Giờ lại kể chuyện mấy ngày trước.
Ngày mồng bốn tháng năm dương lịch, quân Hồ đại bại trận Hàm Tử, bị nhà Minh đuổi đánh rất rát, bại thế như núi đổ. Thành thử kinh đô Tây Đô một thời phồn hoa cũng náo loạn cả lên. Hoàng Hối Khanh được lệnh Hồ Hán Thương, bèn gom một phần ba dân Việt di cư vào khẩn hoang vùng Thăng Hoa chiếm của Chiêm Thành khi trước với quân địa phương thành một nhánh quân “ cần vương ” giao cho Nguyễn Lỗ. Hoàng tử cũ của Chiêm Thành, tức con trai của Chế Bồng Nga - Chế Ma Nô Đà Nan được phong tước “ quận vương ” để vỗ về dân Chiêm ở đây.
Về phần Hồ Hán Thương đã cho quân về thủ ở Lỗi Giang. Trận thua ở Hàm Tử có hai vạn quân đầu hàng, một vạn tử trận, tính ra hãy còn bốn vạn tàn binh. Song những người này phần nhiều đã đào ngũ đi nương nhờ vào các hào trưởng địa chủ địa phương, thành thử bảy vạn hùng binh chỉ có chưa đầy hai vạn quân đến chờ xa giá của vua về Tây Đô. Mùng mười về tới Tây Đô, trông thấy cảnh sĩ tốt khôi giáp tả tơi rách rưới, thương mác gãy rụng tả tơi mà bất giác chạnh lòng.
[ Chỉ vì một phút tự cho là thông minh, mà nay nguy cơ mất nước đã kề cận. ]
Y bèn cho người vào thành đón thái thượng hoàng Hồ Quý Li, rồi toan cùng nhau rút về Thăng Hoa thì quân Minh đã đánh ập tới. Hồ Hán Thương không kịp nghĩ nhiều, vội phất cờ hiệu cho đại quân kéo vào thành, dựa vào tường cao hào sâu chống giặc.
Trống nổi, cờ giương, hai cánh quân bắt đầu thả mình vào chiến trận.
Pháo gầm, tên rít, ngàn thanh kiếm thi nhau rơi cắm dưới chân thành.
Trương Phụ nắm cương, thúc ngựa chạy lên trước nhất. Lão vác thanh quan đao trên vai, hiên ngang nhập trận. Ánh dương dát vàng rực sáng sau lưng. Y giục ngựa chạy dưới chân thành mấy vòng, cười nhạo quân Hồ nhát chết. Hồ Hán Thương cho dùng nỏ cứng bắn xuống, Thạnh vung đao gạt hết tên rồi thúc ngựa chạy khỏi tầm bắn của quân Đại Ngu.
Hồ Hán Thương thấy sĩ tốt dưới tay mình uể oải như người mất hồn, bèn cắn chặt răng. Cứ theo binh pháp, thì điều quân Đại Ngu cần hiện giờ là một trận thắng để xốc lại lòng quân.
Y đang muốn tìm Hồ Nguyên Trừng để bàn kế thủ thành lâu dài, thì hay tin kho lương trong thành đã bị vét rỗng tuếch. Một hạt thóc cũng không còn.
Thì ra sau khi thắng trận ở Tây Đô, Mạc Thuý đã lựa khoảng một toán chục con tuấn mã, ngày đêm thúc ngựa chạy về phủ Thiên Xương. Y vừa chạy vừa loan tin quân Hồ thảm bại ở Hàm Tử, khiến từ làng trên đến xóm dưới phải xôn xao một bận. Nhưng cho đến khi ấy mới chỉ có một vài hộ, phần lớn là nhà quan lại với đám địa chủ, là gom người gom của đi chạy nạn.
Phải đến mấy ngày sau, tàn binh đào ngũ từ Hàm Tử tìm được về nhà, sự hoảng loạn mới bắt đầu truyền khắp dân gian. Dân chúng như đám bèo trên ao, sóng đánh tới thì mạnh ai nấy trôi.
Thậm chí ở thành Tây Đô, còn xảy ra bạo loạn. Một đám nhân sĩ võ lâm phối hợp với dân đen cả thành, nhân lúc đêm tối không trăng đánh vào kho vũ khí. Trước vũ trang cho bản thân, sau ghé thăm kho lương vét cho đến hạt thóc cuối cùng để chia nhau. Xong xuôi đâu đấy mới cướp cửa thành mà chạy.
Phần lớn binh mã đã theo Hồ Hán Thương đến Hàm Tử, lính lác cả thành chỉ còn chưa đến một ngàn, mà hầu hết là nam đinh mới tòng quân chưa được quân huấn kĩ càng. Thành ra lúc bạo loạn xảy ra, cả đám cứ loạn lên như lũ gà mất đầu vậy.
Chính ra đám gia nhân gia đinh của các nhà quan lớn phú hào cũng là một lực lượng dân binh không yếu, thế nhưng mấy tên này lại là những kẻ bỏ chạy trước tiên.
Hoàng cung cũng chẳng ngoại lệ. Vừa hay tin quân Hồ thua thảm là đám thái giám, phi tần cung nữ đã chia nhau vét cho kì hết kim ngân châu báu rồi bỏ trốn khỏi cung. Thái thượng hoàng Hồ Quý Li tự nhốt mình trong tẩm cung, thế nên chẳng cản ngăn cũng không trừng phạt được.
Thành Tây Đô bỗng trở thành một toà thành ma.
Lương cạn, song Khai Đại dế chỉ còn biết cắn răng giấu sĩ tốt dưới trướng. Quân lính đã chẳng còn tinh thần chiến đấu thì chớ, giờ lại hay tin Tây Đô cạn lương thảo hết khí giới thì khéo có hơn nửa ra hàng.
“ Cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra. Lương thảo mang theo được chỉ còn đủ dùng ít ngày, không sớm thì muộn lính cũng bị đói. Chẳng bằng chia binh hai ngả, Trừng dẫn một phần đại quân cản hậu cho hoàng huynh rút về Thăng Hoa. ”
Hồ Nguyên Trừng thấy Hán Thương bắt đầu bế tắc, bèn lên tiếng khuyên.
Khai Đại hẵng còn lấn cấn mãi chưa chịu quyết. Y nói:
“ Tây Đô là kinh đô, cũng là trái tim của Đại Ngu. Mất thành rồi, sĩ khí quân ta sẽ ra sao? ”
“ Nhà Trần hai lần để Thăng Long thất thủ, nhưng vẫn có thể chuyển bại thành thắng. Hàm Tử ta thua đau, nhưng so với trận thua ở Bình Lệ Nguyên năm xưa thì có là gì? Hoàng huynh xin chớ bỏ cuộc. ”
Hồ Nguyên Trừng cố gắng khuyên can, nhưng ngữ khí đã bắt đầu chất chứa sự mệt mỏi.
[ Đến hoàng đế cũng không muốn đánh, thì tướng sĩ lấy đâu ra tinh thần mà liều mạng? Hoàng huynh không sánh được với tiên đế Trần Nhân Tông năm xưa. ]
Những lúc thế này, chàng rất muốn hỏi ý kiến lão Bộc. Tiếc là vừa vào thành Tây Đô không lâu thì lão mất tăm biệt tích luôn. Hồ Nguyên Trừng đã cho quân lính đi tìm, nhưng tạm thời không có chút tin tức gì của lão hết.
Đúng lúc này, thì phía nội thành truyền đến tiếng chân người dồn dập. Một đội quân nhỏ cỡ hai trăm người lao nhanh trên đường lớn, tốc độ còn hơn cả tuấn mã. Trên người họ vận giáp da nhẹ, tay mỗi người cầm một thanh gươm bén với hộ thủ chạm theo hình con Nhai Xải.
Đi đầu không ai khác, chính là Hồ Quý Li. Chòm râu trắng như cước rủ xuống giáp ngực, mái tóc bạc tựa mây búi gọn ẩn trong mũ trụ. Ông vác một thanh quái phủ bản rộng, đầu gắn lưỡi thương dài nhọn hoắt. Cứ nhìn cách con thiên lí mã chạy thì thanh rìu pha thương ấy phải nặng độ ba chục cân là ít. Sau lưng ông cắm lá cờ thêu tám chữ “ văn võ toàn tài, quân thần đồng đức ” do chính Trần Nhuệ Tông ban cho.
“ Phụ hoàng… ”
“ Thái thượng hoàng… ”
Hồ Hán Thương và các tướng sĩ thấy ông xuất hiện, bèn quỳ xuống hành lễ. Quý Li phất tay cho mọi người đứng hết dậy. Đội ưuaan sau lưng ông rõ ràng đã nhìn thấy Hồ Hán Thương, nhưng cũng chỉ hơi cúi đầu hành lễ, ngoài ra không có vẻ gì là quy phục hết. Hồ Quý Li đứng lên đầu thành nói. Tiếng ông rung chuyển như thiên quân xuất chiến, vạn mã bôn đằng, Trương Phụ cưỡi ngựa cách Tây Đô vài dặm cũng nghe thấy.
“ Đại Việt ta nay có nạn, vận nước như chỉ mành treo chuông. Nay Quý Li xin nhờ sức của các vị Thánh Dực dũng nghĩa đánh một trận với giặc Minh, cho chúng thấy bản lĩnh nam nhi nước Nam ta. ”
Thấy hai trăm tráng sĩ vẫn im như cục đá, ông bèn chặc lưỡi, tiếp:
“ Thánh Dực quân xin hãy nghe ta nói một lời.
Hồ Quý Li này phế Trần lập Hồ, là tội thứ nhất! Mộ lính gắt gao, ban hành tiền giấy khiến dân chúng lầm than, là tội thứ hai! Ta xin nhận hết!
Nhưng… ”
Nói đến đây, bất giác ông nhìn sang Hồ Nguyên Trừng. Tả tướng quốc của Đại Ngu vốn đang vì sĩ khí của ba quân mà chán chường thì nay bỗng tỉnh ngộ.
“ Thằng ranh con Trần Thiêm Bình rước quân Minh vào bờ cõi nước Nam, ấy là tội phản quốc.
Giặc bắc vào nước ta, đầu tiên là gây cảnh máu chảy thành sông xương chất thành đồng, ấy là tội hại dân.
Hồ Quý Li này có tội với nhà Trần, đúng! Nhưng thử hỏi ta có tội gì với Đại Việt?
Bất trung với triều Trần so với bất trung với tổ quốc thì bên nào đáng chết? Hà khắc với trăm họ so với tài hại cả đồng bào thì tội ai nặng hơn?”
Thánh Dực quân đáp:
“ Chỉ bằng một Thiêm Bình không thể đánh giá cả vương triều nhà Trần. ”
“ Vậy thì một Hồ Quý Li cũng đâu thể đại diện cho cả Đại Ngu ta? ”
Im lặng…
“ Chỉ có người Việt khổ
Quyết không có Việt nô!
Thà làm ma Đại Việt
Hơn làm chó Nam Kinh!! ”
Dũng Nghĩa quân chẳng ai bảo ai, đột nhiên rống lên, rõ ràng từng chữ. Giữa một toà thành trống không, tiếng người bỗng cất lên nghe lồng lộng, đâm thủng xé nát bầu không khí lặng yên chết chóc.
“ Chỉ có người Việt khổ!! ”
Hồ Nguyên Trừng thấy vậy, bèn chum tay vào hét lên. Hồ Hán Thương và các tướng cũng vội vàng học theo.
“ QUYẾT KHÔNG CÓ VIỆT NÔ!!! ”
Tiếng rống của đại quân nhà Hồ làm át cả tiếng cửa thành đang nặng nề mở tung.
Khai chiến!
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...