Tín đồ shopping và chị gái

7
SAO CŨNG ĐƯỢC. CHẲNG SAO hết. Người ta vẫn kết hôn và tiến lên và bạn bè họ thay đổi. Thế thôi. Hoàn toàn bình thường. Suze có cuộc sống riêng của cô ấy… và tôi có cuộc sống của tôi. Tốt thôi. Đã một tuần trôi qua kể từ lễ rửa tội... và cô ấy hiếm khi xuất hiện trong đầu tôi.
Tôi nhấp một ngụm nước cam, nhấc tờ Financial Times Luke để trên bàn ăn sáng lên và bắt đầu sột soạt giở nhanh qua các trang.
Giờ khi đã kết hôn, tôi vẫn mong mình có nhiều bạn mới. Như thế sẽ khiến tôi không có vẻ phụ thuộc vào Suze hay gì khác. Tôi sẽ bắt đầu học một lớp buổi tối hay tham gia một nhóm đọc sách hay đại loại thế. Và những người bạn mới của tôi sẽ là những người thực sự dễ mến, là những người không cưỡi ngựa và không có con mang những cái tên ngu ngốc như Cosmo...
Tôi uống một ngụm cà phê rồi phết thêm một chút sô cô la lên miếng bánh mì nướng. Tôi đang ngồi trong bếp tại căn hộ của Luke ở Maida Vale, ăn sáng muộn.
Ý tôi là... căn hộ của chúng tôi ở Maida Vale. Tôi cứ suốt ngày quên, giờ thì nó đã là của tôi một nửa! Trước khi chúng tôi cưới nhau, Luke đã sống rất lâu ở đây, nhưng khi chúng tôi đến sống ở New York, anh sửa chữa trang trí lại rồi cho thuê. Và đây là nơi sành điệu nhất thế giới. Mọi thứ đều tối giản, với một gian bếp tuyệt vời toàn i-nốc bóng loáng, những tấm thảm màu be nhạt và chỉ có vài tác phẩm nghệ thuật hiện đại điểm xuyết.
Tôi thực sự thích nó. Tất nhiên là tôi thích.
Cho dù, tôi đồ rằng nếu hoàn toàn thành thật, nó hơi trống trải so với sở thích của tôi. Luke có một phong cách trang trí nhà cửa khác tôi khá nhiều. Phong cách của anh là “không gì ở đâu hết,” trong khi tôi là “nhiều thứ ở mọi nơi.”
Nhưng cũng không sao, vì tôi đã đọc bài báo về các cặp vợ chồng trong một tạp chí nội thất, và nó nói là không có vấn đề gì khi kết hợp hai phong cách hoàn toàn khác biệt. Nhìn qua cũng biết ngay tất cả những gì chúng tôi phải làm là kết hợp ý kiến cá nhân của cả hai lại, vẽ vài poster ý tưởng cảm hứng chung và sáng tạo ra một dấu ấn cá nhân.
Và hôm nay là một ngày hoàn hảo để bắt đầu. Bởi giờ bất cứ lúc nào mọi thứ đồ chúng tôi đã mua trong kỳ trăng mật cũng có thể được chuyển đến từ công ty giao nhận vận tải! Luke đặc biệt đi làm muộn để giúp tôi. Tôi dự đoán là việc này sẽ khá mất công. Điều này chỉ nói lên một điều: tôi bận lắm, tôi thậm chí còn không có thời gian cho bạn bè nữa kìa.
Tôi cảm thấy thực sự phấn khích khi lại được thấy tất cả số đồ lưu niệm ấy. Sắp xếp những vật kỷ niệm tuần trăng mật của chúng tôi khắp căn hộ. Điều này khiến chỗ ở của anh thay đổi hẳn, có thêm vài món đồ cá nhân chỗ nọ chỗ kia.
“Hộp thư ở đây,” Luke nói, vào bếp. Sắp lại đến công ty nên anh mặc sẵn lê, còn tóc thì tỉa ngắn cả đầu, đúng kiểu doanh nhân. Anh đã cắt tóc gần như ngay lập tức sau khi chúng tôi về lại London - bởi, như anh nói, Ý là một chuyện, nhưng Anh lại là chuyện khác.
Tôi đoán anh có lý. Nhưng tôi không thể ngăn mình bâng khuâng mỗi khi nhìn thấy cái cổ trần của anh. Khoảng da nhỏ không bị rám nắng dưới đường chân tóc ấy là dấu hiệu duy nhất còn sót lại của anh từ kỳ trăng mật.
“Em có thư đấy,” anh nói thêm, đưa cho tôi một phong bì.
“Ôi, phải rồi!” tôi cầm lấy từ tay anh, hồi hộp.
Kể từ khi chúng tôi trở lại London, tôi đã đến mọi cửa hàng lớn tìm việc tư vấn mua sắm. Tôi có thư giới thiệu tuyệt vời của Barneys và mọi người đều tốt với tôi - nhưng đến giờ thì mọi thứ tôi được biết là vào thời điểm này, họ chưa tuyển.
Điều này, thành thực mà nói, hơi sốc. Tôi cứ nghĩ mình sẽ phải khổ sở lựa chọn xem nên làm việc cho ai cơ. Tôi thậm chí còn có một ảo tưởng be bé là tất cả trưởng phòng tư vấn mua sắm ở Harrods, Harvey Nichols và Sellridges sẽ mời tôi đi ăn trưa rồi tặng tôi quần áo miễn phí để thuyết phục tôi làm việc cho họ.
Bình tĩnh hết sức có thể, tôi lôi lá thư ra khỏi phong bì. Thư này được gửi từ một cửa hàng mới tên là The Look, thậm chí còn chưa mở cửa. Khi nào mở nó sẽ là một cửa hàng mới khổng lồ, ngay đầu phố Oxford, tràn ngập quần áo cùng phụ kiện tuyệt vời, và hứa hẹn sẽ có cả đống nhân viên tư vấn mua sắm giúp bạn trông thật hoành tráng. Họ muốn tìm một người để quản lý và đào tạo đội đó, và đã biết tôi qua chỗ quen biết ở New York. Tôi đã đến gặp họ vài ngày trước và nghĩ rằng mình làm OK, nhưng...
“Ôi lạy Chúa!” tôi ngước lên, không thể tin nổi. “Em được nhận rồi! Họ muốn thuê em!”
“Tuyệt quá!” Mặt Luke co lại thành một nụ cười. “Chúc mừng em!” Anh vòng tay qua người và hôn tôi.
“Trừ một việc... trong ba tháng tới thì em vẫn chưa đi làm được,” tôi nói khi đọc xuống dưới. “Cho đến lúc cửa hàng mở cửa.” Tôi đặt lá thư xuống và nhìn anh. “Những ba tháng. Một khoảng thời gian không có việc làm khá dài.” Cả tiền nữa, tôi đang nghĩ thế.
“Anh chắc là em sẽ tìm được việc gì đấy để làm,” Luke vui vẻ nói. “Vài kế hoạch nào đấy hoặc đại loại thế. Em sẽ có hàng tỉ việc khiến mình bận rộn.”
Chợt có tiếng chuông và chúng tôi nhìn nhau.
“Chắc là nhân viên giao nhận đấy!” tôi nói, lại thấy tinh thần lên cao. “Mình xuống đi!”
Căn hộ của Luke có thang máy riêng đi thẳng xuống cửa trước, điều này thật là tuyệt!
“Vậy, mình sẽ bảo họ để mọi thứ ở đâu?” anh nói khi bấm nút đi xuống tầng trệt.
“Em nghĩ chúng ta có thể xếp chúng thành chồng ở góc phòng khách,” tôi gợi ý. “Đằng sau cửa. Sau đó trong khi anh đi làm em có thể phân loại chúng.
Luke gật đầu. “Ý hay đấy.”
Tôi đột nhiên nhớ tới hai mươi cái xường xám lụa. Có lẽ tôi có thể lén cất đi mà không cho Luke thấy.
“Và nếu như không đủ chỗ,” tôi vô tình nói thêm, “ta có thể để trong phòng ngủ thứ hai.”
“Không đủ chỗ?” Luke nhíu mày. “Becky, em nghĩ là sẽ có bao nhiêu đồ thế?”

“Không nhiều đến thế đâu anh!” tôi nói nhanh. “Chẳng có mấy đâu! Em chỉ định nói là nếu người ta đóng gói đồ trong những cái hộp khổng lồ hay đại khái thế. Thế thôi.”
Trông Luke hơi nghi ngờ và tôi quay ra chỗ khác, giả vờ sửa lại dây đeo đồng hồ. Bây giờ khi khoảnh khắc đó đã gần tới, tôi lại cảm thấy một thoáng day dứt kỳ quặc.
Kiểu như tôi ước gì mình đã nói với anh về những con hươu cao cổ bằng gỗ đó. Liệu tôi có nên thú tội thật nhanh không?
Không. Có gì đâu mà ầm ĩ. Mọi thứ sẽ ổn ấy mà. Căn hộ của Luke rất rộng. Tôi muốn nói là nó rộng thênh thang! Anh sẽ chẳng bao giờ để ý thấy vài thứ thêm vào đâu.
Chúng tôi đẩy cánh cửa kép tòa nhà của Luke rồi bước ra ngoài, thấy một người đàn ông mặc đồ jean đang đứng đợi cạnh một chiếc xe tải nhỏ bên đường.
“Ông Brandon phải không ạ?” anh ta nói, ngước lên.
Tôi thở phào một cái. Tôi biết bọn tôi đã không mua nhiều đồ đến thế. Ý tôi là, cứ nhìn cái xe tải đó mà xem. Nó bé xíu à!
“Vâng. Tôi đây.” Luke chìa tay ra bắt, mỉm cười dễ chịu.
“Ông có ý tưởng nào về việc tôi sẽ đỗ mấy cái xe tải ở đâu không?” Người đàn ông gãi đầu gãi tai. “Chỉ là chúng tôi đang trong khu vực cấm đỗ xe gần góc phố.”
“Mấy cái xe tải?” Luke nhắc lại. “Ý anh là gì cơ, ‘mấy cái xe tải’ á?” Nụ cười như thể đã đóng băng trên mặt anh.
“Chúng tôi có hai xe tải hàng chờ dỡ. Liệu chúng tôi có thể để chúng vào chỗ đỗ xe đằng kia không?” Người đàn ông chỉ tay về khoảng sân trước tòa nhà.
“Tất nhiên là được!” tôi nói nhanh, bởi Luke không có vẻ gì là còn khả năng nói cả. “Cứ làm đi!”
Người đàn ông biến mất. “Thế đấy!” tôi nhí nhảnh nói. “Thế này thì vui ghê!”
“Hai... xe tải?” Luke nói.
“Chắc là họ còn chở thêm đồ của người khác!” tôi nói nhanh.
“Cùng đồ của ai đó nữa. Ý em là, rõ ràng ta đã không mua những hai xe tải đồ.”
Thì đúng thế.
Tôi muốn nói là, thật lố bịch! Trong mười tháng, chúng tôi không thể nào có thể…
Tôi chắc chắn chúng tôi không thể...
Ôi trời.
Có tiếng ầm ầm phát ra từ gần góc phố, và một chiếc xe tải lớn màu trắng xuất hiện, một chiếc nữa theo sát phía sau. Chúng đang cài số lùi vào khoảng sân trước nhà Luke, tiếng ken két vang lên khi tấm chắn thùng xe được hạ thấp. Luke và tôi vội vã tiến lại nhòm vào thùng xe chật ních.
Thật là một cảnh tượng đáng kinh ngạc. Mỗi xe tải chặt cứng đồ vật và đồ đạc. Một số bọc bằng nilông, một số gói trong giấy, một số chẳng có gì bọc cả. Khi mê mẩn ngắm tất cả số đồ ấy, tôi bắt đầu thấy xúc động ra phết. Như kiểu đang xem một cuốn phim gia đình quay toàn bộ kỳ trăng mật của chúng tôi. Thảm kilim từ Istanbul. Bầu đựng nước từ Peru. Và tôi hoàn toàn quên mất mình đã mua cái túi địu trẻ em đó!
Vài người mặc đồ bảo hộ bắt đầu nhấc đồ lên chuyển đi. Chúng tôi đứng dẹp sang một bên lấy chỗ cho họ, nhưng tôi vẫn đang xa xăm nhìn vào thùng một trong hai chiếc xe tải, đắm chìm trong kỷ niệm. Tôi chợt nhìn thấy một cái tượng đồng và quay lại với nụ cười trên môi.
“Tượng Phật! Anh còn nhớ mình mua cái này khi nào không Luke?”
Luke không thèm nghe dù chỉ một lời. Tôi nhìn theo hướng anh nhìn, và cảm thấy nỗi e sợ khẽ trượt qua. Anh bàng hoàng nhìn không chớp mắt vào người đang vác một cái gói quấn giấy khổng lồ ra khỏi cái xe tải kia. Một chân của con hươu cao cổ gỗ thò ra khỏi tấm giấy gói.
Chết tiệt!
Và giờ thì lại đến một người khác mặc đồ bảo hộ mang theo một thứ y chang.
“Becky... mấy con hươu cao cổ này làm gì ở đây vậy?” Luke nói, giọng vô cảm. “Anh tưởng chúng ta đã không mua chúng.”
“Em biết,” tôi vội nói. “Em biết ta đã làm thế. Nhưng chúng ta sẽ hối tiếc mất. Vì thế nên em mới đưa ra một quyết định hành động. Thành thật mà nói, Luke, trông chúng quá tuyệt! Chúng sẽ là điểm nhấn cho cả căn hộ!”
“Thế còn những cái này từ đâu ra?” Giờ thì Luke lại đang nhìn đôi bình sứ tôi đã mua ở Hồng Kông.
“Ôi, đúng rồi,” tôi nói nhanh. “Em đang định nói với anh về chúng đây. Đoán xem nào? Chúng là bản sao bình sứ đời Minh xịn! Cái ông đó nói rằng...”

“Nhưng chúng đang làm cái khỉ gì ở đây vậy?”
“Em... đã mua chúng. Đặt ở sảnh sẽ rất tuyệt. Chúng sẽ là điểm nhấn! Mọi người sẽ ngưỡng mộ chúng!”
“Thế còn cái thảm chùi chân này?” anh chỉ vào một cuộn vải lớn lòe loẹt.“Thật ra nó được gọi là một cái ‘dhurrie’...” Tiếng tôi nhỏ dần rồi im bặt khi thấy nét mặt anh. “Em mua nó ở Ấn Độ,” tôi đáp yếu ớt.
“Mà không hỏi ý kiến anh.”
“À thì...”
Tôi không chắc là mình thích nét mặt của Luke.
“Ôi, nhìn kìa!” tôi kêu lên, cố gắng làm anh sao nhãng. “Đó là giá để gia vị anh mua ở chợ Kenya.”
Luke hoàn toàn phớt lờ tôi. Anh đang trợn mắt nhìn một cái máy kỳ cục đang được dỡ xuống từ xe tải thứ nhất. Trông nó như của một chiếc mộc cầm và một bộ chảo đồng treo lủng lẳng được kết hợp vào làm một vậy.
“Cái quái gì thế kia? Đó có phải một loại nhạc cụ không?”
Mấy cái cồng bắt đầu kêu lên ầm ĩ khi mấy người đó khuân nó xuống, và vài người qua đường huých nhau cười rúc rích.
Thậm chí tôi cũng đang bắt đầu nghĩ lại về cái này.
“À... vâng.” Tôi hắng giọng. “Thật ra, đó là một nhạc cụ trong bộ mộc cầm của người Indonesia.”
Một thoáng im lặng.
“Một nhạc cụ trong bộ mộc cầm của người Indonesia?” Luke nhắc lại, hơi nghẹn lời.
“Nó là văn hóa!” tôi chống chế. “Em nghĩ chúng ta có thể học chơi nó! Và nó sẽ là một điểm nhấn tuyệt vời...”
“Chính xác thì chúng ta định có bao nhiêu điểm nhấn?” Luke nhìn sang bên. “Becky, tất cả đống đồ này là của chúng ta ư?”
“Bàn ăn đang đến đây!” một anh chàng mặc đồ bảo hộ nói. “Tránh đường tránh đường.”
Ơn trời. OK, nhanh nào. Hãy cố cải tạo tình huống này nào. “Nhìn kìa, anh yêu,” tôi vội nói. “Nó là cái bàn từ Sri Lanka. Anh nhớ không? Cái bàn làm riêng cho chúng ta ấy! Biểu tượng cho tình yêu sau hôn nhân của chúng ta.” Tôi tặng anh một nụ cười trìu mến, nhưng anh lắc đầu.
“Becky...”
“Đừng làm hỏng khoảnh khắc này!” tôi choàng một tay quanh người anh. “Đó là chiếc bàn trăng mật đặc biệt của chúng ta! Trong tương lai nó sẽ là vật gia truyền chúng ta! Chúng ta cần phải xem khi nó được chuyển đến!”
“Thôi được,” cuối cùng Luke nói. “Sao cũng được.”
Những người vận chuyển cẩn thận đưa cái bàn xuống dốc, và phải nói rằng tôi rất ấn tượng. Cứ nghĩ nó nặng đến thế nào mà xem, thế mà họ xoay xở với nó có vẻ khá dễ dàng.
“Chẳng lẽ không vui sao?” Tôi giữ chặt tay Luke khi thấy cái bàn. “Thử nghĩ xem! Chúng ta đã từng ở đó, ở Sri Lanka...”
Tôi ngưng bặt, hơi bối rối.
Rốt cuộc thì đây không phải chiếc bàn gỗ đó. Nó là một cái bàn kính trong suốt, với chân bằng thép uốn cong. Và một anh chàng khác đang vác theo một đôi ghế bọc dạ đỏ sành điệu.
Tôi kinh hoàng nhìn chúng chằm chặp. Một cảm giác lạnh gáy đang lan khắp người tôi.
Chết tiệt. Chết tiệt.
Là cái bàn tôi đã mua ở Hội chợ Thiết kế Copenhagen. Tôi đã hoàn toàn quên béng nó.
Làm sao mà tôi có thể quên rằng mình đã mua hẳn một cái bàn ăn? Sao lại thế cơ chứ?
“Từ từ đã nào,” Luke nói lớn, tay đưa lên. “Các anh, nhầm bàn rồi. Của chúng tôi bằng gỗ cơ mà. Một chiếc bàn gỗ có chạm trổ từ Sri Lanka.”

“Còn một cái nữa,” anh chàng giao hàng nói. “Trong xe tải kia.”
“Nhưng chúng tôi có mua cái này đâu!
Anh nhìn tôi đầy thắc mắc và tôi nhanh chóng làm bộ mặt như thể đang nói “Em cũng đang hoang mang y như anh đây!”
Bên trong, đầu óc tôi đang hoạt động điên cuồng: mình sẽ phủ nhận là chưa từng nhìn thấy nó, rồi gửi trả nó; mọi thứ sẽ ổn...
“Được gửi bởi bà Rebecca Brandon,” anh chàng đọc to nhãn lên.
“Bàn và mười ghế. Từ Đan Mạch. Đây là chữ ký.”
Mẹ kiếp.
Một cách chậm chạp, Luke quay về phía tôi.
“Becky, em đã mua một cái bàn và mười cái ghế ở Đan Mạch ư?” anh nói, giọng gần như dễ chịu.
“À...” Tôi liếm môi lo lắng. “À... Em... có lẽ là em đã mua.”
“Anh hiểu rồi.” Luke nhắm mắt lại một lát như thể đang cân nhắc một bài toán. “Và rồi em mua một cái bàn khác... và mười cái ghế nữa... ở Sri Lanka?”
“Em quên mất cái bàn đầu tiên!” tôi tuyệt vọng nói. “Em hoàn toàn quên khuấy! Anh xem, đó là một kỳ trăng mật dài... em có quên vài thứ...”
Tôi có thể liếc thấy một anh chàng đang nhấc cái bọc hai mươi cái xường xám lụa lên. Chết tiệt.
Tôi nghĩ mình cần phải dụ Luke ra xa hai cái xe tải này càng sớm càng tốt.
“Chúng ta sẽ phân loại mọi thứ,” tôi liến thoắng. “Em hứa. Nhưng giờ thì, sao anh không lên lầu uống chút gì đó ngon ngon nhỉ? Anh cứ thư giãn đi! Còn em sẽ ngồi đây và giám sát.”
 
Một tiếng sau thì mọi thứ xong xuôi. Những người chuyển đồ đóng cửa thùng xe và tôi cho họ khá nhiều tiền tip. Khi họ rồ máy đi xa tôi mới kiểm tra quanh và thấy Luke đang ra khỏi cửa trước tòa nhà.
“Chào anh!” tôi nói. “Ừm, cũng không tồi, đúng không?”
“Em có muốn lên nhà một lát không?” Luke nói, bằng một giọng kỳ lạ.
Khi chúng tôi trong thang máy đi lên, tôi đã cười với Luke vài lần nhưng anh không hề đáp lại.
“Vậy... anh có để mọi thứ trong phòng khách không?” Tôi nói khi chúng tôi tiến đến cửa trước. “Hay là trong...”
Tiếng tôi im bặt khi cánh cửa mở ra.
Ôi trời ơi.
Hoàn toàn không thể nhận ra căn hộ của Luke nữa rồi.
Tấm thảm màu be đã mất tích dưới một biển các gói, rương, và hàng đống đồ gỗ. Sảnh thì ngập những chiếc hộp mà tôi nhận ra ngay là từ một cửa hàng ở Utah, cộng với tranh batik mua ở Bali và hai cái bình Trung Quốc. Tôi lách qua chúng để vào phòng khách và nuốt nước bọt khi nhìn quanh. Chỗ nào cũng có hộp đựng đồ. Những cuộn thảm Thổ Nhĩ Kỳ, những tấm thảm bông Nam Á dựng ở một góc phòng. Ở góc kia, bộ mộc cầm Indonesia đang tranh giành chỗ đứng với một chiếc bàn uống cà phê bằng đá đặt ở một bên và một cái cột thiêng của thổ dân da đỏ ở bên còn lại.
Tôi cảm thấy đã tới lượt mình lên tiếng.
“Trời ơi!” tôi cười khe khẽ. “Có khá nhiều... thảm, đúng không?”
“Mười bảy cái,” Luke nói, vẫn bằng cái giọng kỳ lạ đó. “Anh đếm rồi.” Anh bước qua cái bàn uống cà phê bằng tre tôi mua ở Thái Lan rồi nhìn vào nhãn trên một cái rương gỗ lớn. “Cái hộp này ghi rõ ràng là chứa bốn mươi cái cốc.” Anh nhìn lên. “Những bốn mươi cái cốc?”
“Em biết nghe có vẻ nhiều,” tôi nói nhanh. “Nhưng chỉ có năm mươi xu một cái! Đúng là một món hời! Chúng ra sẽ không bao giờ cần mua cốc nữa!”
Luke nhìn tôi chăm chú một lát.
“Becky, anh không muốn mua thêm bất cứ cái gì nữa.”
“Nhìn kìa...” tôi cố bước về phía anh nhưng đâm sầm đầu gối vào một pho tượng gỗ Ganesh, thần thông thái và thành công. “Không... không tệ đến thế đâu! Em biết có vẻ hơi nhiều. Nhưng chỉ như... một ảo ảnh thị giác thôi. Chỉ cần tất cả ra khỏi giấy gói, rồi chúng ta bày đâu vào đó... trông chúng sẽ tuyệt lắm!”
“Chúng ta có năm cái bàn uống cà phê,” Luke nói, lờ tôi đi. “Em có để ý đến điều đó không?”
“À... ừ.” Tôi hắng giọng. “Không hẳn thế. Vậy chúng ta có lẽ nên... sắp xếp lại một chút.”
“Sắp xếp lại?” Luke nhìn quanh phòng nghi ngờ. “Sắp xếp lại đống này á? Một mớ hổ lốn!”
“Có lẽ tại thời điểm này thì trông hơi giống một mớ hổ lốn,” tôi vội vàng nói. “Nhưng em có thể sắp xếp chúng lại! Em có thể làm được! sẽ trở thành diện mạo đặc trưng của chúng ta. Chỉ cần chúng ta làm vài cái poster ý tưởng...”

“Becky,” Luke cắt ngang. “Em có muốn biết anh đang có tâm trạng thế nào không?”
“À…”
Tôi lo lắng quan sát khi Luke chuyển hai gói gửi từ Guatemala sang một bên và ngồi phịch xuống ghế sofa.
“Điều anh muốn biết là... em đã trả tiền cho tất cả số hàng này bằng cách nào?” anh hỏi, cau mày. “Anh đã kiểm tra nhanh hóa đơn của chúng ta, và chẳng có dấu vết nào của bình cổ Trung Quốc cả. Hay là hươu cao cổ. Hay là bàn từ Copenhagen…” Anh nghiêm mặt nhìn tôi. “Chuyện gì đang diễn ra đây, Becky?”
Tôi hoàn toàn bất động. Ngay cả nếu có muốn chạy, có lẽ tôi sẽ tự xiên mình vào các ngón tay nhọn hoắt của thần Ganesh mất.
“À.” Tôi không thể nhìn thẳng vào mắt anh. “Em thực sự có cái... cái thẻ tín dụng này.”
“Cái em giấu trong túi á?” Luke nói luôn. “Anh cũng đã kiểm tra rồi.”
Ôi trời.
Thế này thì không còn lối thoát rồi.
“Thật ra... không phải cái đó.” Tôi khó nhọc nuốt nước bọt. “Cái khác cơ.”
“Cái khác?” Luke nhìn tôi chằm chằm. “Em có một cái thẻ tín dụng bí mật thứ hai à?”
“Chỉ trong trường hợp khẩn cấp thôi! Ai mà chẳng có những việc khẩn cấp bất ngờ...”
“Cái gì cơ, khẩn cấp như những chiếc xường xám lụa à? Bộ mộc cầm Indonesia khẩn cấp?”
Im lặng. Tôi không thể trả lời. Ngón tay tôi đang xoắn vào nhau sau lưng.
“Vậy là... em đã bí mật thanh toán hết đống này, đúng không?” Anh nhìn bộ mặt đau khổ của tôi và nét mặt anh lập tức thay đổi. “Em vẫn chưa thanh toán hết?”
“Vấn đề là...” Các ngón tay tôi xoắn vào nhau còn chặt hơn. “Họ cho em một thời hạn thanh toán khá dài.”
“Vì Chúa, Becky...”
“Không sao đâu mà! Em sẽ thanh toán hết! Anh không cần lo lắng gì hết! Em sẽ lo chuyện này...”
“Bằng cách nào chứ?” Luke độp lại.
Mặt tôi nóng bừng vì ngượng. Tôi biết giờ thì tôi không kiếm được tiền. Nhưng anh không cần phải xoáy sâu vào chuyện đó.
“Khi nào em bắt đầu đi làm,” tôi nói, cố gắng tỏ ra bình tĩnh. “Em sắp có thu nhập rồi, anh biết đấy, Luke. Em không phải loại ăn bám.”
Luke nhìn tôi một lát, rồi thở dài.
“Anh biết thế,” anh dịu dàng nói. Anh chìa tay ra. “Lại đây nào.”
Tôi ngập ngừng một lát rồi lách qua sàn nhà đầy đồ đến chỗ ghế sofa. Tôi tìm được một khoảng trống nhỏ để ngồi và anh vòng tay quanh tôi. Trong một lát cả hai chúng tôi đều lặng lẽ nhìn biển đồ lộn xộn đó. Cứ như thể chúng tôi là hai người sống sót duy nhất trên một hoang đảo.
“Becky, chúng ta không thể cứ tiếp tục thế này,” cuối cùng Luke nói. “Em có biết kỳ trăng mật tốn bao nhiêu tiền không?”
“Ơ... không.”
Đột nhiên tôi chợt nhận ra rằng mình chẳng biết cái gì bao nhiêu tiền cả. Chính tôi là người đã mua vé máy bay vòng quanh thế giới, nhưng ngoài chuyện đó ra, Luke mới là người trả mọi khoản tiền, trên suốt chuyến đi.
Kỳ trăng mật đã khiến chúng tôi phá sản chưa?
Tôi liếc ngang sang Luke - và lần đầu tiên thấy anh trông căng thẳng thế nào.
Trời ơi. Chúng tôi đã hết sạch tiền và Luke vẫn đang cố giấu tôi.
Tôi chợt thấy mình như người vợ trong phim của Wonderful Life lúc James Stewart về nhà mắng con. Cho dù chúng tôi đang trên bờ vực khủng hoảng tài chính, vai trò của tôi vẫn là phải can đảm và bình tĩnh.
“Luke… có phải chúng ta rất nghèo không?” Tôi hỏi, bình tĩnh nhất có thể. Luke quay đầu lại nhìn tôi.
“Không, Becky,” anh nói một cách kiên nhẫn. “Chúng ta không nghèo lắm. Nhưng chúng ta sẽ như thế nếu em cứ tiếp tục mua hàng núi đồ vớ vẩn.”
Hàng núi đồ vớ vẩn! Tôi chuẩn bị giận dữ phản pháo thì nhìn thấy nét mặt anh. Nên thay vì thế, tôi ngậm miệng và gật đầu nhún nhường.
“Vậy anh nghĩ...” Luke ngưng lại. “Anh nghĩ chúng ta cần lập một giới hạn chi tiêu.”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui