Chương 3
Mặt trời, như một chiếc đĩa rực lửa, đang trôi về phía chân trời màu tía lúc người thủy thủ bước xuống cầu cảng tới chỗ cỗ xe ngựa đã đợi ở đó từ buổi sáng. “Nó đây rồi - tàu Morning Star”, ông ta nói với Stephen, chàng đang đứng tựa vào cửa xe, lười nhác quan sát cuộc ẩu đả say xỉn diễn ra bên ngoài quán rượu gần đó. Trước khi giơ tay chỉ về phía con tàu, người thủy thủ ném một cái nhìn thận trọng về phía hai người đánh xe, cả hai bọn họ đều cầm súng rất lộ liễu, và đều rất thờ ơ như chủ nhân của họ đối với những sự nguy hiểm tiềm ẩn ở khắp nơi trên bến tàu. “Chính là nó, ở ngay kia kìa”, ông ta nói với Stephen, về con tàu nhỏ vừa mới cập vào cảng, những cánh buồm của nó lờ mờ như những cái bóng trong hoàng hôn. “Con tàu tới nơi hơi trễ”.
Đứng thẳng lên, Stephen gật đầu với một trong hai người đánh xe, chàng ném cho gã thủy thủ một đồng xu vì sự làm phiền của chàng, rồi chàng bước chậm chạp xuống cầu cảng, ước gì mẹ hay chị dâu chàng có thể ở đây với chàng khi vợ chưa cưới của Burleton lên bờ. Sự có mặt của những người phụ nữ đáng ra có thể giúp giảm nhẹ cú sốc khi chàng phải thông báo cái tin buồn ấy cho cô gái, cái tin sẽ làm tiêu tan giấc mơ của cô ấy.
° ° °
“Đúng là ác mộng!” Sheridan Bromleigh hét lên trước sự ngạc nhiên của cậu bé chạy việc trên tàu, người vừa quay lại để nói với nàng lần thứ hai về “một quý ông” đang đợi nàng trên bến cảng - một quý ông mà nàng đương nhiên ngầm hiểu là Ngài Burleton. “Nói ông ta đợi đi. Nói rằng tôi chết rồi. Không, bảo với ông ta rằng chúng tôi vẫn chưa sẵn sàng”. Nàng đóng sầm cửa lại, cài then, và tựa lưng vào cửa, cái nhìn của nàng phóng về phía người hầu gái đang khiếp đảm, cô ta đang ngồi ở mép giường trong cái cabin mà cả hai phải ở chung, vo tròn cái khăn tay trong bàn tay mũm mĩm của cô. “Đây chỉ là ác mộng, và khi tôi thức dậy vào buổi sáng, chuyện này sẽ qua đi, phải không Meg?”
Meg lắc đầu mạnh đến nỗi làm cho những sợi ruy băng trên chiếc mũ lắc lư theo. “Không phải là mơ đâu. Cô sẽ phải nói chuyện với ngài nam tước, nói với ông ta điều gì đó - điều mà ông ta sẽ không bực mình, điều gì đó ông ta sẽ tin”.
“Ồ, chắc chắc là ngoại trừ sự thật”, Sheridan nói một cách cay đắng. “Ý tôi là, nhất định ông ta sẽ chỉ hơi phật ý một chút nếu tôi nói rằng tôi đã thoát khỏi vị hôn thê của ông ta không đúng lúc cho lắm ở một nơi nào đó dọc theo bờ biển nước Anh. Còn sự thật là tôi đã để lạc mất cô ấy!” “Cô không để mất cô ấy, cô ấy đã bỏ trốn! Cô Charise đã chạy trốn với ông Morrison khi chúng ta vừa dừng ở cảng cuối cùng.”
“Bất kể điều đó, vấn đề là cô ấy vẫn đang được giao phó trong sự chăm sóc của tôi, và tôi đã thất bại trong trách nhiệm với bố cô ấy và với ngài nam tước. Không còn gì để làm ngoài việc ra ngoài kia và nói với ngài nam tước điều đó.”
“Cô không được làm thế”. Meg gào lên. Ông ta sẽ ném thẳng chúng ta vào tù! Ngoài ra, cô phải làm sao để ông ta có thể đối tốt với chúng ta vì chúng ta chẳng còn ai khác để mà quay về, chẳng có nơi nào để đi. Cô Charise đã đem tất cả tiền bạc theo, và ở đây chẳng còn lấy một si linh nào để mua vé tàu về nhà.”
“Tôi sẽ tìm một công việc nào đó”. Mặc dù những từ ngữ của nàng rất tự tin, nhưng giọng của Sherry thì run rẩy bởi sự căng thẳng, và nàng nhìn vào cái cabin bé tẹo, vô tình mong muốn có một nơi nào đó để trốn.
“Nhưng cô không có ai giới thiệu hay bảo đảm”, Meg lập luận, giọng của cô nghẹn lại vì nước mắt. “Và chúng ta chẳng có nơi nào để ngủ tối nay và cũng không có tiền để ở trọ. Chúng ta sẽ phải tới khu ổ chuột. Hoặc còn tệ hơn!”.
“Còn gì có thể tệ hơn nữa?” Sheridan nói, nhưng khi Meg định mở miệng trả lời thì Sherry đã nắm lấy một tay và nói với giọng pha chút hài hước và vui vẻ ngày thường, “Không, đừng, tôi xin cô. Đừng nghĩ tới ‘nô lệ da trắng.’” Meg tái nhợt và miệng cô há hốc, giọng cô trở thành tiếng thì thào hoảng hốt. “Nô lệ … da trắng.”
“Meg! Trời ơi. Tôi chỉ nói đùa thôi mà. Một trò đùa vô vị”.
“Nếu cô ra ngoài kia và nói với ông ấy sự thật, họ sẽ ném thẳng chúng ta vào ngục.”
“Tại sao,” Sherry thốt lên, gần như kích động, điều mà nàng chưa từng trải qua trong đời, “Tại sao cô cứ nói mãi về nhà tù vậy?”
“Bởi vì ở đây có luật lệ, thưa cô, và cô - chúng ta - chúng ta đã phá vỡ một vài trong số đó. Dù không chủ định, dĩ nhiên, nhưng họ sẽ chẳng thèm quan tâm. Ở đây, họ sẽ quẳng cô vào ngục - chẳng cần câu hỏi nào, cũng không cần câu trả lời. Ở đây, chỉ có một vài người quan trọng và họ thuộc tầng lớp trên. Sẽ ra sao nếu ông ta nghĩ chúng ta đã giết cô ta, hay lấy trộm tiền của cô ta, bán cô ta, hoặc một vài điều quái quỷ như vậy? Lời nói của ông ta sẽ chống lại cô, và cô chẳng là ai cả, vì vậy luật pháp đứng về phía ông ta.”
Sheridan cố gắng nói gì đó để trấn an hoặc là hài hước, nhưng sức chịu đựng cả về thể xác lẫn tinh thần của nàng đều đã quá mức từ những tuần căng thẳng không hề giảm sút, vật lộn với trận ốm kéo dài suốt chuyến đi trên biển, và sau đó là sự biến mất của Charise hai ngày trước.
Nàng nhận ra rằng ngay từ đầu đáng ra nàng không nên dấn mình vào cái việc điên rồ này. Nàng đã đánh giá quá cao khả năng của mình trong việc đương đầu với một cô nàng mười bảy tuổi được nuông chiều và ngu ngốc, tự thuyết phục bản thân mình rằng với kiến thức và bản tính thực tế, kết hợp với kinh nghiệm trợ giảng của nàng tại Trường Cô Talbot dành cho các quý cô trẻ, và nơi nàng đã theo học, chúng sẽ cho phép nàng xử lý một cách ổn thỏa bất kì rắc rối nào nảy sinh trong chuyến đi. Ông bố nghiêm khắc của Charise đã bị đánh lừa bởi cách cư xử lanh lợi và thành thạo của Sheridan, nên khi bệnh đau tim của ông đột ngột ngăn cản ông khỏi chuyến đi tới Anh, ông đã chọn Sheridan trong số những người xin việc lớn tuổi hơn, nhiều kinh nghiệm hơn để hộ tống con gái ông tới Anh – và Sheridan, nàng chỉ hơn cô ta có ba tuổi. Dĩ nhiên, Charise cũng đã làm điều gì đó với quyết định của ông; cô ta vòi vĩnh và hờn dỗi và nài nỉ rằng Cô Bromleigh sẽ là người hộ tống cô ta, cho tới khi ông cuối cùng cũng chấp nhận. Cô Bromleigh là người đã giúp cô ta viết những bức thư cho ngài Nam tước. Cô Bromleigh, cô ta đã nói với ông, không giống như những người khách có vẻ mặt chanh chua khác mà ông đã từng phỏng vấn; Cô Bromleigh là một người khách thú vị. Cô Bromleigh, cô ta đã cảnh báo ông một cách ranh mãnh, sẽ không để cô ta trở nên quá nhớ nhà tới nỗi muốn trở về Mĩ với cha cô, thay vì việc kết hôn với Nam tước. Đó hoàn toàn là thật, Sheridan đã nghĩ với sự chán ghét. Cô Bromleigh hầu như phải chịu trách nhiệm hoàn toàn vì sự bỏ trốn của cô ta với một người gần như lạ mặt, một hành động bốc đồng dễ dãi giống như tình tiết của một trong những cuốn tiểu thuyết lãng mạn mà Sheridan đã chia sẻ với Charise trong chuyến đi biển. Bác Cornelia đã rất phản đối những cuốn tiểu thuyết đó, và với những “ý tưởng lãng mạn ngu ngốc” họ đặt ra, tới nỗi Sheridan thường phải đọc chúng một cách bí mật, với rèm luôn đóng xung quanh chiếc giường nhỏ của nàng. Ở đấy, trong sự cô đơn, nàng có thể nếm trải niềm phấn khích ngọt ngào của việc một chàng quý tộc bảnh bao - người đã đánh cắp trái tim nàng từ cái nhìn đầu tiên. Sau đó, nàng có thể ngả mình trên gối, nhắm mắt lại, và giả bộ rằng nàng là nhân vật nữ chính, đang khiêu vũ trong vũ hội trong chiếc áo dài lộng lẫy với mái tóc vàng nhạt được vấn cao phức tạp…đi dạo trong công viên với bàn tay xinh xắn đặt trên tay áo chàng và mái tóc vàng nhạt của nàng hé lộ dưới vành chiếc mũ bằng voan sang trọng. Nàng đọc mỗi cuốn tiểu thuyết nhiều lần tới nỗi có thể kể lại những đoạn mà nàng thích nhất trong trí nhớ và thay thế tên nàng vào chỗ nhân vật nữ chính… Chàng Nam tước đã nắm lấy bàn tay Sheridan và nâng lên môi khi chàng khẩn nài với sự nồng nàn bất tử. “Nàng là tình yêu duy nhất của ta...” Bá tước quá choáng ngợp vì vẻ đẹp của Sheridan, tới nỗi chàng mất kiểm soát và hôn lên má nàng. “Thứ lỗi cho ta, nhưng ta không thể tự kiềm chế được. Ta yêu nàng tha thiết!”
Và tiếp theo là phần đặc biệt yêu thích của nàng… phần mà nàng thường thích tưởng tượng nhất: Hoàng tử ghì chặt lấy nàng trong vòng tay mạnh mẽ và siết chặt nàng vào trái tim chàng. “Nếu ta có một trăm vương quốc, ta sẽ đổi tất cả chúng để có nàng, em thân yêu của ta. Ta chẳng là gì cho tới khi gặp nàng.”
Nằm trên giường, nàng đã thay đổi những tình tiết của các cuốn tiểu thuyết, đoạn đối thoại, và thậm chí cả những tình huống và địa điểm để phù hợp với bản thân nàng, nhưng nàng sẽ không bao giờ thay đổi nhân vật nam chính trong tưởng tượng của nàng. Chàng và chỉ có chàng là được giữ nguyên, và nàng biết mọi chi tiết về chàng, vì nàng đã sáng tạo ra bản thân chàng: Chàng rất khỏe, rất đàn ông và mạnh mẽ, nhưng chàng cũng rất tử tế, khôn ngoan, kiên nhẫn và dí dỏm nữa. Chàng cao và rất đẹp trai với mái tóc đen dày và đôi mắt xanh tuyệt đẹp có thể trở nên quyến rũ hoặc sắc sảo hoặc lấp lánh với sự hài hước. Chàng thích cười với nàng, và nàng kể cho chàng những câu chuyện tiếu lâm vui vẻ để khiến chàng có thể làm điều đó. Chàng thích đọc sách, và chàng còn hiểu biết hơn nàng và có thể còn nói nhiều hơn nàng nữa. Nhưng không thể quá trần tục hay tự hào hoặc là phức tạp. Nàng ghét sự kiêu ngạo và tính hẹp hòi và đặc biệt không ưa sự chuyên quyền, độc đoán và nàng đặc biệt ghét việc bị sai bảo một cách vô lý. Nàng có thể chấp nhận những điều như vậy từ những người cha của các học sinh ở trường, nhưng nàng biết nàng khó có thể phục tùng những thái độ trịch thượng của phái nam như vậy từ một người chồng. Và, tất nhiên, nhân vật nam chính trong tưởng tượng của nàng sẽ trở thành chồng nàng. Chàng sẽ quỳ xuống và cầu hôn nàng với những lời lẽ như, “Ta đã không biết hạnh phúc là gì, cho tới khi gặp nàng… Ta đã không biết tình yêu là gì, cho tới khi nàng xuất hiện… Ta đã chỉ là một nửa người đàn ông với một nửa trái tim…cho tới khi gặp nàng”. Nàng thích cái ý tưởng rằng người hùng của nàng sẽ thật sự cần đến nàng, rằng chàng trân trọng các giá trị khác của nàng ngoài sắc đẹp. Sau khi chàng cầu hôn với những từ ngữ ngọt ngào và hấp dẫn đến thế, làm sao nàng có thể nói điều gì khác câu đồng ý? Và vì vậy, với những ngạc nhiên đố kị của tất cả mọi người ở Richmond, Virginia, họ sẽ kết hôn. Sau đó, chàng sẽ đưa nàng đi, và cả Bác Cornelia nữa, tới lâu đài tuyệt diệu của chàng ở trên đồi, nơi chàng hiến dâng hết bản thân mình để khiến họ hạnh phúc, và là nơi mà mọi lo lắng cấp thiết nhất của họ chỉ là nên mặc những chiếc áo nào. Chàng cũng sẽ giúp nàng tìm người cha nàng, và ông cũng sẽ tới sống cùng họ.
Khi nàng một mình trong bóng tối, chẳng còn quan trọng việc nàng không hề cầu nguyện để gặp được một người đàn ông như vậy, và cũng không hề gì nếu bằng một vài sự tình cờ rồ dại nào đó nàng gặp được một người hoàn hảo chuẩn mực như thế, và chàng ta không thèm tặng cho Cô Sheridan Bromleigh lấy một cái nhìn qua. Vào buổi sáng, nàng sẽ chải ngược mớ tóc dày màu đỏ của mình khỏi trán và buộc chặt nó một cách đơn giản ở gáy, rồi nàng sẽ tới trường học, và không ai sẽ có thể biết rằng cô Bromleigh nghiêm nghị, người luôn được biết đến như là một “bà cô” đối với các học sinh, nhân viên, phụ huynh, lại là một kẻ lãng mạn hết thuốc chữa trong trái tim mình.
Nàng đã đánh lừa tất cả mọi người, cả bản thân nàng nữa, trong việc nghĩ rằng nàng là hình ảnh thu nhỏ của tính thực tế và hiệu quả. Giờ đây, kết quả của sự tự tin quá mức của Sheridan chính là việc Charise sẽ phải sống suốt đời trong cuộc hôn nhân với một Quý ông bình thường thay vì một Quý ngài, và người đàn ông đó có thể khiến cuộc đời cô ta trở nên vô cùng nghèo nàn nếu anh ta không còn cách nào hơn. Nếu bố của Charise không chết vì tức giận và nỗi đau xé lòng, thì không nghi ngờ gì cả ông ta chắc chắn sẽ giành cả quãng đời còn lại tìm ra những cách hiệu quả nhất để khiến cuộc sống của Sheridan và Bác Cornelia trở nên khốn khổ. Và Meg nhút nhát, tội nghiệp, người hầu gái bị bóc lột của Charise suốt năm năm qua, chắc chắc sẽ bị đuổi mà không có tấm giấy chứng nhận nào, điều đó sẽ hủy hoại một cách rất hiệu quả cái viễn cảnh kiếm được một vị trí tử tế của cô ta. Và đấy đã là những khả năng tốt nhất!
Những viễn cảnh này chỉ dựa trên giả thuyết là Sheridan và Meg có thể có khả năng trở về nhà bằng cách nào đó. Nếu Meg đúng, và Sheridan đã bị gần như bị thuyết phục bởi điều đó, thì Meg sẽ phải giành cả phần đời còn lại trong tù, và Sheridan Bromleigh – một Sheridan Bromleigh “nhạy cảm, thạo việc” - cũng sẽ là bạn tù của cô. Những giọt nước mắt sợ hãi và hối hận làm cay xè hai mắt của Sherry khi nàng nghĩ tới những tai họa mà nàng đã gây ra, và tất cả chỉ bởi vì sự quá tự tin đến ngây thơ và mong ước ngu ngốc của nàng là được nhìn thấy thành phố London lấp lánh và tầng lớp quý tộc sang trọng như nàng đã đọc trong những cuốn tiểu thuyết của mình. Nàng đáng lẽ nên nghe lời Bác Cornelia, người đã giảng giải cho nàng nhiều năm qua rằng khao khát được nhìn thấy những cảnh tượng phi thường kì diệu như vậy thì cũng tương đương với mong muốn với tay ra ngoài tầm với của bản thân; rằng lòng kiêu hãnh là một tội lỗi trước Chúa như sự tham lam và lười biếng; và rằng sự khiêm tốn ở một người phụ nữ sẽ hấp dẫn một quý ông hơn nhiều so với một sắc đẹp bình thường. Bác Cornelia đã đúng với hai thứ đầu tiên trong số những niềm tin đó, Sheridan nhận ra một cách muộn màng. Sherry đã cố gắng để ý tới sự cảnh báo của bà, nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa bác nàng và bản thân nàng đã khiến những lời cảnh báo về chuyến đi tới Anh khó lòng làm cho Sherry chấp nhận: Bác Cornelia thích những gì có thể đoán trước được. Bà đã lớn lên với những lễ nghi, luôn gìn giữ những lề thói ngày qua ngày hoàn toàn giống nhau tới nỗi đôi khi điều đó khiến Sherry cảm thấy như muốn khóc vì tuyệt vọng. Chương 4
Khi nàng nhìn chằm chằm một cách bế tắc vào Meg tội nghiệp ở phía bên kia khoang tàu bé nhỏ, Sherry ước một cách chân thành rằng nàng có thể trở lại Richmond, ngồi với bà bác của nàng trong căn nhà nhỏ ba phòng họ ở chung, thưởng thức một bình trà ngon theo lệ thường, và chờ đợi cả cuộc đời với trà ấm và sự tẻ nhạt.
Nhưng nếu Meg đúng về luật của nước Anh... thì Sheridan sẽ không bao giờ có thể về nhà, không thể nhìn thấy bác của nàng nữa, và cái ý nghĩ ấy gần như là hủy hoại nàng.
° ° °
Sáu năm trước, khi nàng lần đầu tiên đến sống cùng với chị gái của mẹ, cái viễn cảnh sẽ không bao giờ gặp lại Cornelia Faraday sẽ làm cho Sheridan hoàn toàn hân hoan, nhưng cha của Sheridan không cho nàng một sự lựa chọn. Cho đến khi đó, ông đã đưa nàng đi từ nơi này tới nơi khác với mình trên chiếc xe ngựa chứa đầy các loại hàng hóa, từ những miếng da lông thú và nước hoa đến những chiếc bình sắt và chỉa rơm, những đồ xa xỉ và nhu yếu phẩm mà ông bán hoặc đổi chác ở những nhà nông dân và những túp lều trên dọc “hành trình” của họ. “Hành trình” của họ là bất cứ ngã ba đường nào họ tình cờ gặp và thấy cuốn hút - thường là đi về phía nam, dọc theo bờ biển phía đông vào mùa đông và phía bắc vào mùa hè. Thỉnh thoảng họ rẽ sang phía tây khi ánh chiều tà đặc biệt rực rỡ vẫy gọi, hoặc họ di chuyển theo hướng tây bắc bởi tiếng suối chảy róc rách ở hướng đó. Vào mùa đông, khi tuyết đôi khi làm cho việc di chuyển khó khăn hoặc không thể, luôn có một người nông dân hoặc một người giữ kho cần thêm những bàn tay giúp đỡ tự nguyện, và người cha Ai len của nàng sẽ lao động chân tay tạm thời cho vài đêm.
Kết quả là, vào khoảng thời gian Sheridan 12 tuổi, nàng đã ngủ ở mọi chỗ từ một cái chăn trong vựa cỏ khô đến cái giường lông chim trong một căn nhà nơi cư trú của một đám những quí bà vui vẻ, những người mặc những bộ áo dài sa tanh rực rỡ với những đường viền cổ quá trễ khiến bộ ngực như chực rơi ra ngoài ngay. Nhưng dù cho bà chủ nhà cho sự tạm bợ của họ là một bà vợ nông dân khỏe mạnh hay vợ của người thuyết giáo có gương mặt nghiêm nghị hay một quí bà trong bộ váy sa tanh màu tím có đính những chiếc lông chim màu đen, những bà chủ nhà của họ gần như luôn kết thúc bằng việc mê mẩn Patrick và thể hiện như mẹ một cách quá mức với Sheridan. Bị quyến rũ bởi nụ cười thường trực, lúc nào cũng nhã nhặn, và sự sẵn lòng làm những công việc nặng nhọc và kéo dài để đổi lấy nơi ăn chốn ngủ, những phụ nữ sớm bắt đầu nấu những suất ăn đặc biệt lớn cho ông, nướng những món tráng miệng ông ưa thích và tự nguyện vá lại quần áo cho ông.
Những thiện chí đó cũng dành cho cả Sheridan. Họ trêu ghẹo nàng một cách trìu mến về sự rối bù của mái tóc đỏ rực của nàng và cười khi cha nàng gọi nàng là “cà rốt nhỏ” của ông. Họ để nàng đứng trên chiếc ghế đẩu khi nàng tình nguyện giúp rửa bát, và khi nàng rời đi, họ đưa cho nàng những mảnh vải vụn hay những cái kim tuyệt đẹp để nàng có thể tạo ra một cái chăn mới hay cái váy cho búp bê của nàng, Amanda. Sheridan ôm chặt họ và nói với họ là nàng và cả Amanda đếu rất biết ơn, và họ mỉm cười, vì họ biết nàng thực có ý đó. Họ hôn nàng nụ hôn tạm biệt và ước rằng nàng sẽ trở nên cực kì xinh đẹp vào một ngày nào đó, và Sheridan đã cười lớn bởi vì nàng hiểu không thể nào họ thực có ý đó. Sau đó họ nhìn Sheridan và cha nàng đánh xe đi trên chiếc xe hàng khi họ vẫy tay chào tạm biệt và gọi to “Chúc may mắn” và “Sớm quay lại nhé”.
Thỉnh thoảng những người mà họ ở cùng gợi ý cha nàng để mắt tới đứa nào đó trông số con gái họ, hay con gái người láng giềng của một trong những con gái của họ hoặc con gái hàng xóm của họ, và nụ cười luôn nằm trên khuôn mặt Ailen đẹp trai của ông, nhưng đôi mắt ông tối lại khi ông nói, “Tôi rất biết ơn nhưng không. Thế sẽ là tội cưới một người trong khi đã kết hôn với người khác, khi mà mẹ của Sheridan vẫn sống trong tim tôi”.
Nhắc đến mẹ của Sheridan đã là một việc có thể làm mờ đi nụ cười trong mắt ông, và Sheridan đã luôn bị gia tăng căng thẳng cho đến khi ông trở lại là chính mình. Nhiều tháng sau khi mẹ nàng và em trai nhỏ của nàng chết vì căn bệnh được gọi là băng huyết, cha nàng cư xử như một một người xa lạ trầm lặng, ngồi bên lò sưởi trong cái buồng nhỏ, uống whiskey, bỏ bê những vụ mùa đang chết dần trên cánh đồng và chẳng buồn trồng trọt thêm gì nữa. Ông không nói chuyện, không cạo râu, hầu như ko ăn gì và dường như không quan tâm đến con la của họ có chết đói hay không. Sheridan , lúc đó được 6 tuổi và quen với việc giúp đỡ mẹ nàng, đã cố gắng tiếp quản những việc vặt trong nhà. Cha nàng dường như không có ý thức về những cố gắng của Sheridan cũng như về những sai sót và nỗi buồn của nàng. Cho đến một ngày định mệnh, nàng làm bỏng cả tay mình cũng như cháy những quả trứng nàng làm cho ông. Cố gắng không khóc vì sự đau đớn trên cánh tay cũng như sự đau đớn trong tim, nàng kéo lê đống đồ giặt xuống dòng sông cùng với những thứ còn sót lại của xà phòng giặt quần áo. Khi nàng quỳ gối xuống bờ và thận trọng nhúng cái áo sơ mi bằng vải flannel của cha nàng vào nước, những cảnh tượng của quá khứ hạnh phúc trong cùng một hoàn cảnh quay trở lại ám ảnh nàng. Nàng nhớ cách mẹ nàng thường ngân nga khi bà giặt quần áo ở đây trong khi Sheridan trông nom Jamie nhỏ bé tắm. Nàng nhớ cách Jamie ngồi trong nước, nói ríu rít hạnh phúc, đôi bàn tay mũm mĩm của cậu bé vỗ vỗ vào nước trong niềm vui sướng đùa nghịch. Mẹ rất thích hát, bà đã dạy Sheridan những bài hát từ nước Anh và hát chúng với nàng khi họ làm việc. Thỉnh thoảng bà dừng hát và đơn giản lắng nghe Sheridan, đầu bà nghiêng về một phía, một nụ cười kỳ lạ, tự hào trên khuôn mặt bà. Nhiều khi bà quàng lấy Sheridan trong một cái ôm thật chặt và nói điều gì đó tuyệt vời, như là “Giọng của con thật ngọt ngào và rất đặc biệt – giống như là con vậy.”
Những kỉ niệm về những ngày điền viên làm mắt Sheridan đau đớn khi nàng quì gối xuống dòng nước. Những lời của bài hát ưa thích của mẹ thì thầm trong tâm trí nàng, cùng với kỉ niệm về nụ cười của mẹ nàng, đầu tiên là với Jamie khi cậu bé cười khúc khích và té nước, và tiếp đến là vào Sheridan, người cũng thường xuyên bị ướt. “Hát cái gì đó cho chúng ta,“ bà sẽ nói vậy, “Hát cho chúng ta, thiên thần ...”
Sheridan cố gắng làm theo lời yêu cầu còn nhớ, nhưng giọng nàng nức nở và đôi mắt nàng sũng nước mắt. Dùng lòng bàn tay, nàng lau đi những giọt nước mắt chỉ để nhận ra rằng chiếc áo sơ mi của cha nàng đang trôi xuôi dòng, đã vượt khỏi tầm với của nàng, và thế là Sheridan đã thua trận đánh để trở nên dũng cảm và trưởng thành. Gập đầu gối tỳ vào ngực, nàng vùi khuôn mặt trong cái tạp dề của mẹ nàng và nức nở với sự đau buồn và hoảng sợ. Vây xung quanh với hoa dại mùa hè và mùi cỏ tươi, nàng rung rung, khóc cho đến khi cổ họng nàng đau và những lời của nàng chỉ là nhịp điệu rên rỉ thì thầm. “Mẹ ơi”, nàng than khóc, “Con nhớ mẹ, con nhớ mẹ, con nhớ mẹ. Con nhớ Jamie. Làm ơn hãy quay trở về với cha và con. Xin hãy quay trở về, xin hãy quay trở về. Ôi, làm ơn. Con không thể làm một mình, mẹ ơi. Con không thể làm được. Con không thể, Con không thể -“
Lời cầu nguyện đau buồn của nàng bị ngắt quãng bởi giọng nói của cha nàng – không phải cái giọng thẫn thờ, thiếu sức sống, xa lạ khủng khiếp của ông trong vài thàng vừa qua, mà là cái giọng nói trước đây- giờ khàn khàn với sự lo lắng và tình yêu. Cúi mình xuống bên cạnh nàng, ông kéo nàng vào hai cánh tay mình.
“Cha cũng không thể làm một mình,” ông nói, bế nàng chặt hơn dựa vào ông. “Nhưng cha sẽ đánh cá là chúng ta có thể cùng làm với nhau, con yêu”.
Sau đó, sau khi ông lau nước mắt cho nàng, ông nói, “Con có thích rời khỏi đây và đi du lịch, chỉ có con và cha? Chúng ta sẽ làm ỗi ngày là một cuộc phiêu lưu. Cha đã từng có những cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Đó là cách cha đã gặp mẹ con như thế nào – cha đã có một cuộc phiêu lưu ở nước Anh, ở thung lũng Sherwyn. Một ngày nào đó chúng ta sẽ trở lại thung lũng Sherwyn, cha và con. Chỉ không phải là cách cha và mẹ con đã rời đi. Lần này, chúng ta sẽ trở lại theo một cách cao quý.”
Trước khi mẹ của Sheridan chết, bà đã nói một cách lưu luyến về ngôi làng đẹp như tranh ở nước Anh nơi bà đã được sinh ra, về miền quê tuyệt đẹp của nó, về những con đường thẳng hàng cây, và những điệu nhảy bà đã tham gia trong nhưng căn phòng hội hè ở đó. Bà thậm chí còn đặt tên Sheridan theo một loại hoa hồng đặc biệt đã nở trong nhà cha xứ, một loài hoa hồng đỏ đặc biệt mà bà nói nó nở vô số dọc hàng rào quanh nhà cha xứ. Mối bận tâm của cha Sheridan với sự trở lại thung lũng Sherwyn dường như bắt đầu sau cái chết của mẹ nàng. Tuy nhiên, điều làm Sheridan khó hiểu trong một khoảng thời gian dài là chính xác tại sao cha nàng muốn quay trở lại nơi đó nhiều đến vậy, đặc biệt khi người đàn ông quan trọng nhất trong làng dường như là một con quái vật quỉ quyệt, cao ngạo, Địa chủ Faraday, người khống chế tất cả mọi người và người sẽ không làm một người hàng xóm tốt bụng chút nào khi cha nàng xây căn nhà lớn của ông bên cạnh nhà ông ta, khi đó là dự định của ông. Nàng biết cha nàng lần đầu tiên gặp Địa chủ Faraday khi ông đưa đến một con ngựa quý từ Ai len mà lão đã mua cho con gái, và nàng biết rằng từ khi cha nàng không còn họ hàng thân thuộc còn sống ở Ailen, ông đã quyết định ở lại đây làm chân giữ và huấn luyện ngựa cho điền chủ. Nhưng mãi cho đến khi nàng 11 tuổi nàng mới phát hiện ra rằng lão Địa chủ Faraday xấu xa, lạnh lùng, đáng ghét, cao ngạo thực sự lại chính là cha của mẹ nàng! Nàng luôn tự hỏi tại sao cha nàng lại mang mẹ nàng đi xa khỏi ngôi làng yêu dấu và sau đó đưa bà đến nước Mỹ, cùng với chị gái của mẹ nàng, người sau này định cư ở Richmond và từ chối nhúc nhích bất kì phân nào nữa. Chỉ hơi lạ là ngoài quần áo mặc trên người và một chút tiền ít ỏi, họ mang theo một chú ngựa tên là Vạch kết thúc – chú ngựa mà mẹ nàng thích đến nỗi phải mang nó theo và trả cả tiền vận chuyển nó, và vậy mà bà đã bán nó không lâu sau khi họ tới nước Mỹ.
Một vài lần cha mẹ nàng đã nói về chuyến đi từ nước Anh, nó luôn luôn có vẻ vội vàng sao đó và gần như cũng không hạnh phúc, nhưng nàng không thể tưởng tượng tại sao nó lại trở nên như vậy. Thật không may, cha nàng không hề sẵn lòng làm thỏa mãn sự hiếu kì của nàng ở điểm này, điều này buộc nàng không có sự lựa chọn nào ngoài chấp nhận kiềm chế sự hiếu kì của nàng và đợi cho đến khi họ xây xong căn nhà lớn ở thung lũng Sherwyn để nàng có thể tự tìm hiểu ra. Nàng lập kế hoạch để đạt được mục tiêu của nàng bằng việc hỏi tất cả các câu hỏi được che đậy một cách cẩn thận một khi nàng ở đó. Còn theo nàng hiểu, cha nàng định đánh cược vào lá bài và xúc xắc để đạt được mục tiêu của ông, với bất kì khoản tiền nào mà họ có thể để dành và ông cũng thường tìm được những cuộc đỏ đen dọc đường. Sự thật là, ông đơn giản không có vận may với cả bài lẫn xúc xắc, nhưng ông tin là điều đó sẽ thay đổi vào một ngày nào đó. “Tất cả những gì cha muốn, con yêu,” ông nói với một điệu cười toe toét “chỉ là đúng bàn chơi với vận may trường. Cha đã có vài lần như thế trong thời kì của cha, và nó lại đang tới. Cha có thể cảm thấy nó”.
Vì chưa bao giờ ông nói dối nàng, nên Sherry cũng tin vào điều đó. Và như thế họ lại tiếp tục cùng nhau rong ruổi, chuyện trò về nhiều chủ đề từ tầm thường như là những thói quen của loài kiến cho tới to tát như là sự hình thành vũ trụ. Với một số người, kiểu sống lang bạt của họ chắc hẳn là lạ lắm. Ban đầu Sherry có vẻ cũng cảm thấy như vậy, lạ lẫm và sợ hãi, nhưng nàng đã sớm trở nên yêu thích nó. Trước khi họ rời trang trại, nàng thực sự nghĩ là cả thể giới rộng lớn trông cũng giống hệt như đồng cỏ nhỏ bé của họ và rằng thật khó mà có ai khác sống ở phía bên kia ranh giới của nó. Còn giờ đây mỗi chỗ ngoặt đều có những cảnh tượng mới và sự háo hức gặp gỡ những con người thú vị dọc đường, những người cùng một hướng đi – những người du hành đến và đi từ những nơi rất xa và ngoại lai như Mississippi, hay Ohio, hay thậm chí cả Mexico nữa! Từ họ, nàng đã nghe những câu chuyện kì lạ về nhưng nơi xa xôi, những phong tục đáng ngạc nhiên, và những cách sống kì lạ. Và bởi vì nàng đối xử với tất cả mọi người giống như cha nàng - với sự thân thiện, nhã nhặn và thích thú - nhiều người trong số họ chọn lựa đi chung cùng xe của nhà Bromleigh vài ngày trong một khoảng thời gian hoặc thậm chí là vài tuần. Dọc đường Sheridan đã học thêm thậm chí nhiều hơn: Ezekiel và Mary, cặp vợ chồng da đen với làn da trơn bóng như than, mái tóc xoăn đen, và những nụ cười ngập ngừng nói với nàng về một nơi gọi là Châu Phi, nơi mà những cái tên của họ thật khác biệt. Họ dạy cho nàng những khúc thánh ca lạ kì, có nhịp điệu, nó không hẳn là một bài hát, nó khiến tinh thần nàng mạnh mẽ và sôi nổi.
Một năm sau khi Mary và Ezekiel đi con đường riêng của họ, một người Anh-điêng tóc bạc với làn da dãi dầu sương gió và nhăn nheo như da khô xuất hiện trên ngã rẽ của con đường trong một ngày mùa đông xám xịt, cưỡi trên một con ngựa đốm đẹp tuyệt sung sức và đầy năng lượng trong khi người cười ngựa đã già và mệt mỏi. Sau khi được sự động viên đáng kể từ cha Sheridan, ông ta buộc con ngựa vào đằng sau chiếc xe, trèo lên khoang xe và trả lời câu hỏi của Sheridan, ông ta nói tên mình là Chó Nằm Ngủ. Tối đó, ngồi bên đống lửa trại, ông ta đáp lại câu hỏi của Sheridan về những bài hát của người Anh-điêng bằng việc đưa một màn biểu diễn kì lạ, màn biểu diễn dường như bao gồm những âm thanh từ yết hầu được đệm bằng việc đập lòng bàn tay lên đầu gối. Nó nghe thật kì lạ và không êm ái đến nỗi Sheridan đã phải nén lại một nụ cười vì sợ làm tổn thương đến những cảm xúc của ông ta, và sau đó ông ta dường như hiểu đó là sự thích thú một cách hoang mang của nàng. Ông ta đột nhiên dừng lại và nheo mắt. “Bây giờ,” ông nói, với giọng đột ngột và ra lệnh, “hãy hát một bài”.
Lúc đó, Sheridan đã quen ngồi quanh đống lửa trại và hát với những người lạ cũng như nói chuyện với họ và như thế nàng hát - một bài hát Ailen mà cha nàng đã dạy nàng hát về một người đàn ông trẻ tuổi đã mất đi tình yêu của mình. Khi nàng hát đến phần về người đàn ông trẻ đang khóc trong tim cho người thiếu nữ xinh đẹp, Chó nằm ngủ phát ra một tiếng đè nén trong cổ họng ông nghe như một tiếng khịt mũi và một tiếng cười. Một cái nhìn nhanh qua đám lửa tới cái vẻ mặt thấtkinh của ông chứng minh suy đoán của nàng là đúng, và lần này là Sheridan dừng lại ở nốt giữa.
“Khóc,” Người Anh-điêng nói cho nàng với một giọng kiêu căng, trịnh thượng trong khi chỉ ngón tay vào nàng “là dành cho phụ nữ”.
“Ồ” nàng nói, thất vọng, “Cháu - cháu đoán những người đàn ông Ailen, vâng, khác biệt bởi vì bài hát nói là họ khóc, và Papa đã dậy nó cho cháu, và ông ấy là người Ailen”. Nàng tìm sự xác nhận từ cha nàng và nói ngập ngừng, “Đàn ông từ những vùng quê cũ có khóc, đúng không, Papa?”
Ông bắn cho nàng một cái nhìn vui vẻ khi ông đổ cặn còn lại của cốc cà phê vào đống lửa và nói, “Nào, bây giờ, con yêu, thế nếu mà cha nói họ làm như thế, và Ngài Chó Nằm Ngủ rời chúng ta với ý nghĩ rằng Ailen là một nơi buồn bã, đầy những chàng trai thểu não tất cả trái tim họ khóc hết nước mắt và ruột để ngoài da thì sao? Đó không phải là một điều tốt đúng không? Và bây giờ nếu cha nói là họ không khóc, con có lẽ sẽ thôi nghĩ về bài hát và cha thành ra nói dối, vậy cũng không tốt chút nào”. Với một cái nháy mắt bí ẩn, ông kết thúc, “Giả sử cha nói với con là nhớ sai bài hát đó, và đó thực sự là những người Ý mới khóc thì sao nhỉ?” Ông đã diễn đạt tất cả như thể nó là một phần của trò chơi ưa thích “Giả sử” của họ, một trò chơi họ đã sáng tạo ra và chơi thường xuyên cho qua thời gian trong suốt ba năm lang bạt. Thỉnh thoảng trò chơi cũng về những sự kiện nghiêm túc có khả năng có thật, như kiểu “Giả sử những con ngựa đi khập khiễng thì sao.” Thỉnh thoảng nó lại ngớ ngẩn kiểu “Giả sử một bà tiên đến và cho chúng ta một điều ước thì sao nhỉ”, nhưng không quan tâm đến tiền đề, kết quả luôn hướng tới giải pháp có thể tốt nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Sheridan chơi rất khá, đến nỗi cha nàng phải tự hào tuyên bố rằng nàng khiến ông rất vất vả để giữ hòa với nàng. Sheridan nhăn trán tập trung một chút, rồi nàng đưa ra giải pháp với một điệu cười khúc khích: “Con nghĩ cha tốt nhất là giả vờ có một số thứ cha phải làm bây giờ, vì thế cha không phải trả lời câu hỏi. Nếu cha nói bất cứ một điều gì, nó chắc chắn sẽ hạ cha xuống những cây tầm xuân”.
“Con đúng đấy”, ông nói, cười, sau đó ông nghe những lời khuyên của nàng sau khi chúc Chó Nằm Ngủ một buổi tối tốt lành một cách lịch sự. Cuộc trao đổi vui vẻ thậm chí không kiếm nổi một nụ cười yếu ớt từ người Anh-điêng khắc kỉ, nhưng qua ánh lửa, ông gửi tới Sheridan một cái nhìn thật lâu và mãnh liệt, rồi ông ta cuộn chân và biến mất vào cánh rừng trong đêm tối không một lời từ biệt.
Buổi sáng tiếp theo, Chó Nằm Ngủ đề nghị cho nàng cưỡi chú ngựa của ông –một niềm vinh dự mà Sheriddan nghi ngờ là nảy sinh từ mong muốn của ông được ngồi thoải mái trên chiếc xe mà không chịu thừa nhận như vậy và bằng cách đó để giữ mặt mũi cho ông. Sheridan, người chưa từng cưỡi bất cứ cái gì, ngoại trừ con ngựa già, võng lưng kéo xe cho họ, quan sát con vật xinh đẹp, sinh động với một chút kích động và khá nhiều lo sợ hồi hộp. Nàng gần như đã từ chối khi nàng bắt gặp cái nhìn đầy thách thức trên khuôn mặt người Anh-điêng. Cẩn thận xen vào một âm thanh hối tiếc trong giọng nói của nàng, nàng hướng sự chú ý vào việc họ không có một cái yên cương. Chó Nằm Ngủ gửi cho nàng một cái nhìn ngạo mạn và cao ngạo khác và nói cho nàng rằng các thiếu nữ người Anh-điêng cưỡi ngựa không yên và ngồi dạng chân.
Cái nhìn không chớp mắt của ông, kèm theo cái cảm giác là ông biết nàng sợ, nhiều hơn là nàng có thể chịu đựng. Sẵn sàng liều mạng sống và chân tay còn hơn là cho ông một lý do để đánh giá thấp nàng, và cũng như tất cả những đứa trẻ Ailen, nàng bước qua tới chỗ ông và nhận lấy cái dây thừng buộc ngựa từ tay ông. Ông không đề nghị giúp nàng trèo lên, vì thế nàng dẫn con ngựa qua cái xe, trèo lên xe, rồi mất vài phút cố gắng dắt khéo léo con ngựa tới một vị trí gần đủ để vắt chân lên lưng nó. Khi mà nàng đã trèo lên lưng ngựa, nàng ước nàng đã không làm được thế. Từ trên lưng ngựa, mặt đất trông như rất xa, và rất rất cứng, nàng ngã năm lần trong ngày hôm đó, và nàng có thể hầu như cảm giác được người Anh-điêng và con ngựa bướng bỉnh của ông ta đang cười nàng. Khi nàng chuẩn bị trèo lên trong lần thử thứ sáu, nàng quá tức giận và quá đau nhức đến nỗi nàng giật mạnh cái dây thừng, túm lấy cái tai con ngựa và gọi nó là một con quỉ, dùng một từ tiếng Đức mà nàng đã được một cặp vợ chồng người Đức dạy trên đường về Pennsylvania, rồi nàng tự nhấc bản thân lên khoang xe và giận dữ nắm quyền chỉ huy cưỡi ngựa. Mất mấy phút để nàng nhận ra loài ngựa Anh-điêng đúng là hạng thân lừa ưa nặng bởi vì con ngựa dừng việc bước sang ngang và lồng lên và chạy nước kiệu ổn định một cách hồ hởi.
Tối đó, khi nàng ngồi cạnh đống lửa trại quan sát cha nàng nấu súp, nàng đổi vị trí cho đỡ đau lưng và vô ý bắt gặp cái nhìn của Chó Nằm Ngủ, cái nhìn mà nàng đã cố tránh kể từ lúc nàng buộc lại con ngựa vào xe vào lúc sớm. Thay vì lời nhận xét bẽ bàng về khả năng cưỡi ngựa kém cỏi của nàng so với các cô gái Anh-điêng, Chó Nằm Ngủ nhìn nàng không chớp mắt trong ánh lửa bập bùng và hỏi một câu dường như chẳng ra đâu vào đâu. “Tên của cháu có ý nghĩa gì?”
“Tên của cháu có ý nghĩa gì á”? Nàng nhắc lại sau một thoáng suy nghĩ.
Khi ông ta gật đầu, nàng giải thích rằng nàng được đặt tên theo một loài hoa nở trên mảnh đất của mẹ nàng ở nước Anh, ở nơi mà phải vượt qua biển. Ông ta làu bàu không tán thành, và Sheridan đã rất giật mình đến nỗi thốt lên. “Ồ, vậy thì, tên của cháu nên có ý nghĩa như thế nào ạ ?”
“Không phải là hoa, cháu ấy” ông ta nói, xem xét cẩn thận khuôn mặt tàn nhang và mái tóc ngỗ ngược của nàng. “Lửa, cháu đấy. Ngọn lửa. Thắp sáng.”
“Cái gì? Ôi!” nàng nói, cười hé ra sự thông cảm. “Ông muốn nói mái tóc của cháu trông giống như đang cháy bởi vì màu của nó đúng không?“ Mặc cho bản tính xa cách, nói chuyện cộc lốc, và con ngựa vô lễ của ông ta, Sheridan, như thường lệ, thân thiện một cách tự nhiên, tò mò dai dẳng và không đủ khả năng tức giận đến một giờ, “Papa gọi cháu là ’Cà rốt’ bởi vì mái tóc của cháu,” nàng nói với một nụ cười. “Cà rốt là một loại rau màu cam... giống như... như ngũ cốc là một loại rau,” nàng thêm vào. “Đó là tại sao ông ấy gọi cháu là ’cà rốt’”.
“Người da trắng không giỏi đặt tên như người Anh-điêng.”
Lịch sự kiềm chế để khỏi chỉ ra rằng đặt tên theo một con chó không hề thích hợp như là được nhắc đến như một loại rau, Sheridan nói, “Vậy cái tên nào người Anh-điêng sẽ đặt cho cháu?”
“Tóc của lửa,” ông thông báo, “Nếu cháu là một đứa con trai, tên của cháu là Khôn ngoan lâu năm.”
“Cái gì?” Sheridan ngây ra hỏi.
“Cháu đã khôn ngoan sẵn rồi!” ông làm cho giải thích một cách vụng về, “Khôn ngoan, nhưng không bị già. Mà trẻ tuổi.”
“Ôi, cháu thực sự thích được gọi là khôn ngoan!” Sheridan kêu lên, ngay tức thì đảo lại quyết định trước đây, quyết định nàng sẽ rất thích ông ấy, thật vậy. "Khôn ngoan lâu năm," nàng nhắc lại, đưa một cái nhìn hạnh phúc sang người cha đang thích thú.
“Cô bé con” ông mâu thuẫn, làm cụt hứng niềm vui sướng của nàng với thái độ trọng nam. “Đàn bà con gái thì không gọi là khôn ngoan.Gọi cháu là Tóc của lửa.”
Sheridan quyết định dù sao cũng sẽ thích ông và kiềm chế sự trả miếng tức giận rằng cha nàng kiểu gì cũng nghĩ nàng thông minh, trái ngược với quan điểm của ông ta. “Tóc của lửa là một cái tên đẹp” thay vì thế nàng nói.
Ông ta cười lần đầu tiên, một nụ cười ranh mãnh đã xóa đi hàng chục tuổi trên khuôn mặt ông và khiến nó rõ ràng là ông biết rõ sự kiềm chế trên khuôn mặt của nàng đối với sự khiêu khích của ông. “Cháu Khôn ngoan lâu năm,” ông ta nói, nụ cười của ông ta mở rộng ra khi ông ta nhìn cha nàng và gật đầu.
Cha nàng gật đầu đồng ý trở lại, và Sheridan quyết định, cũng như mọi lần rằng cuộc sống thật vui vẻ, và rằng cho dù mỗi người bên ngoài có khác nhau đến mấy, thì bên trong cũng rất giống nhau. Họ thích cười và nói chuyện và mơ mộng... và giả vờ rằng họ luôn dũng cảm, không bao giờ đau đớn, và nỗi sầu muộn chỉ là tâm trạng không vui thoáng qua. Và thường như thế.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...