Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm

Lúc này ngoài sảnh đã dọn bàn ăn xong xuôi, toàn bộ mười hai cánh cửa sổ đều được mở ra rộng rãi thoáng đãng, bày biện không quá cầu kỳ quý giá, chỉ có chiếc bình sứ thanh hoa men nhữ diêu đế trắng tám chân cao cỡ nửa người đặt dưới đất, cắm đủ loại hoa tươi, phong cách cổ xưa nhẹ nhàng, lại không mất vẻ sinh động quyến rũ.

Cảnh xuân tháng năm ngoài cửa sổ nhuốm khí trời nhẹ nhàng và khoan khoái, cạnh sảnh có một hồ sen, tiếng nước róc rách theo gió mát truyền đến, từng cánh hoa dành dành nhạt màu cùng vài phiến lá xanh biếc rơi xuống đậu trên mặt nước, trong sảnh mát mẻ dễ chịu, thoang thoảng mùi hương thơm ngát, chúng nữ quyến ai nấy đều vui vẻ cởi mở, khen ngợi không ngớt.

Hoa quả tươi ướp lạnh đã dọn xong, sau khi Minh Lan dẫn chúng khách nữ ngồi vào ghế, liền dặn dò người dưới hâm rượu và bưng thức ăn nóng lên, còn đặc biệt chuẩn bị rượu trái cây và nước quả ép cho nhóm tiểu thư, sau đó nhóm hầu già thay nhau bưng từng đĩa thức ăn bày lên bàn, mọi người bắt đầu động đũa.

Đây là lần đầu phủ Cố đãi tiệc, bác gái Cát dốc toàn lực xuất ra bản lĩnh nhà nghề, những món bình thường như gà vịt thịt cá không nói làm gì, sơn hào hải vị cũng không ít, nào là vịt xào nấm và mộc nhĩ, sườn xốt dứa chua ngọt, canh lươn bạc nấu vừng trong ống trúc, còn có sườn om nấm, vô cùng đẹp mắt ngon miệng, mọi người đều rất hài lòng.

Bàn về uống rượu vung quyền nhóm nữ quyến không thể so với nhóm nam, lại thêm có khách lạ, chúng nữ quyến nhà họ Cố cũng không tiện đến rót rượu mừng Minh Lan, lại vì có mẹ bà trưởng bối ở bên cạnh, mấy cô gái cũng rụt rè, không dám đề nghị làm thơ đối phạt rượu, mọi người chỉ lịch sự nói nhẹ cười nhẹ dùng bữa.

Đợi mọi người ăn được một lúc, Minh Lan mới sai người cho bắt đầu diễn kịch ở trong đình bát giác nho nhỏ trước sảnh, một nhóm nhạc công mang theo đủ loại nhạc khí từ trống, sáo đến đàn tam huyền, mấy cô gái khác đã hóa trang kỹ lưỡng lên trước tiên, sau khi lần lượt mời khách nữ lớn tuổi chọn tên khúc thì bắt đầu gảy đàn gõ trống, diễn viên trong trang phục hóa trang bắt đầu í í a a cất giọng.

Sảnh và đình cách nhau chỉ một hồ nước nông, ở giữa chỉ dùng hai tảng đá rộng hơn thước bắc làm một chiếc cầu nhỏ dài cỡ năm sáu bước, tiếng nước róc rách, xa xa có bóng hoa bóng cây xanh ngắt, cách dòng nước mà ngắm, nhạt như hoa khói, cảnh trí âm sắc đều đẹp đều hay vô cùng.

Nghe được một lúc, thái phu nhân không nhịn được khen: “Con mời được mấy vị nữ tiên này tốt thật, từ khúc hát rất hay, bài trí nơi này cũng rất đẹp; chúng ta không những được nghe êm tai, mà còn được xem mát mắt.”

Minh Lan nghe xong, đứng dậy mỉm cười cảm ơn lời khen, Địch nhị phu nhân bên cạnh sâu kín nói: “Đều nhờ ân sâu của hoàng thượng, ban thưởng như vậy, em dâu thật là có phúc khí.”

Huyên đại phu nhân ngồi đối diện cũng nhanh nhảu tiếp lời, cười nói: “Vậy cũng phải biết suy nghĩ nữa mới được, nếu là tôi, tôi cũng không nghĩ ra được biện pháp tốt như vậy! Em dâu đúng là con nhà thư hương có khác.”

Vương thị cảm thấy đắc ý, không nhịn được cười cười, má ngọc Minh Lan ửng đỏ, khiêm tốn nói: “Chị dâu Huyên khen trật rồi, cách ấy không phải em nghĩ ra đâu, bố trí này vốn là do lão đại nhân Hùng Lân Sơn trước kia để lại, em chỉ bắt chước theo mà vẽ hồ lô thôi.”

Huyên đại phu nhân không nhịn được oán giận nói: “Cô xem cô kìa! Thật thà quá cơ, chị đây khen cô thôi, cô chột dạ cái gì!”

Mọi người nghe vậy đều cười vang, Minh Lan ngượng ngùng cúi đầu, Bỉnh nhị phu nhân nhân cơ hội nói: “Em dâu này, khu vườn này của em phải nói là nhìn rất thích, đến rồi chẳng muốn đi nữa! Chị thấy cả một tòa nhà này lớn như vậy mà cũng thật trống trải, không biết chị có may mắn làm bạn với em dâu được không? Chị dọn sang đây ở cùng sẽ vui vẻ náo nhiệt hơn nhiều đúng không nào.”

Minh Lan cười khẽ, nhìn thoáng qua bàn chúng nữ quyến họ Cố, chỉ thấy mấy người họ hơi mất tự nhiên, phần lớn ánh mắt đều mang theo trách cứ mà trừng Bỉnh nhị phu nhân, nhưng nàng ta vờ như không biết, vẫn chờ Minh Lan trả lời.

Mặt Huyên đại phu nhân là nóng nhất, trong lòng chị ta rất oán giận, Bính nhị phu nhân không mặt mũi không thể diện như vậy, không chỉ vứt hết thể diện họ Cố trước mặt ngoại khách, mà còn làm mất mặt chi thứ tư bọn họ trước mặt mọi người.

Chị ta cố sức kéo cánh tay Bính nhị phu nhân, miễn cưỡng cười nói khẽ: “Cô nói nhảm gì thế hả? Bố mẹ chồng còn ở đây, thế mà cô đã muốn dọn ra sao được!” Không biết Bính nhị phu nhân ngu thật hay giả ngu mà nói thẳng: “Vậy cả nhà chúng ta đều dọn qua chẳng phải là được sao?”

Đến mức này thì ngay cả thái phu nhân cũng không vui, mắt thấy sắc mặt tứ lão phu nhân lộ vẻ tức giận, đang định mở miệng quở trách, nào ngờ Như Lan ngồi cùng bàn bên cạnh Viên Văn Anh, ghé vào tai cô nói: “Chẳng phải đã sớm ở riêng rồi sao, lại còn ăn vạ ở chung? Chắc là muốn bớt tiền cơm thôi chứ gì.”Nàng vừa nói xong, Viên Văn Anh vội đẩy mạnh nàng một cái, nháy nháy mắt ý bảo đừng nói.

Câu nói này nói to không to, nói nhỏ không nhỏ, xem qua thì có vẻ như ‘Nói nhỏ’ với Viên Văn Anh, nhưng tất cả mọi người đều nghe rõ ràng, chúng khách nữ nhất thời vui vẻ, cười tủm tỉm xem trò hay trong nhà phủ Cố, ai nấy đều âm thầm nghĩ: Coi như là muốn dọn sang đây, thì cũng là Thiệu phu nhân và Chu thị cùng chứ, chứ làm quái gì tới phiên chị em bạn dâu đã chia nhà ra riêng các chị hở?


Cố Đình Dục là hầu gia, dĩ nhiên không thể dọn ra khỏi phủ Hầu, Cố Đình Vĩ là con ruột của thái phu nhân, phải chăm sóc quả phụ, nên cũng không thể dọn; bọn họ cùng chi thì chẳng ho he gì, thế mà chi thứ tư lại cứ nhớ nhung Trừng Viên này, đúng thật là chẳng biết thẹn!

Lời này của Như Lan vừa nói xong, trong lúc nhất thời, ngoại trừ thái phu nhân và Chu thị, chúng nữ quyến phủ Cố đều lấy làm lúng túng, không nhịn được trừng mắt nhìn Bính nhị phu nhân. Đặc biệt là tứ lão phu nhân, vừa nãy chuyện phiếm được đôi câu, mấy quý phu nhân thấy Đình Huỳnh thoải mái tự nhiên, nói năng cởi mở, khá là yêu thích, trong nhà các bà đều có con cháu nhân phẩm tướng mạo rất tốt, mắt thấy có thể kết được mối hôn sự tốt, nào ngờ vì Bính nhị phu nhân mà mất mất một cơ hội, lúc này trong lòng bà dường như muốn nuốt tươi cả Bính nhị phu nhân!

Dưới những ánh mắt chằm chằm như vậy, cho dù da mặt Bính nhị phu nhân rất dày cũng không chịu nổi, không thể làm gì khác hơn là cúi đầu.

Minh Lan nghiêng đầu không nói, về chuyện ở riêng, gần đây nàng mới biết ẩn tình bên trong.

Trước đây án ngân khố bị vạch ra, ông cụ Cố thấy cùng đường, lo sợ cả nhà bị diệt, cho nên vội vàng phân chia gia sản, có thể giấu được chừng nào thì hay chừng đó, nào ngờ mấy tháng sau Bạch thị vào cửa, đại họa được trừ, con cả Cố lão hầu gia lại quanh năm trú ở biên ngoại, cho nên chi thứ tư và chi thứ năm vẫn ở lại phủ hầu; đợi sau khi Cố lão hầu gia hồi kinh thì chuyện dọn sang nơi khác cũng không được nhắc tới.

Đúng lúc này, Lư lão phu nhân từ đầu đến cuối vẫn hơi híp mắt nghe hí bỗng lên tiếng, giọng bà yếu nhỏ: “Haizzz… Bà già lớn tuổi, tai cũng kém rồi, mấy cô vừa nói, tôi chẳng nghe thấy người ta hát cái gì nữa rồi.”

Tứ lão phu nhân thở phào nhẹ nhõm, vội nói: “Đều là chúng tôi quấy nhiễu bà rồi.” Sau đó hung hăng trừng mắt nhìn Bính nhị phu nhân, trên mặt vờ cười, nặng nề nói, “Mấy đứa chớ lắm mồm nữa, tập trung nghe khúc đi!”

Đến lúc này, trong phòng mới yên tĩnh. Minh Lan âm thầm lắc đầu, thở dài, quay đầu xem khúc đình Thủy Thượng Bồng Lai, không để ý tới mấy người nữa, nghiêm túc thưởng thức khúc.

Bởi vì không dựng sân khấu, nên phần lớn nhóm nữ khách đều chọn văn hí ngắn.

Lư lão phu nhân chọn một đoạn ‘Huấn tử’ trong “Đơn đao hội” (nghe nói cháu trai chưa quá 15 tuổi của bà ấy rất hư), thái phu nhân chọn chương ‘Quy án’ trong “Đông song sự phát” (câu chuyện về mẹ chồng nàng dâu chị em dâu trước hiểu lầm sau hòa thuận), Vương thị chọn ‘Hoàn châu’ trong “Cầm thai ký” (ông chồng sau khi trêu hoa ghẹo nguyệt vô số cuối cùng nhận ra rằng vợ mới là tốt nhất, hối cải hoàn toàn, vợ chồng ân ái đến đầu bạc răng long), sau đó mọi người cũng lục tục chọn khúc mà mình thích.

Trong đó vở “Lưu vân kiều truyện” được chọn nhiều nhất, cứ vài nữ quyến sẽ có một người chọn một đoạn, Minh Lan tính sơ qua, gần như cả vở “Lưu vân kiều truyện” đều được chọn hết.

Vở kịch này bắt đầu từ tiền triều, gần trăm năm qua vẫn thịnh không suy, đặc biệt ngày càng được chúng nữ quyến yêu thích.

Đại khái nội dung vở kịch như sau: Tại một triều đại nào đó, có một vị danh kỹ có duyên quen biết với một vị thám hoa trẻ tuổi, hai người mặc dù địa vị khác biệt, nhưng mới quen đã thân, yêu nhau chân thành; sau đó chàng chuộc thân cho nàng nhập vào lương tịch, nhưng gia tộc không chấp nhận một cô gái thanh lâu. Nàng kỹ nữ này cũng rất cứng cỏi, để lại phong thư rồi rời đi, khuyên thám hoa hãy cưới một thục nữ nhà quyền quý khác làm vợ.

Thám hoa tìm vợ khắp nơi vẫn không thấy, đành phải nghe lệnh cha mẹ, nhiều năm sau, thám hoa vừa góa vợ được đề làm Tuần biên ngự sử, lúc đến biên cương tuần sát thì gặp phải đại quân Yết Nô xâm chiếm, thám hoa thống lĩnh quân dân dốc sức chống đỡ, nhưng địch nhiều ta ít, mắt thấy viện binh chậm chạp chưa tới, định rằng thành phá thì bỏ mình, thám hoa đặt kiếm lên cổ. Lúc này bỗng giữa đại doanh Yết Nô đại loạn; thám hoa nắm lấy thời cơ, nhanh chóng phân phó thủ thành quan binh nhân cơ hội tấn công bất ngờ, quả nhiên đắc thủ, mối nguy cũng theo đó mà tự giải.

Sau cuộc chiến kiểm kê lại mới biết, thì ra có một cô gái bỏ ra số tiền lớn mua năm trăm dê bò ngựa, sau đó đốt phần đuôi của chúng lên như đốt đuốc, dựa theo hỏa ngưu trận của Điền Đan, đuổi đàn gia súc xông vào hậu phương Yết Nô dang không hề phòng bị; thám hoa thấy nghi, bèn hỏi thăm tỉ mỉ mới biết được, cô gái này chính là danh kỹ năm xưa.

Cuối cùng dĩ nhiên là kết cục đại đoàn viên, tài tử giai nhân cầm sắt hòa minh, bạch đầu giai lão, con cháu đầy sảnh đường.

Câu chuyện này rất bết bát, nhưng lại rất động lòng người, bởi vì kịch này từ sự thực mà ra, là một đoạn kỳ duyên tiền triều.


Thám hoa họ Cao tên Đàm, là danh môn đệ tử Giang Tả*, ông tuổi trẻ tài cao, mười sáu tuổi đỗ đạt, trước sau phụ tá ba vị hoàng đế, suốt đời lên lên xuống xuống, tạo phúc cho bách tính vô số, sau được ghi vào chính sử “Danh thần truyện”.

*Giang Tả: một khái niệm địa lý Trung Quốc cổ đại, chỉ phía đông sông Trường Giang, tức Giang Đông.Đây cũng là một vùng nhân sĩ vọng tộc thời Nam Bắc triều.

Mà vợ của ông càng truyền kỳ hơn, bởi vì bà đích thật xuất thân là ca kỹ sông Tần Hoài, đời sau gọi là ‘Lưu Ly phu nhân’. Vốn rằng với thân phận không được tốt đẹp như vậy, cho dù không lừa được người đương thời,dầu gì cũng sáng tác được ít nhiều bản văn chương, miễn cưỡng cũng lừa được con cháu đời sau, thế nhưng vị Cao phu nhân này lại thật sự rất nổi danh, mà chuyện của bọn họ cũng cực kỳ ồn ào, cho dù trên chính sử không ghi, thì trên dã sử cũng đầy khắp mặt giấy.

— Lúc này, bên kia đình bát giác đột nhiên vang lên một hồi trống nhẹ, từ chậm đến nhanh, mười ngón tay của bốn nhạc công đồng thời gẩy nhanh đàn tam huyền, tiếng đàn như khóc như oán, như châu như ngọc tuôn đầy đất, chấn động lòng người. Minh Lan đưa mắt nhìn Chu thị bên cạnh, lại nhìn sang mấy chị em dâu, chỉ thấy vẻ mặt các nàng say sưa kích động, Minh Lan biết, đoạn đặc sắc nhất đã đến:

Cao Đàm trở về từ biên thành khổ sở cầu xin cha mẹ, cuối cùng song thân đồng ý nạp Lưu Ly phu nhân vào cửa làm thiếp, nào ngờ Lưu Ly phu nhân không đồng ý, nàng thở dài với tình lang, nói một câu danh ngôn: “Thiếp yêu chàng rất nhiều, nhưng thiếp còn yêu mình nhiều hơn.”

Những lời này đã khiến nàng bị khinh thường nửa đời, sau khi thoát khỏi tiện tịch, nàng quyết chí nửa đời sau phải thẳng lưng mà sống, mở phân xưởng, chiêu mộ người học nghề, kinh doanh buôn bán, giành lại danh dự cho bản thân, đồng thời ngày tháng của nàng trôi qua rất vui vẻ.

Cao Đàm kiên quyết muốn cưới nàng, nhà họ Cao sống chết không chấp nhận, chuyện này ồn ào đến mức thiên hạ đều biết, khắp phố phường hàng xóm đều bàn tán sôi nổi. Cuối cùng, Cao Đàm dứt khoát vứt bỏ tương lai tươi đẹp, từ chức bỏ hàm, còn bị họ Cao khai trừ từ đường, đuổi ra khỏi nhà.

Sau đó, dưới sự chê trách của người đời hai vợ chồng ẩn cư tại một ngọn núi ở Ung Châu, nương tựa lẫn nhau sống cuộc sống nghèo mà trong sạch, Cao Đàm chuyên tâm đọc sách, soạn sách sửa bài, dạy dỗ học trò, Lưu Ly phu nhân dẫn dân chúng nghèo khó của địa phương phá núi khai mỏ, trữ nước làm ruộng.

Đằng đẳng mười năm, hoàng đế cũng đã đổi, Cao Đàm biên soạn mấy đại tác phẩm  mà lần nữa vang danh khắp thiên hạ, học trò bốn biển ai nấy đều ngưỡng mộ, đều đến đây thỉnh giáo, triều đình ba lần phát chiếu lệnh, mời Cao Đàm phục chức về triều, từ đó về sau mây xanh lên trời, xuất tướng nhập tướng, cũng ba lần vào triều, chức quan lên đến thái sư, môn hạ đệ tử vô số, cuối cùng được chép vào và Trung lương từ.

Còn Cao phu nhân, từ ca kỹ trở thành nhất phẩm cáo mệnh phu nhân, cuộc đời của Lưu Ly phu nhân quả là truyền kỳ nối tiếp truyền kỳ.

Lúc đó Minh Lan đọc đến đoạn này (chính sử + dã sử), từng nghi ngờ hỏi Trang tiên sinh: “Tư nhân có thể tự khai mỏ sao? Quan phủ không quan tâm à?”

“Mỏ khác thì không thể, nhưng mỏ của Lưu Ly phu nhân thì có thể.” Trang tiên sinh nói, “Bời vì mỏ này không phải vàng bạc, không phải đồng thiết, không phải than muối, mà là một loại ‘thạch anh’ kỳ lạ, có thể nấu chế tạo thành thủy tinh, quan phủ cũng không biết vật kia dùng làm gì.”

Thủy tinh! Đúng rồi, thủy tinh.

Con ngươi Minh Lan hơi co lại, liếc nhìn cửa sổ rộng mở bốn phía, mặt trên khảm những tấm thủy tinh sáng trong vắt, có những khối thủy tinh nguyên chỉnh, cũng có những mảnh nhỏ khảm thành hoa văn hoa và chim, ánh sáng rực rỡ chói lòa, cả căn phòng thoáng đãng rộng rãi.

Với trình độ kỹ thuật còn thấp ở cổ đại, Lưu Ly phu nhân thông qua vô số thí nghiệm tỉ mỉ, đầu tiên đốt nên một đồ chơi kiếm chút bạc, mười mấy năm sau chế tạo ra thấu kính lồi, lấy tên là kính thiên lý hay kính lúp, lại thêm mười mấy năm nữa, cuối cùng đổi mới kỹ thuật hoàn toàn, chế thành công một tấm thủy tinh lớn mỏng mà chắc.

Vị Lưu Ly phu nhân này hẳn là xuyên qua — Minh Lan hơi xuất thần nhìn cửa sổ thủy tinh — từ những bản thảo thí nghiệm của nàng còn sót lại đến nay, có thể khẳng định nàng còn là kỹ sư vật lý.


Chuyên ngành này thật là tốt quá đi, Minh Lan cúi đầu thở dài, vô cùng ao ước.

Trong phòng vang lên một tràng tiếng hoan hô nhẹ nhàng, chỉ nghe nữ tiên bên kia đột nhiên trầm giọng diễn sâu, trong ánh mắt là sự tôn thờ vĩnh viễn, đến cả ngụy văn thanh như Minh Lan cũng không thể không thừa nhận, thật là vở kịch hay.

Bởi vì… vở kịch này do một vị đại tài tử tiền triều viết nên, ông chính là đệ tử của Cao thị, năm ông bảy mươi tuổi, nửa đêm nằm mộng thấy thời đi học hồi trẻ, khi đó bọn họ thường xuyên nhìn thấy vợ chồng Cao Đàm tóc bạc trắng dắt tay nhau chầm chậm dạo bộ bên bờ sông, tình cảm ân ái.

Ông rơi lệ mà giật mình tỉnh mộng, cõi lòng đầy cảm kích và kính yêu, vung bút viết nên một vở này truyền lại đời sau, để kỷ niệm ân sư và sư mẫu đã qua đời, đại tài tử mà đã ra tay thì dĩ nhiên khác với người thường, điệu khúc   uyển chuyển động lòng người, lời ca tao nhã sâu sắc đầy ý nghĩa, nhiều câu chữ bên trong hầu như có thể trực tiếp ngâm thành thơ, quả thật là tác phẩm xuất sắc hiếm thấy.

Minh Lan quan sát lần nữa nét mặt chúng nữ quyến xung quanh, có hâm mộ, có ưu tư, cũng có cảm khái, Chu thị bên cạnh khẽ thở dài: “Haizzz… Một cô gái chỉ cần có thể làm được một phần của Lưu Ly phu nhân thôi, cũng coi như là đáng giá lắm rồi.”

Sự tồn tại của Lưu Ly phu nhân, trở thành một dấu hiệu, một biểu tượng, nhắc nhở nhóm phụ nữ rằng trên đời thật sự có trai hiền thâm tình, chẳng qua là bản thân không gặp mà thôi.

Mà đối với Minh Lan, Lưu Ly phu nhân còn là một tín hiệu nói cho nàng biết, nàng có đồng hương.

Từ chỗ bà nội, Minh Lan từng nghe kể qua một ít về chuyện của Tĩnh An hoàng hậu.

Bà xuất thân hiển hách, dung mạo xinh đẹp, lại thông minh từ nhỏ, ba tuổi có thể làm thơ, năm tuổi có thể vẽ tranh (chắc là xuyên hồn), thơ từ tuyệt diệu vô cùng (Đường thi Tống từ), mười lăm tuổi được chọn làm chính phi hoàng tử, hai mươi tuổi sắc phong hoàng hậu; thời thiếu nữ Thịnh lão phu nhân từng tiến cung diện kiến bà, không quá hai năm sau, Tĩnh An hoàng hậu hoăng thệ ở tuổi ba mươi bảy.

“Sao bà ấy lại đi sớm như vậy?” Cô bé Minh Lan từng hỏi.

“Bởi vì bà ấy vốn không nên tiến cung làm hậu.”Vẻ mặt Thịnh lão phu nhân buồn bã nhớ lại, “Phẩm cách của bà ấy thanh cao như tuyết liên trên vách núi.Bà ấy không phải là người cả tin, nhưng rất chân thành với mọi người, bà không phải không biết khéo léo giảo hoạt, mà là coi thường.Mà trong cung là nơi chẳng có tình người, chẳng phải sẽ vấy bẩn bà ấy.Hừ! Một đám gian trá, tưởng mình đã thắng? Cuối cùng đều chết không tử tế!”

Đó là lần duy nhất Minh Lan nhìn thấy bà nội để lộ nỗi căm phẫn oán hận sâu sắc như vậy.

Theo như lý giải của quan phương thì, bởi gian phi tiểu nhân xúi giục, khiến đế hậu sinh hiềm khích, sau đó hoàng hậu say mê kỹ thuật chế gương, xây một xưởng nhỏ trong cung, suốt ngày bận rộn trong đấy, không hỏi đến việc cung đình, cũng không muốn gặp hoàng đế.

“Làm gương?” Minh Lan cả kinh nói.

“Đúng vậy.” Thịnh lão phu nhân cười nói, “Tĩnh An hoàng hậu nói rằng tìm được một phương pháp từ sách cổ, cho nên muốn chế tạo gương từ thủy tinh, so với gương đồng sáng hơn gấp trăm lần, bà ấy cực kỳ thông minh, chỉ một hai năm đã có thành tựu, đáng tiếc…” Thịnh lão phu nhân trầm mặt, Minh Lan không dám hỏi nữa, bà đã qua đời khi chưa kịp chế được một cái gương.

“Bà ấy từng nói, việc hối tiếc nhất đời này của bà, chính là tuổi trẻ thông minh, tài mạo vang danh thiên hạ quá sớm.”Giọng Thịnh lão phu nhân nghẹn ngào, đau buồn nói, “Đúng là bi kịch vì nổi danh!”

Nghe Khổng ma ma nói, trước khi lâm chung, Tĩnh An hoàng hậu đã đốt hết tất cả thơ ca tranh họa từ nhỏ đến lớn của bà, không lưu lại một chút gì.

Chuyện kế tiếp, là do Khổng ma ma tiết lộ.

Nghe tin hậu thệ, Võ hoàng đế như người mất hồn, kiên quyết không chịu tin hoàng hậu mắc bệnh qua đời, lôi hết đám ngự y trong thái y viện đến khám nghiệm tử thi, một người tra không ra sẽ giết một, đến khi giết tên thái y thứ mười thì rốt cuộc nghiệm ra độc tố, từ suy đoán rút ra, xác nhận độc dược mãn tính, Tĩnh An hoàng hậu trúng độc đã ba năm.


Trong Phượng Nghi cung, Võ hoàng đế ngồi bên cạnh thi thể một ngày một đêm, chỉ mấy ngày ngắn ngủi, Võ hoàng đế từ một người phóng khoáng oai hùng chợt thay đổi thành một người hung bạo đa nghi, đến lúc này, tâm tính ông đại biến, ai cũng không tin, không chỉ tra xét cung đình, cung nhân cung phi bị trượng tễ gần nghìn người, còn dấy lên mấy vụ đại án, vô số quan lại bị bắt vào tù tra khảo.

Hoàng quý phi bị ban chết, tru di gia tộc; Thục phi, Lệ phi bị buộc tự sát, cha anh ban chết, gia tộc cách chức làm thứ dân; Trang phi bị bắt vào Thận hình ty, trước dùng hình tra khảo sau xử tử, gia tộc cũng bị giết… Phàm là tần phi chính tam phẩm trở lên đều không tránh khỏi kiếp nạn, vận khí không tốt còn liên lụy người nhà. Tứ phi chỉ còn lại Hiền phi, nhưng vài năm sau cũng bị dọa sợ mà mất; Cửu tần chỉ có Vương sung nghi thoát nạn, có điều sau đó thần trí mơ màng, thoáng cái hậu cung trống hơn phân nữa.

Bằng lương tâm mà nói, cái chết của Tĩnh An hoàng hậu dĩ nhiên có liên quan đến bọn họ, nhưng cũng có không ít người oan khất, có điều khi đó Võ hoàng đế tựa như dã thú phát điên, thấy người cắn người, không ai dám khuyên nhủ; may là, Tĩnh An hoàng hậu còn để lại một cậu con trai nhỏ ôn hòa trung hậu, cũng chính là tiên đế Nhân Tông, cuối cùng nhờ cậu khuyên nhủ Võ hoàng đế mới nghe hai câu.

Màn gió tanh mưa máu ấy kéo dài ba năm. Cuối triều Võ, hoàng đế bắt đầu mê tín thuật sĩ, trắng đêm tế đàn chiêu hồn, có điều hoàng đế không phải người ngu, sau khi chém giết rất nhiều bọn giang hồ bịp bợm, ông gần như tuyệt vọng.

Một đêm khuya nào đó, ông đột nhiên tỉnh mộng, cả đêm phóng ngựa đến hiếu lăng, chạy đến bên quan tài Tĩnh An hoàng hậu khóc rống một hồi, lao thao lải nhải liên miên, sau đó sáng sớm phóng ngựa vào triều, cứ vậy dưỡng thành thói quen.

Nghe đến đó, Minh Lan không kìm được thở dài — sớm biết vậy, hà tất ban đầu lại làm thế!

Thái y từng khẳng định, với sức khỏe của Võ hoàng đế, sống đến bảy tám mươi tuổi tuyệt không thành vấn đề, có điều cho dù thân thể tốt thế nào chăng nữa cũng không thể chịu được mỗi ngày cosplay thành Hoàng Lão Tà. Một lần Võ hoàng đế cảm phong hàn, phát sốt nhẹ, nội ngoại thần công đều khuyên can, nhưng ông vẫn một mực trắng đêm phi ngựa đến hiếu lăng, hôm sau trở về sốt cao không ngừng, không lâu sau thì băng hà.

Câu chuyện này, Minh Lan nghe mà thổn thức không thôi, Thịnh lão phu nhân nói đến đây hết sức hả giận!

Vì duyên cớ đó, mà mấy chục năm sau gương soi mới bắt đầu xuất hiện, mãi cho đến mấy năm trước, tân đế kế vị, di vật của Tĩnh An hoàng hậu niêm phong qua hai đời hoàng đế được bỏ lệnh cấm, hoàng đế sai thợ thủ công phủ nội vụ dựa theo bản thảo của Tĩnh An hoàng hậu mà khởi công, sau đó nhanh chóng chế thành gương có thể soi được rất rõ. Tuy rằng quá trình rất khó khăn, chưa thể phổ cập, nhưng Cố Đình Diệp là trợ thủ đắc lực của hoàng đế lập tức được ban một chiếc gương đứng lớn và hai chiếc gương tay nhỏ một mặt tráng men khảm châu ngọc.

Lưu Ly phu nhân và Tĩnh An hoàng hậu, đầu thai khác biệt một trời vực, Minh Lan tin ràng các nàng đều là người rất đáng yêu, đáng tiếc, một thành công, một thất bại. Cho đến nay, đây là hai đồng hương Minh Lan có thể xác định chắc chắn.

Ngoài ra, mấy chục năm trước từng có một chuyện lạ thế này, có một vị thiên kim của hộ bộ thượng thư lúc bấy giờ, sau một lần bệnh nặng trở nên hoang đường, ngày ngày đòi mở tiệm buôn bán; sau khi cập kê lại dây dưa cùng lúc với mấy thân vương quận vương thậm chí cả công tử thế gia, phẩm hạnh mất sạch, phóng đãng vô cùng, còn thường xuyên dùng lời nói điên cuồng hoang trái cổ động con em thế gia trẻ tuổi.

Danh tiếng bê tha, người gặp người trốn như thấy thứ ô uế, đến năm hai mươi tuổi vẫn chưa thấy ai dặm hỏi hôn sự, cắt đứt cả con đường làm quan của cha, chị em đều không gả được cho đám nào tốt, sau này cô ta bị giam cầm trong am từ đường, nào ngờ cô trốn ra ngoài, tự bán thân vào thanh lâu làm hoa khôi, tuyên bố rằng ‘Lưu Ly phu nhân làm được, vì sao tôi không làm được.”

Có điều từ đầu đến cuối cô ta chẳng gặp được một Cao Đàm, ngược lại đụng phải không phương rác rưởi, đàn ông chơi cô xong quay đít bỏ đi, còn ra bên ngoài khoe khoang có một hồi đắm chìm phong lưu cùng vị thiên kim quyền quý, khiến danh tiếng toàn bộ gia tộc đều bị bôi nhọ.

Chế độ tông pháp cổ đại, một cô gái còn đủ cha mẹ trưởng bối không có tư cách ‘tự bán thân’, gia tộc tìm được cô ta, liền bắt cô quay về, sau đó không nghe thấy tin tức gì nữa, có người nói, là bị trầm đường (cho vào rọ heo thả trôi sông).

Minh Lan nghi ngờ loại hành vi điên cuồng này, rốt cuộc là xuyên qua não tàn, hay là cổ đại đã não tàn, bởi vì không có chứng cớ xác thực, cho nên không thể xác định cô ta có phải là đồng hương của mình hay không.

Trong cõi u minh tự có ý trời, nàng biết bản thân e rằng vĩnh viễn cũng không chạm mặt đồng hương, trong số đồng hương của nàng, có nổi danh khắp thiên hạ, cũng có hoàn toàn vô danh, mà nàng, phỏng chừng thuộc vế sau.

Hoặc nói, cũng cùng lúc này, chỉ khác nơi chốn, cũng có một đồng hương đang chăm chỉ cố gắng sinh tồn, không kinh thế hãi tục, không liều lĩnh xuất đầu, sống nghiêm túc, cố gắng đảm nhận trách nhiệm, dung nhập xã hội này, an bình sống hết một đời.

Chỉ vậy thôi, cũng thật tốt.

Nghĩ đến đây, Minh Lan đột nhiên cười rộ lên, nụ cười này lọt vào mắt Chu thị, vừa xa lạ vừa khó hiểu, vành mắt Minh Lan cong cong, hàm răng nhỏ đều cắn môi, phảng như len lén cất giấu một bí mật thú vị, một mình sung sướng, khóe mắt đuôi mày tràn đầy một vẻ nũng nịu kỳ lạ, có một chút ý xấu, còn có một chút bướng bỉnh.

Chu thị cúi đầu thầm nghĩ: Chả trách anh hai bị mê hoặc.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui