáo, chọn lấy một chiếc cờ lê có hốc xoắn và lại trèo lên. Cô nới lỏng những con ốc, tháo bỏ một bộ phận khác để lấy thêm chỗ cho việc thao tác, rồi lại thử ấn chiếc vòng xuyến lớn vào vị trí.
Không suy suyển chút nào.
Cô ghé vai vào đấy. Cũng không nhúc nhích lấy một inch. Cô lại tháo thêm một bộ phận khác, cẩn thận đặt từng chiếc ốc và đinh vít vào một chiếc khay nhựa đặt dưới chân. Mặt Percey đỏ bừng khi cô loay hoay cố nâng chiếc vòng xuyến bằng kim loại lên. Ngực cô phập phồng vì gắng sức vật lộn với thứ phụ tùng đó. Bất thình lình nó trượt xuống, rơi hẳn ra khỏi vị trí, và đẩy cô ngã ngửa về sau từ trên giàn giáo. Cô chống hai tay và đầu gối để lồm cồm bò dậy. Những dụng cụ và ốc vít được cô cẩn thận xếp trong khay rơi vung vãi trên sàn phía dưới phần đuôi máy bay.
“Không!”, Percey gào lên. “Không!”
Sachs vội bước lên phía trước để kiểm tra xem cô có bị thương không, nhưng cô nhận thấy ngay lập tức cơn xúc động kia chẳng liên quan gì đến việc đau hay không đau cả – Percey chộp lấy chiếc cờ lê to đùng và điên cuồng đập thẳng tay xuống sàn hangar. Sachs dừng lại, khẽ bước nhích vào trong bóng tối cạnh một chiếc thùng carton lớn.
“Không, không, không…” Percey gào lên, đập chan chát xuống mặt sàn láng mi măng rất mịn.
Sachs vẫn đứng nguyên.
“Ôi, Ed…” Cô buông chiếc cờ lê xuống. “Em không thể làm một mình được.” Cô nằm cuộn tròn như quả bóng trên sàn, thở hổn hển như đứt hơi. “Ed… ôi, Ed… Em rất nhớ anh!” Cô nằm yên, cuộn người như một chiếc lá héo, trên sàn nhà sáng bóng và thổn thức khóc.
Rồi, cũng thật bất ngờ, cơn xúc động vụt qua đi. Percey nghiêng người ngồi thẳng dậy, hít một hơi thật dài và gượng đứng lên, lau nước mắt đang giàn giụa trên mặt. Bản năng của người phụ nữ phi công trong cô quay trở lại và cô lúi húi nhặt mớ dụng cụ cùng với những chiếc ốc lên rồi trèo lên giàn giáo. Cô chăm chú nhìn chiếc vòng xuyến tai quái một lúc lâu. Cô kiểm tra các khớp nối rất cẩn thận nhưng vẫn không thể nhận ra những chi tiết máy bằng kim loại bị kẹt ở chỗ nào.
Sachs lùi dần ra cửa chính, đóng cửa đánh rầm một cái, rồi bắt đầu đi thẳng trở lại vào trong hangar, với những tiếng bước chân nghe rất rõ.
Percey quay ngoắt ra, nhìn thấy cô, rồi quay lại với động cơ. Cô giơ ống tay áo lên quệt ngang mặt mấy cái rồi tiếp tục công việc.
Sachs bước thẳng tới dưới chân giàn giáo và đứng nhìn Percey đang vật lộn với chiếc vòng xuyến.
Cả hai người phụ nữ đều không nói gì một lúc khá lâu.
Cuối cùng Sachs lên tiếng, “Thử một cái kích nâng xem.”
Percey quay lại nhìn cô, nhưng không nói gì.
“Chẳng qua là vì độ dung sai của thiết bị quá nhỏ”, Sachs nói tiếp. “Tất cả những gì chị cần là thêm một chút lực. Kỹ thuật nhồi nhét cũ rích ấy mà. Nhưng ở trong trường kỹ thuật họ không dạy cái này đâu.”
Percey cẩn thận săm soi những ngoàm lắp ghép trên các chi tiết kim loại. “Tôi không biết.”
“Tôi thì biết. Chị đang nói chuyện với một chuyên gia đấy.”
Người nữ phi công ngờ vực, “Cô đã từng lắp buồng đốt ột chiếc Lear sao?”.
“Không. Chỉ lắp bugi của một chiếc Chevy Monza. Chị sẽ phải kích nâng toàn bộ động cơ lên nếu muốn với tới chiếc bugi. Thật ra cũng chỉ là với những xe có động cơ V8 thôi. Nhưng bây giờ làm gì còn ai mua một chiếc bốn xi lanh chứ? Ý tôi là mua thế để làm gì?”
Percey quay lại nhìn chiếc động cơ.
“Thế nào?”, Sachs kiên trì. “Một chiếc kích chứ?”
“Nó sẽ làm vênh lớp vỏ ngoài của động cơ mất.”
“Sẽ không vênh nếu chị đặt nó vào chỗ kia.” Sachs chỉ vào một chi tiết kết cấu liên kết động cơ với phần khung đỡ dẫn thẳng tới thân máy bay.
Percey nghiên cứu khớp nối. “Nhưng tôi không có kích. Đúng ra là không có cái nào vừa nhỏ để cho vào đây.”
“Tôi có. Để tôi đi lấy.”
Sachs quay ra ngoài tới chỗ đậu chiếc RRV rồi trở vào cùng với chiếc kích kiểu xếp. Cô trèo lên giàn giáo, hai đầu gối kịch liệt phản đối cố gắng này.
“Đặt đúng vào đây.” Cô chạm vào phần đế động cơ. “Đúng kiểu rầm thép chữ I nhé.”
Trong khi Percey điều chỉnh chiếc kích, Sachs chiêm ngưỡng sự tinh vi của phần động cơ. “Bao nhiêu sức ngựa đây?”
Percey bật cười. “Chúng tôi không tinh bằng sức ngựa. Chúng tôi chỉ tính bằng đơn vị lực đẩy. Đây là động cơ Garrett TFE 731. Công suất hoạt động mỗi động cơ tương đương với 3500 đơn vị lực đẩy.”
“Không thể tin được”, Sachs bật cười. “Chúa ơi.” Cô móc phần tay quay vào trong chiếc kích, vào bắt đầu cảm nhận lực đẩy ngược lại quen thuộc khi cô bắt đầu vặn tay quay. “Tôi chưa bao giờ đứng gần một động cơ tua bin như thế này”, cô nói. “Hồi trước giấc mơ lớn nhất của tôi là được chạy thử một chiếc ô tô lắp động cơ phản lực trên những cánh đồng muối.”
“Đây cũng không phải động cơ tua bin thuần tuý. Hiện tại cũng không còn lại nhiều động cơ tua bin như trước kia nữa. Cũng như những chiếc Concorde vậy. Tất nhiên là những chiếc phản lực quân sự thì vẫn dùng. Còn đây là động cơ phản lực cánh quạt đẩy. Giống như những chiếc máy bay chở khách ấy. Cô nhìn phía trước kia kìa – có thấy những cánh quạt không? Không gì có thể sánh được với những cánh quạt đẩy có tốc độ cố định kia. Động cơ tua bin phản lực thuần tuý hoạt động không hiệu quả ở những độ cao hạn chế. Còn những động cơ này tiết kiệm hơn đến 40% nhiên liệu.”
Sachs thở hổn hển vì gắng sức vặn tay quay của chiếc kích. Percey lại ghé vai dựa vào vòng xuyến và đẩy mạnh. Thiết bị này trông thì không lớn lắm nhưng thực tế thì nặng khủng khiếp.
“Cô biết về xe cộ chứ?”, Percey hỏi, cũng hổn hển không ra hơi.
“Bố tôi. Ông yêu thích xe cộ. Có khi cả buổi chiều hai bố con cũng loay hoay tháo xe ra rồi lại lắp vào. Ấy là những hôm ông không phải đi tuần tra.”
“Đi tuần tra là sao?”
“Bố tôi cũng là cảnh sát mà.”
“Và cô bị lây tình yêu đối với máy móc?”, Percey hỏi.
“Không, tôi chỉ lây phần say mê tốc độ. Và một khi đã nhiễm cái đó thì tối thiểu cũng phải biết thế nào là bộ giảm xóc, thế nào là bộ truyền lực và hiểu biết nhất định về động cơ nếu không thì sẽ chẳng thể nào mà phóng nhanh được.”
Percey hỏi, “Cô đã bao giờ lái máy bay chưa?”.
“Lái ư?”, Sachs mỉm cười vì cách Percey dùng từ đó. “Chưa. Nhưng có lẽ tôi sẽ suy nghĩ về chuyện đó, nhất là khi đã biết dưới cái nắp capô lại là một động cơ hấp dẫn khủng khiếp như thế này.”
Cô vặn thêm một chút nữa, những cơ bắp của cô đau nhức. Chiếc vòng xuyến khẽ rít lên ken két khi nó được đặt vào những vị trí khớp nối.
“Tôi không biết”, Percey ngập ngừng nói.
“Gần được rồi kìa!”
Với một tiếng keng lanh lảnh rất to của kim loại, chiếc vòng xuyến thụt hẳn vào khung đỡ của nó một cách hoàn hảo. Khuôn mặt ngắn ngủn của Percey thoáng nở một nụ cười hài lòng.
“Chỉ cần xoáy chúng vào thôi chứ gì?” Sachs hỏi, cô bắt đầu lắp những chiếc bu lông vào các khe của chúng trên vòng xuyến và quay ra tìm một chiếc cờ lê.
“Ừ”, Percey nói. “Phương châm của tôi là: Vặn đến khi chúng không còn có thể long ra được nữa thì thôi.”
Sachs siết chặt những bu lông vào khe bằng một chiếc cờ lê vặn có lắp thêm bánh cóc. Tiếng dụng cụ lách cách đưa cô quay lại thời trung học, những buổi chiều thứ Bảy mát mẻ cùng với bố mình. Mùi xăng dầu ngai ngái, mùi không khí mùa thu, mùi của món thịt hầm thơm phức toản ra từ căn bếp trong ngôi nhà liền kề của họ ở khu Brooklyn.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...