Chợ tranh cổ là một con phố thoạt nhìn chỉ như con ngõ hẹp không có gì nổi bật, sau khi vào mới nhận ra là chốn thần tiên, có quầy hàng và cả cửa hàng, trên sạp hàng và trong cửa hàng bày la liệt đồ bằng ngọc, đồ bằng đá, tiền cổ, sách cổ, sách quý cái gì cũng có.
Cửa hàng nào cũng vắng tanh vắng ngắt nhưng xem ra những người chủ cửa hàng cũng không lo chuyện mưu sinh, bọn họ ngồi ngoài cửa tiệm phe phẩy cái quạt hương bồ, ăn bơ làm biếng một cách cực kỳ vui vẻ.
Đường Tiểu Mạt đang buôn bán.
Cô nàng đứng ở trước cửa tiệm đồ cổ đậm phong cách cổ xưa, xung quanh là những khung gỗ hồng, trên đầu là một tấm biển nền đen đề chữ vàng, còn phía sau cô ta, chính giữa trên bức tường là một bức tranh hoa và chim thời dân quốc được vẽ trên chất liệu thủy tinh, ánh sáng hắt lên kết hợp cùng mái tóc đủ màu của cô nàng khiến cho cả hai đều vô cùng nổi bật.
Có một người đàn ông đang đứng trước chiếc tủ vuông để mua tranh, người nọ mặc vest, đi giày da, bụng phệ, có vẻ là một tên béo giàu có, dường như còn đeo tóc giả để giấu đi mái đầu hói loáng ở tuổi trung niên của mình.
Đường Tiểu Mạt ra vẻ bí mật lấy một bức tranh ra, đến lúc mở tranh thì mắt người kia đã nhìn chằm chằm không dời.
Hai người đứng dưới tán một gốc cây cổ thụ, giữ khoảng cách tương đối với Đường Tiểu Mạt để cô không thể phát hiện ra dễ dàng.
Tạ Lam Sơn nheo mắt nhìn, anh không biết bức tranh này nên ghé lại hỏi Thẩm Lưu Phi: “Tác phẩm của ai thế?”
Thẩm Lưu Phi liếc mắt qua bức tranh rồi hờ hững nói: “Bức Mai Đỏ của Ngô Xương Thạc*, tiếc là hàng nhái, lại còn nhái không khéo.”
*Ngô Xương Thạc (1844-1927) được đánh giá là một trong bốn họa gia Trung Quốc của thế kỷ 20, dẫn đầu giới họa gia vào thời Mạt Thanh và thời đầu Trung Hoa Dân Quốc.
Tạ Lam Sơn hỏi: “Không khéo ở điểm nào?”
Thẩm Lưu Phi đáp: “Hoa mai mà người này vẽ gần như có thể đánh tráo với tranh của Ngô Xương Thạc, ngòi bút mượt mà, liền mạch không gián đoạn, nhưng cậu nhìn góc dưới bên phải chỗ thân cành của bức tranh ấy, có dấu vết thay mực rõ ràng.”
Dân tay ngang cũng hóng hớt, không nói thì anh chẳng để ý nhưng khi nhìn một cách tỉ mỉ hơn thì đúng là có quét thêm một nét.
Tất nhiên gã đàn ông trông có vẻ giống sếp kia không nhìn ra được, gã móc một cái bọc đen căng phồng ra, không quét điện thoại mà trả luôn bằng tiền mặt, gã đưa cho Đường Tiểu Mạt năm tập nhân dân tệ rồi hỏi cô nàng: “Tôi sẽ tặng bức tranh này, không nhìn ra là giả chứ?”
Đường Tiểu Mạt vỗ ngực bồm bộp rồi bắt đầu đếm tiền xoèn xoẹt.
“Một bức tranh giả thôi, có đáng giá đến thế không?” Tạ Lam Sơn khẽ nhíu mày, anh hỏi Thẩm Lưu Phi, “Thầy Thẩm không ngăn lại à?”
“Người có lòng kẻ có dạ, người tặng là gian thương còn kẻ nhận là tham quan, để từng người nhận lấy bài học cho mình, chẳng phải rất tốt sao?” Thẩm Lưu Phi liếc nhìn Tạ Lam Sơn, “Chưa kể tôi chỉ là họa sĩ chứ không phải cảnh sát, không có nghĩa vụ đi khuyên răn.”
Y nói đúng, Tạ Lam Sơn đi theo Thẩm Lưu Phi lượn một vòng quanh các cửa hàng gần đó, tìm ông chủ của một cửa hàng bán tranh giả để hỏi thăm tình hình, có vẻ người này quen biết Thẩm Lưu Phi nên tiếp đón bọn họ đon đả, hỏi gì đáp nấy.
Gã đàn ông cầm được bức Mai Đỏ trong cửa hàng của Đường Tiểu Mạt mà như thể lấy được món bảo vật nào đó, gã ngẩng đầu ưỡn ngực rời đi đầy hãnh diện.
Ông chủ cửa hàng nhìn theo bóng lưng gã rời đi thì nhún vai cảm thán: “Bút tích gốc của Ngô Xương Thạc đem đi đấu giá ít nhất cũng phải bảy con số, cái người này chắc chắn là muốn đi hối lộ nhưng lại không chịu bỏ ra từng đó tiền.”
Tạ Lam Sơn tò mò: “Chẳng nhẽ không phân biệt được giữa bản gốc và hàng nhái sao?”
“Hàng nhái mà làm khéo thì có thể thay thế đánh tráo, nhưng bức đó thì không thể, cùng lắm chỉ tầm bảy tám trăm thôi,” Ông chủ cửa hàng là dân trong nghề liếc qua đã biết thật giả tốt xấu, ông ta bĩu môi với Thẩm Lưu Phi, “thầy Thẩm là họa sĩ nổi danh, cũng nghiên cứu các bộ sưu tập thư pháp hội họa, nhìn qua là biết thôi.”
Thẩm Lưu Phi giải thích cho Tạ Lam Sơn: “Về cơ bản thì hiện giờ có hai loại tranh nhái, một là tuân theo một cách cứng nhắc để sao chép y nguyên, hai là sử dụng kỹ thuật in công nghệ cao để sao chép trực tiếp.
Cách thứ nhất thì thử thách khả năng của họa sĩ nhưng điểm mạnh là có thể vẽ những tác phẩm có phong cách thống nhất với họa sĩ nổi tiếng nhưng khác biệt nội dung, nếu không có bản gốc để so sánh thì rất khó để nhận ra.”
Chủ cửa hàng gật đầu: “Đúng đúng đúng, ví dụ cậu bắt chước Tề Bạch Thạch hay Ngô Xương Thạc chẳng hạn, họ có rất nhiều tác phẩm, những bức thất truyền từng được ghi lại trong sách cũng nhiều, có sẵn giấy Tuyên Thành cuối thời nhà Thanh, tìm họa sĩ lành nghề thì có thể vẽ ngay tại chỗ cho cậu, mang đi đấu giá chưa chắc đã bị nhận ra.”
Thẩm Lưu Phi nói tiếp: “Cách thứ hai thì có độ chính xác cao, rất khó phát hiện điểm khác biệt nếu không có kính lúp, nhưng điều kiện tiên quyết là cậu phải có bản gốc.”
Khi Thẩm Lưu Phi nói chuyện, ông chủ cửa hàng vừa gật đầu vừa nháy mắt ẩn ý với Tạ Lam Sơn.
Ý của ông ta là mình cũng có thể tìm cửa, dù là đồ ăn trộm hay hàng nhái thì đều có thể bán giúp anh, thậm chí còn có thể gửi cho nhà đấu giá ở nước ngoài.
Tạ Lam Sơn hiểu ra, dịch vụ nơi này cung cấp chính là sản xuất và bán hàng giả, bảo sao Thẩm Lưu Phi lại dẫn anh tới đây tìm manh mối, có vẻ như là đã đến đúng chỗ rồi.
Tạ Lam Sơn vẫn còn thắc mắc muốn hỏi chủ cửa hàng, nhưng quay lại nhìn thì thấy Đường Tiểu Mạt đã ra khỏi cửa tiệm của cô nàng.
Có lẽ cô ta chỉ trông hộ người ta, chưa tới giờ đóng cửa đã chuẩn bị rời đi.
Đường Tiểu Mạt cũng thấy Tạ Lam Sơn từ xa, cô nàng trợn mắt há hốc mồm đầy phô trương rồi lập tức vắt chân lên chạy.
Tạ Lam Sơn vơ một nắm kẹo trong đ ĩa trái cây mời khách của chủ cửa hàng rồi sải bước đuổi theo.
Thẩm Lưu Phi không cần ông ta chào hỏi cũng nhanh chóng đi ra ngoài, vít động cơ xe mô-tô vòng ra đầu còn lại của phố đồ cổ để chặn đường.
Đường Tiểu Mạt chạy nhanh như một chú thỏ đang sợ hãi, nhưng con đường trước mắt đã bị Thẩm Lưu Phi và xe máy của y chặn lại, đăng sau thì Tạ Lam Sơn đã đuổi tới nơi.
Tạ Lam Sơn kéo Đường Tiểu Mạt lại một cách nhẹ nhàng thay vì cứng ngắc lôi cô nàng qua, sau một hồi giãy giụa, Đường Tiểu Mạt lại dùng mánh cũ, định lột quần áo rồi hét lên đổ cho anh quấy rối.
Đoán trước cô nàng sẽ chơi bài này, anh không chờ Đường Tiểu Mạt hét lên đã vươn tay ra giơ thẻ cảnh sát về phía người đi đường: “Cảnh sát phá án, truy quét hành vi khiêu dâm và các hoạt động bất hợp pháp.”
Người qua đường nhìn dáng vẻ Đường Tiểu Mạt nhuộm tóc lòe loẹt, quần áo nhếch nhác thì đều bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ rập khuôn, bọn họ bĩu môi lắc đầu, tin tưởng và bỏ đi.
Đường Tiểu Mạt tức điên: “Anh chửi tôi là gái gọi à?!”
Vẻ mặt Tạ Lam Sơn rất nghiêm túc, anh nói với cô nàng: “Tôi chỉ muốn mời cô về phối hợp điều tra, chắc chắn cô đã đọc tin, ‘Lạc Thần Phú Đồ’ bị đánh cắp, ông già mang ‘Lạc Thần Phú Đồ’ về nước cũng đã chết rồi.”
“Nếu anh có bằng chứng tôi ăn cắp thì cứ bắt, chẳng qua giờ tôi chỉ mang vài đồng tiền mặt theo người, cùng lắm cũng chỉ tạm giữ mười lăm ngày.” Vậy mà Đường Tiểu Mạt cũng biết chút ít về pháp luật, cô nàng ra vẻ bất cần, tuyên bố rõ ràng mình sẽ không phối hợp điều tra, “Sau mười lăm ngày, tôi sẽ được thả ra.”
“Ừ,” Tạ Lam Sơn gật đầu, “trộm cắp sẽ không bị phán lâu, nhưng tàng trữ ma túy thì lại khác.”
Đường Tiểu Mạt nghệt ra: “Là sao?”
Tạ Lam Sơn bĩu môi nhìn về phía miệng túi áo cô nàng, anh cười nói: “Cô nhìn đi.”
Đường Tiểu Mạt lục túi của mình, lấy ra một nắm thuốc viên màu sắc sặc sỡ, cô nàng ngẩn ra tại chỗ.
Vừa nãy Tạ Lam Sơn có tiếp xúc chút ít với cô, vậy mà lại có thể nhét mấy thứ này vào trong túi áo mình khi cô không hề hay biết.
“Với trọng lượng này thì chắc phán bảy năm đấy.” Tạ Lam Sơn lắc đầu, móc còng tay trong túi ra huơ huơ, “Tốt nhất là cô em nên đi theo tôi, không thì tôi chỉ có thể còng tay cô em giải đi thôi.”
“Không có cảnh sát nào xảo trá như anh cả.” Chuyện đến nước này thì buộc phải ngoan ngoãn nghe lời, Đường Tiểu Mạt cũng không tự tin lắm về bản thân, dù sao bình thường cô nàng cũng hay ăn cắp ăn trộm, lại còn suốt ngày lăn lộn trong mấy quán bar và câu lạc bộ đêm, tìm được một gói thuốc phiện trong túi thật sự là chuyện lớn.
“Muốn bắt một con cáo thì phải giống cáo hơn nó.” Tạ Lam Sơn lại lắc cái còng tay, “Giờ tôi hỏi cô đáp, lần trước cô tới tố cáo, tại sao lại nói bức ‘Lạc Thần Phú Đồ’ đó là tác phẩm của bạn cô, lúc đó tranh còn chưa được trưng bày chính thức ở Trung Quốc mà.”
“Tôi nhìn thấy ảnh trên mạng, bức tranh đó có một dấu vết đặc biệt, là do tôi để lại.”
Thẩm Lưu Phi cũng đi tới, y nghe được cuộc trò chuyện giữa Tạ Lam Sơn và Đường Tiểu Mạt thì sắc mặt bỗng trở nên khác thường: “Bạn cô tên là gì?”
“Tôi nói mấy anh cũng chẳng tin, lần trước đội trưởng Đào của mấy người đã chửi tôi khai gian, kêu tái phạm sẽ tạm giữ tôi.”
“Tên đó là đồ đầu đất, tôi linh hoạt hơn cậu ta nhiều, cô em có thể nói cho tôi nghe xem.” Tạ Lam Sơn thử khích lệ cô nàng.
Đường Tiểu Mạt đắn đo mãi, ngập ngừng một hồi rồi rốt cuộc vẫn nói ra: “Bức ‘Lạc Thần Phú Đồ’ là do ông nội tôi vẽ, trước đây ông ấy từng làm quản lý dưới quyền Trương Văn Lễ, nhưng ông ấy đã ngã xuống núi và mất tích sáu năm về trước.”
Tạ Lam Sơn và Thẩm Lưu Phi nhìn nhau, bọn họ đều cảm thấy rất bất ngờ và kinh ngạc, nếu Đường Tiểu Mạt nói thật thì rõ ràng phía sau vụ án này dính líu đến rất nhiều chuyện khác, không đơn giản như bọn họ mới phân tích.
“Tôi đã nói hết những gì mình biết rồi,” Đường Tiểu Mạt lấy đống thuốc đủ màu trong túi ra rồi đưa cho Tạ Lam Sơn, sốt sắng như muốn thoát khỏi củ khoai lang nóng ngay lập tức, “mau cầm thuốc của anh đi đi!”
Tạ Lam Sơn trợn mắt nhìn cô nàng, vẻ mặt anh đầy vô tội như thể không hiểu cô đang nói gì.
Sau khoảng mười giây diễn nhập tâm không thua gì vua điện ảnh, anh chợt bật cười móc hai viên thuốc từ trong túi ra, giơ tay búng đồng thời ngẩng đầu lên để chúng rơi vào miệng một cách chuẩn xác.
Sau đó nụ cười của anh dành cho Đường Tiểu Mạt đang ngây ngốc nhìn trân trân lại càng tươi hơn, anh phóng điện: “Đây là kẹo trái cây.”
“Anh… sao anh lại thế được cơ chứ?!” Đường Tiểu Mạt sững sờ, sợ hãi quay sang nhìn Thẩm Lưu Phi rõ ràng không cùng một phe với mình rồi lắp ba lắp bắp, “Sao anh ta… sao anh ta lại thế được?!”
Thẩm Lưu Phi cũng không ngờ Tạ Lam Sơn còn chơi trò này, sau một hồi ngẩn ra, khóe miệng y vô thức nhếch lên.
Cái tên này bụng toàn ý đồ xấu xa, tay trơn hơn cá chạch, cũng xảo quyệt hơn cả hồ ly.
“Tôi làm sao nào, tôi đã nói gì?” Vậy mà Tạ Lam Sơn còn giữ khuôn mặt nghiêm trang, kiên quyết dạy dỗ cô nàng, “Công an chúng tôi là những người có nề nếp kỷ luật, sao có thể giở trò xảo trá, dựng chuyện gài bẫy đây?”
Đường Tiểu Mạt đi theo Tạ Lam Sơn tới cục thành phố Hán Hải rồi khai tất tần tật những gì mình biết ra.
Cô nàng nói ông của mình tên là Đường Triệu Trung, cũng là một họa sĩ, tiếc là ông không có sự nghiệp xuôi chèo mát mái, thường xuyên bị đám tự xưng là nhà phê bình chửi cho bờm đầu, cuối cùng chẳng bán nổi bức tranh nào.
Theo lời ông nội Đường thì thời buổi này giá trị đảo lộn chẳng biết đâu mà lần, giới nghệ thuật giới văn hóa giới giải trí, giới nào cũng vậy cả, người giỏi nịnh nọt, biết lăng-xê, biết móc nối sẽ trở thành kẻ có quyền, còn những người thợ chân chính lại chẳng có cơm ăn.
Về sau Đường Triệu Trung vì miếng cơm manh áo mà buộc phải hạ cái tôi họa sĩ của mình xuống, nộp đơn ứng tuyển làm quản lý của phòng tranh, ông quen biết Trương Văn Lễ vào thời điểm đó.
Khi ấy Trương Văn Lễ còn chưa phải giám đốc điều hành của phòng tranh Hạc Mỹ mà chỉ là một phó giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của Học viện mỹ thuật tỉnh.
Nghe Đường Tiểu Mạt nói, Trương Văn Lễ bình dị thân thiện, quan hệ khá tốt với Đường Triệu Trung, mỗi khi tan học về nhà cô đều thấy Trương Văn Lễ và ông nội mình đang trò chuyện hăng say với nhau, nhưng khi đó cô còn quá nhỏ nên không hiểu và cũng không nhớ được nội dung nói chuyện là gì.
Sau khi trở thành quản lý của phòng tranh của Học viện mỹ thuật tỉnh, Đường Triệu Trung đã tiếp xúc với rất nhiều tác phẩm thư pháp và hội họa cổ xuất sắc mỗi ngày, thế là từ tự sáng tác trở thành mô phỏng theo, kỹ thuật vẽ của ông ngày càng nhuần nhuyễn và hoàn thiện, dù là hoa, chim hay giang sơn non nước thì đều giống hệt tác phẩm gốc, ngay cả những người sành sỏi cũng không thể phân biệt được.
Đường Tiểu Mạt nói: “Bức Mai Đỏ của Ngô Xương Thạc mà mấy anh nhìn thấy chính là do ông tôi vẽ.”
Thẩm Lưu Phi rất lịch sự nhưng cũng cực kỳ thẳng thắn: “Xin lỗi tôi phải nói thẳng, bức Mai Đỏ kia của ông cô còn kém xa nguyên tác.”
Đường Tiểu Mạt quýnh lên: “Đó là do ông ấy cố tình! Ông ấy sợ có người dùng tranh của mình để lũng đoạn thị trường nên lần nào vẽ cũng cố ý để lộ ra một hai nét bút lỗi, khiến người ta nhận ra đó là tranh giả, không phải hàng gốc.”
Thẩm Lưu Phi gật đầu: “Bảo sao.”
Bảo sao hoa mai trong tranh có bút lực dẻo dai, táo bạo không hề gò bó, nhưng khi vẽ đến phần thân cành thì lại như biến thành người khác.
Y ngẫm nghĩ rồi hơi nhíu mày: “Hình như tôi từng nghe tới tên ông của cô ở đâu đó.”
Đường Tiểu Mạt biết người này sống ở Mỹ, cô nàng gật đầu ra vẻ hiểu nhưng thực ra lại chẳng hiểu gì: “Liệu anh có người bạn nào ở nước ngoài từng mua tranh do ông tôi vẽ không? Đôi khi ông tôi cũng sẽ chép tranh sơn dầu, chỉ cho vui thôi, ông ấy từng chép một bức ‘Thiếu nữ đeo hoa tai ngọc trai*’, mặt là mặt tôi, cũng không đeo khuyên tai luôn, dù sao thì mấy lỗ hổng rõ rành rành đó đều do ông tôi cố tình để lộ ra.”
Thật ra từng nghe tên ở đâu cũng không quan trọng, Thẩm Lưu Phi khẽ gật đầu rồi nói tiếp: “Về cơ bản thì chép tranh thư pháp và tranh vẽ có thể chia thành bốn loại gồm sao chép, phỏng theo, bắt chước và làm giả, sao chép là dùng giấy mỏng đè lên tác phẩm gốc rồi can từng nét một; phỏng theo là đặt bản gốc lên bàn rồi viết hoặc vẽ theo nó; bắt chước là chỉ hướng theo kết cấu bút pháp của bản gốc, có thể không cần đặt bản gốc trước mặt; còn làm giả là tiện tay mà không có căn cứ cơ sở nào, hoặc trực tiếp in ấn theo bản gốc.
Cô nói ông nội mình sau khi tới phòng trưng bày nghệ thuật của Học viện mỹ thuật tỉnh mới bắt đầu chép tranh thư pháp và tranh vẽ của những người nổi tiếng, vậy rốt cuộc ông cô thuộc loại nào?”
Tạ Lam Sơn không hiểu những cách thức nhái thư pháp và tranh vẽ của Trung Quốc trong hàng nghìn năm qua, anh hỏi: “Chắc ông Đường sẽ không làm giả đâu, nhưng mà sao chép, phỏng theo và bắt chước có gì khác nhau à?”
Thẩm Lưu Phi quả quyết: “Khác.
Ý tôi muốn hỏi là, khi ông của cô vẽ những bức danh họa giả thì có bản gốc trước mặt hay không?”
Chuyện từ mười năm trước, khi ấy cô vẫn còn rất nhỏ, Đường Tiểu Mạt cố gắng hồi tưởng lại rồi chợt hô lên: “Hình như là có bản gốc! Có một lần tôi chạy vào phòng làm việc của ông chơi, thấy có một tác phẩm trên bàn ông ấy, cũng không biết là sao chép hay phỏng theo hay là cả hai, nhưng vừa thấy tôi vào là nổi giận đùng đùng, tống tôi ra ngoài rồi khóa cửa lại.”
Thẩm Lưu Phi hờ hững nói: “Thề thì tức là Trương Văn Lễ đã lạm dụng chức quyền, bắt ông nội cô mang những tác phẩm gốc của các họa sĩ nổi tiếng của phòng tranh về nhà rồi sao chép chúng.
Cô nói tiếp đi.”
Đường Tiểu Mạt nói tiếp: “Đợt đó ông tôi vui lắm, ngày nào cũng cười.
Ông tôi là người mê vẽ, cảm giác như vẽ bằng cả tính mạng vậy.
Ông ấy có thể vẽ, và những bức tranh của ông có thể được người khác công nhận thì dù không kiếm được tiền cũng chẳng sao.
Tiếc là niềm vui ngắn chẳng tày gang, bỗng có một ngày phòng trưng bày của Học viện xảy ra hỏa hoạn, còn có hai người chết cháy nữa.”
Đào Long Dược chen lời: “Tôi đã đọc tin này rồi.
Chuyện xảy ra bảy tám năm về trước, hình như có thiết bị điện cũ trong phòng trưng bày bị chập mạch, mà đồ được cất giữ đều là tranh vẽ dễ cháy nên bắt lửa ngay lập tức, rất nhiều tranh thư pháp và tranh vẽ nổi tiếng đã bị thiêu rụi, tiếc thật.”
Đường Tiểu Mạt gật đầu: “Vì chuyện này mà Trương Văn Lễ từ chức, ông tôi cũng tổn thương nặng nề, tự giam mình trong phòng rất lâu.
Có một ngày tôi nghe thấy hai người bọn họ cãi nhau, ông tôi kích động nói ‘Hai người đã chết rồi, tôi không thể làm như thế được!’, sau đó ông đi du lịch giải sầu, mà từ đó trở đi không về nữa.
Cảnh sát nói với tôi ông ấy ngã xuống núi, mặc dù không tìm được xác nhưng khả năng sống sót không cao…”
Tạ Lam Sơn trầm ngâm: “Trương Văn Lễ nhận lỗi từ chức năm ấy đã thay da đổi thịt, trở thành một nhân vật đình đám người người kính nể trong giới nghệ thuật, kẻ này cũng có bản lĩnh đấy.”
Thẩm Lưu Phi nhìn Đường Tiểu Mạt: “Cô chắc chắn bức ‘Lạc Thần Phú Đồ’ mà mình nhìn thấy trên mạng là do ông cô vẽ?”
Đường Tiểu Mạt gật đầu lia lịa: “Chắc.
Trên bức tranh có một vết nhòe, là do hồi đó tôi vô tri, bất cẩn làm dây lên, dấu vân tay của tôi vẫn còn in trên đó mà.
Chưa kể tôi vẫn nhớ rõ, hai ngày trước khi ông tôi ngã xuống núi thì bức tranh mới vẽ được một phần năm, sau khi ông ấy gặp chuyện thì bức tranh ấy cũng biến mất.”
Tạ Lam Sơn cảnh giác: “Chẳng nhẽ ông Đường không ngã xuống núi mất mạng mà đã bị người khác bắt cóc tới nơi nào đó, ép ông ấy vẽ cho xong một bức ‘Lạc Thần Phú Đồ’ đủ để đánh tráo này?”
Thẩm Lưu Phi nói: “Nếu lời cô Đường nói là sự thật, vậy thì khả năng cao là vậy.
Nhưng chỉ nói miệng không bằng chứng cũng không được, giờ việc quan trọng nhất chính là tìm lại được bức tranh.”
Đường Tiểu Mạt thẳng thắn thú nhận bản thân quanh quẩn ở những nơi đám trộm mộ và dân buôn văn vật lui tới chính là để điều tra rõ ràng chuyện năm đó, đúng là cô nàng cũng biết gần đây có người muốn mang vài món bảo vật ra nước ngoài, tán gẫu moi tin một hồi thì mới nghe được là đồ đánh cắp từ phòng tranh Hạc Mỹ.
Đào Long Dược vội hỏi: “Vậy tên con buôn văn vật đó sống ở đâu, công an tới cửa yêu cầu phối hợp điều tra thì kẻ này cũng phải khai thôi.”
“Anh bị ngẫn à,” Có lẽ Đường Tiểu Mạt không hợp với đội trưởng Đào từ khi sinh ra rồi, mới nghe hắn nói đã nghẹn họng, “anh tới cửa nói mình là công an, chắc người ta lại nhận bản thân là trộm mộ con buôn cho anh đấy?”
Đào Long Dược cũng phản ứng rất nhanh, hắn lập tức nói tiếp: “Thế thì ngụy trang điều tra, nói bóng gió thôi.”
“Được đó!” Hai mắt Đường Tiểu Mạt sáng bừng, cô vuốt một bên bím tóc màu mè sặc sỡ, “Tôi biết nơi người đó thường xuyên tới, một câu lạc bộ được che giấu rất kỹ.”
“Thế thì đơn giản! Giả làm khách hàng, vào câu lạc bộ đàm phán giá cả với tên đó, tìm cách moi tin bằng được, chắc chắn kẻ đó biết lũ ăn trộm kia đang trốn ở đâu.” Đào Long Dược vỗ đùi, mắt sáng như đèn pha mà nhìn Đường Tiểu Mạt, “Cô em, địa chỉ cụ thể của câu lạc bộ đó ở đâu?”
“Tôi không nói.” Đường Tiểu Mạt nhìn Đào Long Dược rồi lại nhìn Tạ Lam Sơn và Thẩm Lưu Phi, “Tôi có nói thì mấy anh cũng không trà trộn được vào đâu.”
Tạ Lam Sơn hỏi cô: “Tại sao?”
Đường Tiểu Mạt nói: “Không phải tôi không muốn phối hợp mà vì đó là một câu lạc bộ dành cho nữ, chỉ nhận khách nữ thôi, không có người dẫn thì không được vào.”
Đào Long Dược tiêu hóa một lúc mới hiểu ra: “Ý cô là con buôn văn vật kia là nữ hả?!”
Đường Tiểu Mạt gật đầu liên tục: “Đúng rồi, không những là nữ mà còn là một người phụ nữ siêu đẹp.”
Đinh Ly nãy giờ ngồi nghe đã bắt đầu đứng ngồi không yên, đây là một cơ hội hiếm có, cô làm cảnh sát cũng không muốn chỉ viết báo cáo và tra thông tin cả ngày, như vậy thì khác gì làm văn phòng đâu? Cô giơ tay lên chủ động xung phong: “Tôi là nữ này, tôi đi là phù hợp nhất!”
Đào Long Dược liếc nhìn Đinh Ly rồi nhanh chóng lắc đầu: “Cô không đi được, cô còn chưa qua thử việc, lại còn giữ chức vụ văn thư, con buôn văn vật kia quá nguy hiểm.” Ngẫm lại thì đúng là khó thật, cả tổ trọng án cũng chỉ có mình Đinh Ly là nữ.
“Thật ra câu lạc bộ đó cũng không treo biển ‘Cấm đàn ông và chó’ ngoài cửa, nếu mấy người muốn vào thì vẫn có cách.” Ánh mắt Đường Tiểu Mạt lướt qua Đào Long Dược rồi lại nhìn chằm chằm Tạ Lam Sơn, “Nhưng nếu dùng thân phận công an thì dẹp đi, chỉ có thể giả làm tay vịn thôi.”
Đội trưởng Đào cảm thấy tôn nghiêm đàn ông của toàn thể công an bị xúc phạm, hắn nhảy dựng lên: “Sao thế được!”
Vốn Đinh Ly còn đang sốt sắng muốn đi, còn định cố gắng tìm cơ hội nhưng vừa nghe câu này thì lập tức vui vẻ hùa theo: “Có gì mà không được? Bây giờ là thời đại nào rồi, anh có biết quyền bình đẳng là gì không? Đàn ông các anh suốt ngày tới quán bar và câu lạc bộ đêm chén chú chén anh thì đương nhiên phụ nữ có tiền và nhàn rỗi cũng có thể tìm thú vui cho bản thân rồi, mà chưa chắc đã phải làm chuyện gì, chỉ nhảy múa uống rượu thôi.”
Đường Tiểu Mạt ăn nói trơn tru, câu nào cũng cực kỳ có lý: “Mấy người xem những bộ phim có đề tài điều tra tội phạm đi, đàn ông phải nằm vùng, còn giả làm con buôn ma túy hoặc xã hội đen, tệ nhất thì cũng giả dạng côn đồ lưu manh, dựa vào đâu mà khi cảnh sát nữ nằm vùng đều phải giả dạng tình nhân và gái điếm.
Cùng là cống hiến vì nước, đám đực rựa các người giỏi hơn ở chỗ nào?”
Tạ Lam Sơn đứng bên cạnh gật đầu hùa theo, anh mỉm cười nói: “Có lý đấy.”
Đường Tiểu Mạt nhéo hông Đào Long Dược một cái rồi tỏ vẻ chê bai: “Chưa kể cũng chẳng đến lượt anh, người đô con đấy nhưng đường nét thô kệch, chẳng đẹp tí nào.” Sau đó cô nàng lại nhìn chằm chằm Thẩm Lưu Phi và Tạ Lam Sơn, lòng Tư Mã Chiêu rành rành ra đó, “Hai người bọn họ còn tạm được.”
Tạ Lam Sơn nhoẻn miệng cười.
Để tránh cảnh bất đắc dĩ phải dùng nhan sắc để phá án, anh bèn nhanh chóng lên tiếng: “Tôi có một ý tưởng, không phải nam nữ không bình đẳng mà Đinh Ly không đóng nổi vai chị gái khí phách ngang tàng có tiền để sưu tầm văn vật.
Tổ trọng án của chúng ta không có ai nhưng có thể mượn người bên đội pháp y mà, tôi thấy pháp y Tô có thể gánh được nhiệm vụ lần này đấy.”Hết chương 49.
*Thiếu nữ đeo hoa tai ngọc trai là một bức tranh sơn dầu được danh họa người Hà Lan Johannes Vermeer hoàn thiện vào khoảng năm 1665.
Bức tranh khổ vừa này là chân dung bán thân của một thiếu nữ bí ẩn (có thể là con gái của Vermeer) đeo hoa tai ngọc trai và đội một chiếc khăn xếp trên đầu.
Do sở hữu bố cục lẫn chủ đề gần giống kiệt tác Mona Lisa của Leonardo da Vinci, Thiếu nữ đeo hoa tai ngọc trai còn được mệnh danh là “Nàng Mona Lisa phương Bắc”.
.