Trâm Iii: Tình Lang Hờ

Cô đặt lên tay bộ áo gấm dày dặn Công Tôn Diên từng mặc, thong thả tiếp: “Bấy giờ chúng ta từng nói riêng với nhau rằng, bộ đồ này thật không bì được bộ vũ y mỏng nhẹ bên trong, hơn nữa rõ ràng sẽ làm vướng tay vướng chân, thậm chí còn ảnh hưởng đến vài động tác nhỏ, che mất vài chi tiết tinh tế, vậy mà sao Công Tôn đại nương lại chọn mặc múa mở màn, mãi tới khi thả bươm bướm mới chịu thay ra?”
Ân Lộ Y tái mặt, từ từ giơ tay khoác tay Công Tôn Diên. Cảm giác được bàn tay Ân Lộ Y lạnh ngắt, nhưng Công Tôn Diên chỉ đặt nhẹ tay lên mu bàn tay họ Ân, ánh mắt vẫn không rời Hoàng Tử Hà.
Hoàng Tử Hà lại đặt tay lên cổ áo gấm: “Thứ hai là một tấm vải đen cắt thành hình đầu của đại nương, giấu trong áo, khi cần thì rút ra. Hẳn vật này dã bị các vị gỡ khỏi cổ áo rồi, nhưng đợi lát nữa chúng ta tìm kỹ, ắt sẽ thấy dấu vết để lại thôi.”
Đoạn cô đặt bộ đồ xuống, nói tiếp: “Thứ ba là ánh đèn, sau khi Công Tôn đại nương lui ra sau màn, ánh đèn đột nhiên tối hẳn. Mà người điều chỉnh ánh sáng, chính là Ân tứ nương. Tứ nương đã dành khoảng thời gian này để Công Tôn đại nương cởi áo, treo lên giá, gắn chiếc đầu giả lên cổ áo, rồi rời khỏi vũ đài. Đồng thời, tứ nương cũng rải hoa để đánh lạc hướng mọi người, thu hút tất cả ánh mắt hướng lên vũ đài, không ai chú ý đến động tĩnh sau bụi cây nữa. Đúng lúc này, Phạm thiếu gia lại vô tình giúp họ một tay, thiếu gia thấy Ân tứ nương xinh đẹp, bèn cợt nhả, khiến mọi người chỉ mải theo dõi vụ giằng co, Công Tôn đại nương hết sức an toàn.”
Nghe tới đây, Công Tôn Diên nhếch môi mỉm cười như tự giễu: “Nếu đúng như công công nói, thì tôi mạn phép được hỏi, thời gian tôi lui ra sau màn đứng bất động có lâu không? Chẳng qua chỉ đủ rải hết mấy lồng cánh hoa mà thôi, khoảng thời gian ngắn như thế, lẽ nào có thể đi rồi lại về, còn lẻn ra được sau lưng giết chết Tề phán quan ư?”
“Đúng vậy, thời gian ngắn như thế, dù Công Tôn đại nương có chạy hết tốc lực, cũng không kịp cả đi lẫn về đâu...” Phạm Nguyên Long chất vấn.
“Phải phải, sau khi rắc hết cánh hoa, Công Tôn đại nương lại tiếp tục biểu diễn, lần lượt thả từng cánh bướm trong tay áo, bướm bay ra càng lúc càng nhanh, đến cuối cùng mới bay ra hết. Nếu bấy giờ đại nương không ở đó, thì bầy bướm đã tán loạn ùa ra rồi, sao có thể khống chế để chúng lần lượt bay ra từ từ như thế sao được?” Đến đây Chu Tử Tần bắt đầu suy tưởng hão huyền, “Lẽ nào Công Tôn đại nương có cách tức tốc quay về ngay trước khi rắc hết cánh hoa? Là phép rút đất, hay là một bước sải mười trượng?”
“Đương nhiên không phải. Phép rút đất hay một bước sải mười trượng, đều là truyền thuyết thôi. Công tử không thử nghĩ theo cách khác xem? Thật ra Công Tôn đại nương không thể trở lại nhanh như vậy, lúc đàn bướm bay ra, đại nương cũng chẳng cần quay lại, bởi có một thứ có thể thao túng bầy bướm, khiến chúng không thể ùa ra cùng lúc, mà chỉ từng con một dập dờn bay ra, thậm chí dần dần càng lúc càng nhanh, càng lúc càng nhiều...”
Chu Tử Tần chớp chớp cặp mắt long lanh nước, nghi hoặc nhìn cô, “Lẽ nào... có máy móc gì đó kéo dài thời gian? Sau khi đại nương đi khỏi, mới từ từ khởi động?”
“Không phải, bấy giờ trên đài chỉ có một tấm màn lụa, một chiếc áo gấm, làm sao đặt loại máy đó được, mà cũng chẳng cần phiền phức như thế. Thứ được họ dùng lúc đó, chính công tử còn giúp một tay phi tang đấy.”

Chu Tử Tần há hốc miệng: “Thật... thật à? Không thể nào, ta có giúp họ lúc nào đâu... Ta đâu có tiếp xúc nhiều với Công Tôn đại nương, cũng chẳng làm gì cả!”
“Từ đầu chí cuối công tử sơ sót không nghĩ đến đấy thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà rút ra một túi mạch nha nhỏ, giơ lên cho mọi người xem. “Theo ta biết, Ân tứ nương mắc chứng thiếu máu, nên thường đem theo một túi kẹo. Tứ nương không dùng loại kẹo cứng như kẹo gừng hay kẹo tuyết mà dùng loại mạch nha dẻo.”
Lúc này Ân Lộ Y buộc lòng phải lên tiếng ngắt lời cô, giọng nói đầy sợ sệt, song vẫn ngầm giấu vẻ đanh thép: “Ta thích ăn mạch nha, lẽ nào... cũng là sai ư?”
“Dĩ nhiên là không, có người thích kẹo cứng thì cũng có kẻ thích kẹo dẻo. Nhưng ta chưa thấy ai mua cả phên mạch nha như tứ nương cả.” Hoàng Tử Hà lần lượt chia mạch nha cho mọi người ở đó, rồi tiếp tục giải thích, “Huống hồ, sau khi mua cả phên mạch nha về, tứ nương không cắt ra, mà chỉ véo từng mẩu để nặn các con giống, đó cũng là ý thích của tứ nương, người khác không tiện bình luận. Nhưng ta có một việc muốn hỏi, tờ giấy hồ chủ tiệm dùng để bọc cả hai mặt trên dưới của phên mạch nha đề phòng mạch nha chảy hoặc dính vào nhau, giờ đâu rồi?”
Những miếng mạch nha trong tay mọi người đều được lót giấy hồ, loại giấy này rất mỏng, xé nhẹ là rách, vốn dùng hồ quấy thành, là thứ giấy không thể thiếu để gói mạch nha.
Công Tôn Diên và Ân Lộ Y giờ mới tái mặt, đôi mắt kiên quyết trong veo của Công Tôn Diên cũng lóe lên.
Hoàng Tử Hà rời mắt khỏi bà ta, nói tiếp: “Lồng nhốt bướm đã chuẩn bị sẵn, sau khi mở ra cho bướm vào thì phết giấy hồ lên, đặt sau màn. Lúc đại nương cởi đồ, chỉ cần dấp chút nước bọt bôi lên, giấy hồ gặp nước sẽ rã ra, cuối cùng thành một lỗ hổng đủ cho bướm bay lọt. Bầy bướm bên trong sẽ bay ra lần lượt từng con một, bất kể đại nương có ở đó hay không thì lỗ thủng trên mặt giấy cũng sẽ từ từ lan rộng ra, đám bướm cũng sẽ càng lúc càng bay ra nhanh hơn...”
Nói tới đây, cô giơ tay trỏ khoảng cách từ nhà thủy tạ đến bến thuyền hỏi: “Khoảng thời gian từ khi cánh hoa bắt đầu rơi xuống, đến khi bầy bướm bay ra hết, có đủ để đại nương đi về và giết người không?”
Tất cả mọi người ở đó đều sững sờ kinh ngạc trước phương pháp không sao tưởng tượng nổi và cách nắm bắt thời gian chuẩn xác đến từng khắc ấy, nhất thời cả nhà thủy tạ lặng phắc, không một ai lên tiếng.
Rốt cuộc Công Tôn Diên thong thả cất tiếng, giọng điệu vẫn bình thản ung dung: “Dương công công bày ra cho tôi bấy nhiêu phương pháp phức tạp như thế, không thể nói là không xảo diệu, cũng không thể chê là không dốc lòng. Chỉ là tôi thật không ngờ, có mỗi việc tứ muội ta thiếu máu phải ăn mạch nha, công công cũng suy luận xa như thế; bộ vũ y của tôi hơi dày, cũng thành công cụ gây án; thậm chí tôi tuổi tác đã lớn, giữa màn phải nghỉ một lát, cũng bị cho là thừa cơ lẻn đi giết người...”

Nói đến đây, khóe môi Công Tôn Diên cong lên, quyến rũ bội phần: “Vậy xin hỏi công công, có chứng cứ gì không? Tôi có thời gian trống, tức là tôi giết người à? Không có động cơ không có hung khí, chỉ bằng vào lời nói của công công mà chứng minh được tôi giết người ư?”
“Thứ nhất, trong tất cả mọi người ở đây hôm ấy, chỉ mình đại nương có thời gian gây án.” Hoàng Tử Hà chẳng buồn đếm xỉa đến nụ cười giễu cợt của Công Tôn Diên, còn lạnh lùng bình tĩnh hơn cả bà ta: “Thứ hai, dĩ nhiên ta đã tìm thấy hung khí, hơn nữa hung khí càng khẳng định đại nương là hung thủ.”
Chu Tử Tần không dằn lòng được hỏi ngay: “Nhưng các bổ khoái ở nha môn đã lùng sục tìm kiếm mà có thấy gì đâu? Rốt cuộc hung khí bị giấu ở đâu vậy?”
“Điểm này vẫn phải nhờ công tử hỗ trợ.” Nói rồi cô ghé tai hắn thì thào mấy câu, Chu tử Tần lập tức đứng bật dậy vỗ trán kêu lên: “Sao ta không nghĩ ra nhỉ? Đúng là đồ ngốc!” Đoạn gã quay mình vụt chạy đi, nhìn hướng thì là chạy về nha môn.
Chu Tường ngượng ngập cáo lỗi với Lý Thư Bạch: “Thằng nghịch tử ấy chẳng ấy có phép tắc gì cả, chạy đi cũng không cáo từ một câu...”
Lý Thư Bạch đặt ly trà xuống mỉm cười đáp: “Bản vương thích nhất tính khí hồn nhiên vô tư, không câu nệ phép tắc của Tử Tần đấy.”
Chu Tường lộ vẻ kinh hãi, ấp a ấp úng mãi chỉ nói được mấy câu đâu dám, đâu dám.
Phạm Ứng Tích đưa mắt nhìn sang con trai, tuy ngoài mặt thản nhiên, nhưng rõ ràng ông ta đã hơi quay nghiêng mặt đi nửa tấc, để hình ảnh đứa con lọt khỏi mắt mình.
Lát sau Chu Tử Tần quay lại, dắt theo một con chó cỏ gầy nhom xấu xí, tay còn ôm một bộ đồ, chính là bộ Phạm Nguyên Long mặc hôm ấy, về sau bị vấy máu, lại lấm vết rượu, họ Phạm đã cởi ra vứt đi, ai ngờ nha môn còn giữ lại.
Chu Tử Tần ngồi xuống, gí vết máu khô trên áo vào mũi con chó, xoa đầu nó bảo: “Phú Quý ngửi đi, rồi tìm thử xem! Tìm được sẽ cho mày ăn sườn.”

Con chó khịt khịt mũi đánh hơi, song không hiểu Chu Tử Tần nói gì, còn tưởng gã định cho nó ăn, bèn há miệng ngoạm ngay miếng vải nhay nhay.
“Đồ ngu ngốc này...” Chu Tử Tần giật phắt tấm áo lại, tức tối nhìn hai vết răng to tướng trên đó.
“Công tử để tôi.” Hoàng Tử Hà ngán ngẩm bước đến, cầm sợi dây buộc chó từ tay gã, xoa đầu Phú Quý rồi dắt nó đi dọc theo bụi cỏ, về phía đặt bức màn lụa khi trước.
Đi đến một chỗ, cô chợt dừng bước, Phú Quý quẩn quanh chân cô mấy vòng, thấy cô vẫn đứng yên thì cắm mặt xuống đất đánh hơi, cào chỗ này ủi chỗ kia, cuối cùng phấn khởi nhằm vào kẽ hở giữa hai phiến đá sủa ầm lên.
Hoàng Tử Hà ghì chặt nó rồi quay lại bảo: “Bẩy tảng đá này lên đi.”
Chu Tử Tần ngớ ra: “Sùng Cổ nghĩ gì lạ thế? Phiến đá nặng thế, hung thủ giết người xong lấy đâu ra thời gian vần nó lên để giấu hung khí xuống? Huống hồ hung thủ cũng chẳng có sức làm thế.”
Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Hung thủ đâu phải ở dưới phiến đá.”
“Thế thì bẩy nó lên làm gì?”
“Nếu không bẩy nó lên thì không tìm được chỗ giấu hung khí đâu.”
Nghe vậy, Chu Tử Tần nhanh nhảu gọi ngay hai bổ khoái đem xẻng và xà beng đến, đoạn ngồi thụp xuống săm soi hai phiến đá, hỏi Hoàng Tử Hà: “Bẩy phiến nào lên?”
“Tuỳ, chọn phiến nhỏ hơn ấy.”

“Tuỳ à...” Khoé môi Chu Tử Tần rần rật, song cũng trỏ bên nhỏ hơn, ra hiệu cho hai bổ khoái ra tay.
Bên này bẩy, bên kia mọi người ngồi xem.
Công Tôn Diên và Ân Lộ Y mặt tái xanh, ngồi bất động tại chỗ. Trái lại, không khí đằng Lý Thư Bạch khá vui vẻ, Phạm Ứng Tích đang kéo cả Mộc Thiện đại sư đến trò chuyện cùng Quỳ vương. Lần trước đến chùa Quảng Độ, Lý Thư Bạch đã cải trang, nên coi như đây mới là lần đầu gặp Mộc Thiện đại sư. Mặc cho Phạm Ứng Tích ca tụng Mộc Thiện đại se lên chín tầng mây, y chỉ thản nhiên nói lúc ở kinh từng nghe tiếng Mộc Thiện đại sư, hôm nay vốn không cần mời đại sư tới, nhưng nghe nói sớm mai đại sư lại lên đường vân du, sợ không kịp gặp mặt, nên mới vin vào mối giao hảo giữa đại sư và Tề phán quan, mạo muội mời tới, quả là pháp tướng trang nghiêm, không giống người thường.
Phạm Ứng Tích và Mộc Thiện đại sư mừng khôn xiết, bấy giờ mới buông được tảng đá lớn vẫn đè nặng trong lòng xuống, đôi bên trò chuyện vui vẻ hết sức.
Chu Tường thì hỏi han Vương Uẩn về mấy người quen cũ trong kinh, rồi lan man hỏi sang cả chú, bác, anh em họ hàng của y, tổng cộng đến mười mấy người, đủ để giết thời gian một hai canh giờ.
Phạm Nguyên Long đến bên cạnh Chu Tử Tần, vừa xem bẩy đá, vừa than vãn với họ Chu, nếu hai mỹ nhân kia là hung thủ thì thực đáng tiếc, giá nào cũng phải tìm cơ hội chiếm đoạt trong nhà lao rồi tính - bèn bị Chu Tử Tần trừng mắt lườm cho phải chạy về chỗ. Tuy Chu Tử Tần đem lòng ngưỡng mộ giai nhân, song rất khinh bỉ hạng háo sắc như Phạm Nguyên Long. Huống hồ cùng xuất thân nhà quan, tính quen lêu lổng, nhưng Chu Tử Tần chỉ mê mẩn thi thể, khác hẳn Phạm Nguyên Long, nên chẳng buồn đếm xỉa đến hắn.
Bẩy phiến đá nhỏ quả nhiên đỡ tốn sức hơn nhiều, chẳng mấy chốc họ đã nạy được nó lên, để lộ ra một vết lõm, chỉ thấy vết bùn đất từ kẽ đá rơi ra.
Chu Tử Tần gọi Hoàng Tử Hà lại, trỏ nền đất hỏi: “Có cần đào xuống không?”
“Khỏi cần.” Nói rồi cô mượn Chu Tử Tần đôi găng tay, ngồi xuống lần tìm lớp đất quanh phiến đá, quả nhiên rút ra được một vật, bèn lau vào chiếc áo của Phạm Nguyên Long vứt cạnh đó.
Lớp đất bên ngoài được lau đi, Chu Tử Tần buột miệng kêu lên: “Hung khí đây rồi!” Rộng một tấc, dài bốn tấc, nhìn như một lá sắt dài, song phần lưỡi lại mảnh như giấy, đủ nhét vừa khe hở giữa hai phiến đá. Lá sắt này sắc bén vô cùng, lấp loáng sáng lên dưới đèn, khiến người ta trông mà loá mắt, đúng là thép rèn trăm bận, lưỡi lạnh như sương, nhìn mà lạnh cả gáy.
Hoàng Tử Hà bèn ướm thử vào vết máu trên áo Phạm Nguyên Long, quả nhiên trùng khớp.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui