o ngưỡng mộ cánh cửa giáo đường.
William hội ngộ Ubertino
Giáo đường này không nguy nga như những giáo đường sau này tôi gặp ở Strasbourg, Chartres, Bamberg và Paris. Nó khá giống những ngôi giáo đường tôi đã gặp ở Ý, với khuynh hướng vươn thẳng lên trời xanh đến phát chóng mặt, nhưng thực sự lại trụ rất chắc trên mặt đất, chiều ngang thường lớn hơn chiều cao. Ở từng thứ nhất, giáo đường được vây bọc bởi một dãy tường vuông điểm những lỗ châu mai giống như một pháo đài, trên tầng này nổi lên một cấu trúc khác, một giáo đường kiên cố thứ hai, trông hơi giống một ngọn tháp, mái lát đá, trổ nhiều cửa sổ dáng cứng, khắc khổ. Đó là một giáo đường uy nghi như cha ông ta đã xây dựng ở Provence, Languedoc, khác hẳn những hình khối trơ trẽn và kiểu trang trí mang gân quá độ của kiến trúc hiện đại mà mấy thế kỷ gần đây mới chú ý tô điểm cho chỗ ca đoàn đứng hát thêm một tháp nhọn táo bạo đâm thẳng lên trời.
Hai cột thẳng, không chạm trổ, dựng ở hai bên cổng vào mà lúc mới thoạt nhìn, mở ra như một vòm cung vĩ đại, nhưng từ hai cột này lại mở ra hai ô cửa, trên đó chồng chất tầng tầng lớp lớp các vòm cung khác nữa, hướng tầm nhìn về phía lối vào chính diện, như thể vào tận cùng sâu thẳm của đáy vực. Trên đỉnh của lối vào chính này là một mạng đồ sộ, có hai chân vòm chống đỡ hai bên và một cột chạm trổ trụ ở giữa. Cột này chia lối vào thành hai bên, bao quanh bởi những cánh cửa bằng gỗ sồi bọc kim loại. Vào thời điểm đó, mặt trời yếu ớt hầu như đang rọi thẳng xuống mái nhà và ánh nắng rơi xiên xiên xuống chính diện mà không soi sáng khối mạng trung tâm; do đó, sau khi băng ngang hai cây cột, thầy trò tôi đột nhiên thấy mình lọt vào khu vòm dày đặc những hình cung phát sinh từ hàng loạt dãy cột nhỏ hơn được phân bố cân đối để đỡ lấy hai ô cửa. Khi mắt chúng tôi cuối cùng quen được với cảnh u tối, ngôn từ câm lặng từ những phiến đá được chạm khắc - vốn đập ngay vào mắt nhìn và óc tưởng tượng của bất kỳ ai – làm loá mắt tôi và ném tôi vào một ảo giác mà ngay đến hôm nay, lưỡi tôi cũng khó lòng miêu tả nổi.
Tôi trông thấy một ngai vàng đặt trên trời cao và một con người ngồi trên đó. Gương mặt của Người ngồi trên ngai nghiêm và lạnh, đôi mắt mở to, nhìn trừng trừng vào nhân giới đã tiến đến cuối chặng đường lịch sử của mình, mái tóc và hàm râu uy nghi toả chung quanh khuôn mặt và trên lồng ngực như những dòng sông đều đặn, được chia thành hai phía đối xứng. Chiếc vương miện trên đầu Người sáng rực sắc men và ánh châu ngọc; chiếc long bào màu tím, thêu và kết ren bằng chỉ vàng, chỉ bạc, được xếp thành những nếp rộng trên đầu gối, cầm một quyển sách được niêm kín; tay phải giơ cao trong tư thế ban phước, hay tôi có thể nói, khiển trách. Gương mặt Người được toả rạng nhờ vẻ đẹp tuyệt vời của một vòng hào quang có kết một thập tự và đính đầy hoa, trong khi đó, chung quanh ngai và phía trên đầu Người là một cầu vồng bằng ngọc lục bảo sáng lấp lánh. Phía trước ngai, dưới chân Người là một biển pha lê êm chảy và quanh Người, bên cạnh và bên trái ngai, tôi trông thấy bốn sinh vật khủng khiếp - khủng khiếp đối với cái nhìn kinh hãi của tôi, nhưng lại thân thương, ngoan hiền đối với Người trên ngai, Người mà chúng ngợi ca không dứt lời.
Thật ra, không phải tất cả bọn đều khủng khiếp, vì trong số đó có một người đàn ông phía tay trái tôi trông có vẻ khôi ngô, tử tế, tay ông chìa ra quyển sách. Nhưng phía bên kia có một con đại bàng, tôi trông hãi quá, mỏ nó ngoác ra, vuốt nó chắc nhọn, bộ lông dày kết với nhau như một chiếc áo giáp, đôi cánh vĩ đại xoè rộng. Dưới chân Người trên ngai, bên dưới hai sinh vật kia là hai con khác: một bò đấu, một sư tử; mỗi con quái vật giữ trong vó, trong vuốt của chúng một quyển sách. Đầu chúng quay về hướng ngai, nhưng thân lại quay ra, như thể vai và cổ đột nhiên bị xoắn vặn dữ dội, lườn chúng căng thẳng, tứ chi trông như của một con vật đang hấp hối, hàm há rộng, hai cái đuôi như đuôi rắn cuộn lại, quằn quại, ở tận cuối đuôi mọc ra những cái lưỡi lửa. Cả hai con quái vật đều có cánh, đầu viền hào quang, mặc dù hình thù đáng sợ như vậy, chúng không phải từ địa ngục mà là từ thiên đàng, và nếu trông chúng có vẻ khủng khiếp, ấy chính là vì chúng đang rống lên khúc ca xưng tụng Đấng Sắp Hiện, Người sẽ phán xét người sống lẫn kẻ chết.
Chung quanh ngai, bên dưới bốn sinh vật nói trên và dưới chân Người ngồi trên ngai, như thể nhìn qua làn nước trong veo của biển pha lê để làm đầy toàn bộ không gian ảo ảnh này, có hai mươi bốn vị thánh mặc áo choàng trắng, đội vương miện vàng, ngồi trên hai mươi bốn ngai nhỏ hai bên chiếc ngai lớn, được sắp xếp theo khung tam giác của vòm mạng, hàng dưới cùng có bảy và bảy, rồi ba và ba, rồi hai và hai. Vài người cầm đàn luýt, một người cầm lọ nước hoa, và chỉ có một người chơi đàn. Tất cả những người khác đều hân hoan, mặt hướng về Người trên ngai, ca vang lời ngợi khen Người, tứ chi của họ cũng bị vặn xoắn như tứ chi của bốn sinh vật kia, do đó, mọi người thảy đều có thể nhìn thấy Người trên ngai, nhưng đó không phải là cảnh hỗn loạn, mà là những động tác trong vũ điệu mê ly – như David đã múa trước thuyền Ark – do đó nghịch với luật chi phối những thân tượng, dù con ngươi trong mắt họ nằm ở vị trí nào đi nữa thì chúng cũng hội tụ về một điểm rực rỡ chung. Ôi, thật là một cảnh hoà hợp tuyệt vời các nét phóng khoáng, buông thả, các kiểu cách tuy bất thường nhưng duyên dáng, trong đó ngôn ngữ của chân tay được biểu hiện thần tình thoát khỏi sức nặng của xác thịt, các số lượng cố rót thêm vào những thực thể mới lạ, như thể một cơn gió dữ dội đã quật vào những vị thánh này, thổi vào họ hơi thở sự sống, và niềm vui điên cuồng nối tiếp khúc nhạc ngợi ca đã được phép lạ biến hình từ âm thanh hoá thành thực thể…
Khi linh hồn tôi còn đang chơi vơi bay bổng vì bản hoà âm của vẻ đẹp dương thế và những biểu tượng siêu nhiên hùng tráng, trái tim sắp vỡ tung vì những đợt sóng vui dâng trào thì đôi mắt tôi, lần theo nhịp cân xứng của những cửa sổ chạm những đoá hồng rộ nở dưới chân các vị thánh, dừng lại nơi những thần linh đan quyện vào nhau trên chiếc cột chính đang chống đỡ khối mạng trung tâm. Chúng là gì vậy và chúng là biểu tượng cho thông điệp nào vậy, hỡi ba đôi sư tử đứng chồm lên bắt chéo vào nhau tạo thành các hình vòng cung, chân sau trụ trên mặt đất, chân trước bám vào lưng bạn, bờm xoắn cuộn như rắn, mồm ngoác to gầm lên đe dọa, thân quấn vào cột bởi một màng keo, hay một tổ tua xoắn xít? Để làm dịu tinh thần tôi và có lẽ cũng nhằm thuần hoá bản chất ác quỷ của mãnh sư và biến nó thành biểu tượng của những điều cao cả hơn, ở hai bên thân cột hiện lên hai hình người cao lạ thường, giống hệt hai hình người khác ở hai bên các chân vòm chạm trổ, nơi gắn các cánh cửa bằng gỗ sồi. Đây là hình bốn ông già, và căn cứ vào đồ tế nhuyễn của họ, tôi nhận ra Peter và Paul, Jeremia và Isaiah. Áo sống họ cũng vặn vẹo như đang trong một vũ điệu, những bàn tay dài gầy guộc giơ lên, ngón xoè rộng như cánh chim, râu tóc lộng bay trong gió tiên tri, nếp xiêm áo lượt thượt dưới cử động của đôi chân dài tạo nên những đường sóng cuộn sống động, tuy tương phản với các mãnh sư nhưng làm bằng cùng một chất liệu. Khi tôi thôi ngây mắt nhìn cảnh phức điệu huyễn hoặc giữa tứ chi thần thánh với gân cốt quỷ quái, tôi trông thấy những hình ảnh nghĩ thật đáng kinh sợ bên cạnh cửa, dưới những cánh cửa hình cung sâu thẳm, và chỉ có thể biện hộ cho sự xuất hiện của chúng ở nơi chốn này nhờ sức mạnh biểu tượng và bài học ngụ ngôn mà chúng toát ra. Tôi trông thấy một phụ nữ thật khêu gợi, trần truồng, gầy gò, bị những con cóc kinh tởm gặm nhấm, những con rắn xấn vào mút thịt, đang giao cấu với một Thần Dê bụng phệ có đôi chân quái sư đầy lông cứng, họng thô tục đang rống lên lời tự nguyền rủa. Tôi trông thấy một gã bần tiện, xác cứng còng trên chiếc giường xa xỉ lộng lẫy, giờ đang bất lực trở thành con mồi cho đội quân quỷ dữ, một con quỷ xé từ miệng kẻ hấp hối linh hồn của gã dưới hình thể một hài nhi. Tôi trông thấy một kẻ kiêu hãnh và một ác quỷ bám sau lưng hắn thọc móng vuốt vào đôi mắt hắn, trong khi đó hai tên háu đói ẩu đả nhau kịch liệt xé xác nhau thành từng mảnh. Tôi cũng trông thấy những sinh vật khác nữa, đầu dê, lông sư tử, hàm báo, tất cả bị giam vào một khu rừng lửa, mà tôi hầu như có thể cảm nhận thấy hơi nóng toả ra cháy bỏng. Chung quanh chúng, hoà lẫn với chúng, trên đầu, dưới chân chúng, thêm những bộ mặt, chân tay khác nữa: một nam một nữ túm tóc nhau, hai con rắn có mào mút mắt một kẻ bị đày địa ngục, một tên nhăn răng cười lấy tay có móc câu banh họng một con rắn nhiều đầu, và tất cả những loài thú của quỷ Sa-tăng tụ tập lại thành một hội đồng bảo vệ cho chiếc ngai đối diện, ngợi ca ngai trong chiến bại của chúng… Toàn thể sinh linh của âm ty dường như đã hội tụ lại đây, quây thành một tiền sảnh, một rừng thẳm âm u, một hoang mạc trung tâm, cho gương mặt hứa hẹn và đe doạ của Người. Chúng là những kẻ thất trận trong cuộc thư hùng Thiện – Ác Armageddon trước Ngày phán xét, đang đối diện Người cuối cùng sẽ đến để tách người sống khỏi kẻ chết. Sững sờ trước cảnh tượng này, hoang mang không hiểu giờ đây mình đang ở một nơi thân thiện hay trong thung lũng của Ngày phán xét cuối cùng, tôi kinh hãi quá và không cầm được nước mắt. Dường như tôi nghe thấy giọng nói đó, trông thấy những hư ảnh đã bám theo tôi thời tu sinh trai trẻ, lần đầu đọc thánh thư, những đêm tĩnh tâm trong ca đoàn xứ Melk, và trong cơn mê sảng của những giác quan yếu đuối, tôi nghe một giọng nói rền vang như tiếng kèn trôm-pet phán: “Hãy viết vào sách điều ngươi đang thấy” (và đó là việc tôi đang làm). Tôi trông thấy bảy chân nến đai vàng, và ở giữa ngọn nến, Người như con trẻ, ngực thắt đai vàng, râu tóc trắng như tuyết, mắt sáng như lửa, chân đẹp như đồng nung trong lò, giọng nói tợ sóng vọng, tay phải Người chứa bảy tinh tú, miệng phun ra thanh gươm hai lưỡi. Tôi thấy cửa thiên đàng mở ra và Người ngồi trên ngai hiện lên sáng ngời như châu ngọc, một cầu vồng bắc chung quanh ngai và từ ngai phóng ra sấm sét. Người trên ngai cầm trên tay một lưỡi liềm sắc ngọt, la lên: “Vung liềm của ngươi lên và gặt hái đi, vì đã đến lúc ngươi phải gặt hái, vì ruộng đồng thế gian đã chín rồi”, thế là Người ngự trên mây ném liềm xuống mặt đất và thu hoạch mùa màng.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...