Vào những năm 1880, các kiến trúc sư New York tranh nhau ngôi vị thứ hai trong ngành kiến trúc. Không ai dám mơ tưởng vị trí thứ nhất. Vị trí thứ nhất do Henry Cameron giữ. Thật khó mà với tới Henry Cameron vào thời đó. Ông có danh sách khách hàng chờ thiết kế trước hai năm; ông tự tay vẽ mọi bản vẽ thiết kế mà văn phòng mình nhận làm. Ông chọn lựa những gì ông muốn xây. Khi ông xây, khách hàng phải ngậm miệng. Ông đòi hỏi ở mọi người một thứ mà ông không bao giờ trao cho bất kỳ ai: sự tuân phục. Ông trải qua những năm tháng nổi danh như một quả tên lửa bay đến một mục tiêu mà không ai có thể đoán được. Người ta bảo ông điên. Nhưng họ chấp nhận những gì ông làm cho họ dù họ có hiểu nó hay không. Họ chấp nhận vì nó là tòa nhà được xây “bởi Henry Cameron.”
Ban đầu, những tòa nhà của Henry Cameron chỉ hơi khác biệt một chút – chúng không đủ để làm người ta sợ hãi. Thỉnh thoảng ông làm những thử nghiệm gây sửng sốt, nhưng mọi người đều đã chờ đợi trước điều này và chẳng ai lại tranh cãi với Henry Cameron. Nhưng rồi một cái gì đó cứ lớn lên trong ông cùng với mỗi tòa nhà mới; nó trăn trở, định hình và dâng lên dần thành một sự bùng nổ. Sự bùng nổ ấy đến cùng với sự ra đời của các tòa nhà chọc trời. Khi các tòa nhà bắt đầu mọc lên không phải theo kiểu những tòa nhà chia tầng bằng vữa nặng nề mà như những mũi tên thép bắn thẳng lên trời cao, bất chấp trọng lượng hoặc giới hạn, thì Henry Cameron là một trong số những người đầu tiên hiểu được sự thần kỳ này, đồng thời tạo hình cho nó. Ông là một trong những người đầu tiên và hiếm hoi chấp nhận thực tế là một tòa nhà cao thì trông phải cao. Trong khi các kiến trúc sư nguyền rủa và băn khoăn không biết làm thế nào để ột tòa nhà hai mươi tầng trông như một biệt thự gạch cổ điển, trong khi họ sử dụng mọi thứ định dạng hàng ngang sẵn có nhằm đánh lừa cảm giác về chiều cao của tòa nhà, để thu ngắn tòa nhà xuống theo kiểu truyền thống, để che giấu sự xấu hổ của lớp cốt thép, để làm cho nó nhỏ nhắn, an toàn và cổ kính – thì Henry Cameron thiết kế các tòa nhà chọc trời với các đường thẳng đứng, khoe khoang lớp sắt thép và độ cao của chúng. Trong khi các kiến trúc sư vẽ các trụ ngạch và trán tường cổ điển, thì Henry Cameron quyết định rằng các tòa nhà chọc trời không được sao chép kiến trúc Hy Lạp. Henry Cameron quyết định rằng không một tòa nhà nào được sao chép từ tòa nhà nào.
Lúc đó ông 39 tuổi, thấp, chắc nịch, lôi thôi; ông làm việc như một con trâu[7], quên ăn quên ngủ, uống rất ít nhưng rồi uống như hũ chìm; ông gọi khách hàng của mình bằng những cái tên không thể viết ra được; ông cười lớn vào tính đố kỵ của người khác và cố tình kích thích nó; ông xử sự như một nhà quý tộc thời phong kiến đồng thời lại như một người bốc vác ở bờ biển; ông sống trong sự căng thẳng của đam mê – một thứ căng thẳng như một mũi kim chích vào mọi người ở bất cứ căn phòng nào ông bước vào – một thứ lửa mà cả ông lẫn họ đều không thể chịu đựng lâu. Đó là năm 1892.
Nhà triển lãm Columbia tại Chicago mở cửa vào năm 1893.
Công trình kiến trúc La Mã 2000 tuổi này tọa lạc bên bờ hồ Michigan – một thứ kiến trúc La Mã được cải tiến bằng cách chắp vá thêm phong cách Pháp, Tây Ban Nha, Athens và mọi phong cách ra đời sau đó. Nó là “Thành phố mơ ước” của cột, khải hoàn môn, hồ nước, vòi phun nước pha lê và bỏng ngô. Các kiến trúc sư của nó cạnh tranh xem ai có thể ăn cắp tài tình nhất từ các các kiến trúc cổ xưa, cũng như ai là người đồng thời ăn cắp được nhiều phong cách kiến trúc nhất. Khu triển lãm phơi bày trước mắt người ta tất cả những tội ác kiến thiết mà nhân loại từng phạm phải. Một công trình trắng toát như một thứ bệnh dịch và cũng hoành tráng như một thứ bệnh dịch[8].
Người ta đến, chiêm ngưỡng, sững sờ và mang những hạt giống ý tưởng mà họ nhìn thấy từ công trình này đến các thành phố của Hoa Kỳ. Những hạt giống đã nảy mầm thành cỏ dại; chúng phát triển thành những trạm bưu điện ốp ván với những mái vòm kiểu Doric, những biệt thự bằng gạch với trán tường sắt, những chuồng chim được làm bởi mười hai đền parthenon lần lượt xếp chồng lên mái của nhau. Cỏ dại cứ thế lớn lên và ăn lấn mọi thứ khác.
Henry Cameron đã từ chối làm việc cho Triển lãm Columbia và gọi nó bằng những cái tên không thể in lên mặt báo nhưng có thể truyền miệng cho nhau, mặc dù chỉ trong những đám đông nhất định. Sự thật là chúng đã được truyền miệng lại. Người ta cũng truyền nhau rằng ông đã ném một lọ mực vào mặt một chủ nhà băng nổi tiếng khi người này yêu cầu ông thiết kế một ga tàu hỏa phỏng theo đền thờ Diana[9] ở Ephesus. Ông chủ nhà băng đó không bao giờ quay trở lại. Có những người khác cũng không bao giờ quay trở lại.
Chính vào lúc Henry Cameron đạt đến cái đích của những năm tháng tranh đấu lâu dài, chính vào lúc ông định hình được cái chân lý mà ông kiếm tìm, thì thanh rào chắn cuối cùng đã đóng sập trước mặt ông. Nước Mỹ non trẻ đã dõi theo trận chiến của ông, đã băn khoăn, đã bắt đầu chấp nhận sự vĩ đại mới mẻ trong những công trình của ông. Nhưng rồi chính đất nước ấy cũng đã quăng mình trở lại 2000 năm, quăng mình trở lại với chủ nghĩa Cổ điển và vì thế mà không dành chỗ nào cho ông và không dùng ông nữa.Người ta không còn cần phải thiết kế các tòa nhà nữa, người ta chỉ cần sao chụp lẫn nhau; kiến trúc sư với thư viện tốt nhất trở thành kiến trúc sư giỏi nhất. Những kẻ bắt chước lại sao chép những tác phẩm bắt chước. Hậu thuẫn cho sự sao chép ấy – đã có Văn hóa, đã có hai mươi thế kỷ phơi bày trong các tàn tích kiến trúc; đã có nhà triển lãm Columbia vĩ đại; đã có những bưu thiếp châu Âu mà album gia đình nào cũng giữ.
Henry Cameron chẳng có gì để chống lại điều này; chẳng có gì ngoài một niềm tin mà ông giữ bởi vì nó là niềm tin của chính ông. Ông không có ai để trích dẫn và không có điều gì thực sự quan trọng để nói. Ông chỉ nói rằng hình dạng của một tòa nhà phải tuân theo chức năng của nó; rằng cấu trúc của một tòa nhà là chìa khóa cho vẻ đẹp của nó; rằng các phương pháp xây dựng mới đòi hỏi những mô hình kiến trúc mới; rằng ông chỉ muốn xây theo ý mình và chỉ theo ý mình mà thôi. Nhưng người ta không thể lắng nghe ông khi mà họ đang thảo luận về Vitruvius, Michelangelo và Ngài Christopher Wren.
Con người căm thù sự đam mê, bất kỳ sự đam mê vĩ đại nào. Henry Cameron đã mắc sai lầm: ông say mê công việc của mình. Đó là lý do tại sao ông đấu tranh. Đó là lý do tại sao ông thất bại.
Người ta nói rằng ông chẳng bao giờ biết rằng mình đã thua. Nếu ông biết, ông đã không để họ thấy. Khi các khách hàng trở nên hiếm hoi hơn, cách cư xử của ông đối với họ càng trở nên độc đoán hơn. Khi tên tuổi của ông càng kém uy tín đi, thì cái giọng mà ông dùng để gọi tên mình càng kiêu ngạo hơn. Ông từng có một người quản lý rất sắc sảo, một người đàn ông bé nhỏ sắt đá, nhẹ nhàng và kín đáo, người mà, vào thời kỳ huy hoàng của ông, lặng lẽ đối diện với những cơn bão giận dữ của Cameron và đem khách hàng đến cho ông; Cameron xúc phạm khách hàng, nhưng người đàn ông nhỏ bé đã làm cho họ chấp nhận điều này và quay trở lại. Người đàn ông nhỏ bé đó đã chết.
Cameron chưa từng biết cách đối mặt với con người. Họ không quan trọng đối với ông, như chính cuộc đời ông cũng chẳng quan trọng, như chẳng có gì quan trọng ngoại trừ các tòa nhà. Ông chưa từng học cách giải thích mà chỉ biết ra lệnh. Ông chưa bao giờ được yêu quý. Ông chỉ được mọi người sợ. Giờ thì chẳng còn ai sợ ông nữa.
Người ta để cho ông sống. Sống để ghê tởm những con đường của cái thành phố mà ông từng mơ ước xây dựng lại nó. Sống để ngồi bên cái bàn làm việc trong văn phòng trống rỗng của mình, bất động, không việc làm và chờ đợi. Sống để đọc trong một tờ báo đáng kính nào đó, một bài viết đầy ẩn ý có nhắc đến “thời hậu Henry Cameron.” Sống để bắt đầu uống rượu, lặng lẽ, liên tục, kinh khủng, đôi khi suốt đêm ngày; và để nghe chính những kẻ đã đẩy ông đến hoàn cảnh này nói – khi có ai đó nêu tên ông ột cuộc đấu thầu xây dựng – rằng: “Cameron ư? Lẽ ra tôi không nên nói. Ông ta uống như hũ chìm. Đó là lý do tại sao ông ta không bao giờ tìm được bất kỳ công việc nào.” Ông sống để chuyển từ những văn phòng chiếm tới ba tầng lầu của một tòa nhà nổi tiếng tới một tầng lầu trên một đường phố rẻ tiền hơn, rồi đến một căn nhà xa trung tâm thành phố, rồi đến ba phòng nhìn ra một ống thông gió cạnh đường hầm Battery. Ông chọn những căn phòng này vì khi dán mặt vào cửa sổ văn phòng ông có thể nhìn thấy, phía trên một bức tường gạch, đỉnh của tòa nhà Dana.
Howard Roark nhìn tòa nhà Dana qua cửa sổ; anh dừng lại ở mỗi chiếu nghỉ cầu thang khi anh leo sáu tầng gác để lên văn phòng của Henry Cameron. Thang máy không hoạt động. Các bậc thang được sơn một màu xanh lá cây bẩn thỉu cũ kỹ; nước sơn vỡ ra dưới đế giày thành những vụn nhỏ tơi tả. Roark nhanh nhẹn đi lên cầu thang như thể anh có một cuộc hẹn; một tập bản vẽ kẹp dưới cánh tay anh, ánh mắt anh vẫn nhìn về tòa nhà Dana. Một lần, anh đâm sầm vào một người đàn ông đang đi xuống cầu thang; điều này thường xảy ra với anh trong hai ngày vừa qua; anh đã đi bộ dọc theo các đường phố của New York, đầu ngoái ra sau và chẳng chú ý đến cái gì khác ngoại trừ các tòa nhà.
Trong bóng tối phòng tiếp khách của văn phòng Cameron có một cái bàn với một cái điện thoại và một chiếc máy chữ. Một người đàn ông tóc hoa râm ngồi bên bàn. Ông ta gầy giơ xương; ông ta mặc áo sơ mi và một chiếc quần có hai dây treo lỏng lẻo trên vai. Ông ta đang chăm chú đánh máy các thông số kỹ thuật bằng hai ngón tay và với tốc độ không thể tin nổi. Cái bóng đèn lờ mờ tạo thành một luồng ánh sáng vàng vọt trên lưng ông ta, nơi mà cái áo sơ mi ẩm ướt dính chặt vào hai bả vai.
Người đàn ông chậm rãi ngẩng đầu lên khi Roark bước vào. Ông ta nhìn Roark, chẳng nói chẳng rằng và chờ đợi; đôi mắt già nua của ông ta mệt mỏi, vô cảm, vô tâm.
“Tôi muốn gặp ông Cameron,” Roark nói.
“Thế hả?” người đàn ông nói không ra ý phản bác, xúc phạm hay bất kỳ ý nghĩa gì. “Về chuyện gì?”
“Về việc làm.”
“Việc gì?”
“Vẽ thiết kế.”
Người đàn ông ngồi ngây ra nhìn anh. Đây là một yêu cầu mà đã lâu rồi ông ta không còn nghe thấy nữa. Cuối cùng ông ta đứng dậy, chẳng nói một lời. Ông ta lê bước đến cái cửa ở sau lưng và bước vào.
Ông ta để cánh cửa khép hờ. Roark nghe ông ta nói với giọng lè nhè: “Thưa ông Cameron, ngoài kia có một anh chàng nói rằng anh ta muốn tìm việc làm ở đây.”
Sau đó là một giọng trả lời – một giọng mạnh mẽ và rõ ràng, không thể hiện dấu ấn tuổi tác: “Cái gì cơ, một thằng ngu! Tống cổ nó đi... Khoan đã! Cứ cho nó vào!”
Người đàn ông quay lại, để cửa mở và lẳng lặng hất đầu về phía cửa.
Roark bước vào. Cánh cửa đóng lại sau lưng anh.
Henry Cameron ngồi tại bàn làm việc ở cuối căn phòng dài và trống rỗng. Ông ngồi chúi về phía trước, khuỷu tay đặt trên bàn, hai bàn tay đan lại trước mặt. Tóc và râu ông có màu đen nhánh xen lẫn những sợi thô, trắng. Các bắp thịt ở cổ ông ngắn và dày; chúng nổi lên như những sợi dây thừng. Ông mặc một cái áo sơ mi trắng, tay áo gấp lên đến tận khuỷu; cánh tay trần màu nâu cứng cỏi, nặng nề. Các thớ thịt trên khuôn mặt bành bạnh của ông đanh lại, như thể sức ép làm cho chúng già đi. Hai con mắt đen, trẻ trung và sống động.
Roark đứng ở ngưỡng cửa và họ nhìn nhau qua căn phòng dài.
Ánh sáng từ lỗ thông gió mang một màu xám đục. Trong khi đó lớp bụi phủ đầy trên bàn thiết kế và trên một vài tập hồ sơ màu xanh lá cây thì trông như những tinh thể pha lê mờ được lắng xuống bởi ánh sáng. Nhưng trên tường, giữa các cửa sổ, Roark nhìn thấy một bức tranh. Nó là bức tranh duy nhất trong phòng. Đó là bản vẽ một tòa nhà chọc trời chưa từng được xây dựng.
Ánh mắt của Roark di chuyển trước và chúng di chuyển về phía bức vẽ. Anh đi ngang qua văn phòng, dừng lại trước bản vẽ và đứng nhìn nó. Ánh mắt của Cameron dõi theo anh, một cái lườm nặng nề, như một cái kim dài và mảnh được giữ chặt một đầu, còn đầu kia vẽ nên một vòng tròn chậm rãi, rồi châm và ghim thật chặt vào cơ thể Roark. Cameron nhìn mái tóc màu vàng cam và cái bàn tay đang buông cạnh sườn của anh ta – lòng bàn tay mở ra, hướng về bản vẽ, các ngón tay hơi cong lại; chúng bị bỏ quên khi người chủ của nó định làm động tác đón bắt hoặc giữ chặt một cái gì đó.
“Thế nào?” cuối cùng Cameron cất tiếng. “Cậu đến gặp tôi hay là đến để xem tranh?”
Roark quay về phía ông.
“Cả hai,” Roark nói.
Anh bước về phía cái bàn. Mọi người luôn bị mất cảm giác về sự tồn tại của mình trước mặt Roark; nhưng Cameron đột ngột cảm thấy rõ ràng về sự tồn tại của mình, như ông đang thấy trong đôi mắt đang nhìn vào ông.
“Cậu muốn gì?” Cameron cáu kỉnh.
“Tôi muốn làm việc cho ông,” Roark nhẹ nhàng đáp lại. Cái giọng ấy đã nói: “Tôi muốn làm việc cho ông.” Nhưng âm điệu của cái giọng ấy lại nói: “Tôi sẽ làm việc cho ông.”
“Cậu sẽ?” Cameron nói mà không nhận ra rằng ông đã trả lời cái câu hỏi không được tuyên bố kia. “Có chuyện gì vậy? Không ai nổi tiếng hơn hay giỏi hơn tôi nhận cậu à?”
“Tôi không nộp hồ sơ cho ai khác.”
“Tại sao không? Có phải cậu nghĩ đây là chỗ dễ dàng nhất để bắt đầu? Cậu nghĩ rằng bất kỳ ai cũng có thể đi vào đây mà không gặp trở ngại hả? Cậu có biết tôi là ai không?”
“Có. Đó là lý do tại sao tôi đến đây.”
“Ai giới thiệu cậu đến đây?”
“Chẳng ai cả.”
“Cậu chọn tôi vì cái chó chết gì?”
“Tôi nghĩ là ông biết điều đó.”
“Cái chó gì làm cậu tin rằng tôi cần cậu? Có phải cậu cho rằng tôi quá túng quẫn đến mức tôi phải mở cửa chào đón bất kỳ thằng vô lại nào đến làm việc cho tôi? Có phải cậu tự nói với mình rằng ‘Ôi lão già Cameron, lão là đồ hết thời,... đồ nát rượu...’ nào, cậu đã nói thế... ‘một kẻ thất bại nát rượu chẳng thể nào kén chọn được!’ Có đúng vậy không?... Nào, nói đi đi! Nói đi, đồ chết tiệt! Cậu đang nhìn cái gì đấy? Có đúng vậy không? Nói đi! Cứ chối đi xem nào!”
“Không cần thiết.”
“Trước đây cậu đã làm ở đâu?”
“Tôi mới chỉ bắt đầu.”
“Cậu đã làm được gì?”
“Tôi học ba năm ở Stanton.”
“Ra thế? Quý ngài đây lười đến nỗi không buồn học xong cơ à?”
“Tôi bị đuổi học.”
“Tuyệt vời!” Cameron đấm tay xuống bàn và cười phá ra “Hoành tráng quá nhỉ! Cậu không đủ tốt đối với cái đám chấy rận ở Stanton, nhưng mà cậu sẽ làm việc cho Henry Cameron cơ đấy! Ngài đây nghĩ rằng chỗ này là chỗ chứa đồ phế thải! Tại sao họ lại tống cổ ngài ra thế? Vì rượu? Vì gái? Hay vì cái gì?”
“Vì những cái này,” Roark nói và chìa các bản vẽ của mình ra.
Cameron nhìn bản vẽ đầu tiên, rồi bản tiếp theo rồi tất cả mọi bản vẽ, cho đến tận bức dưới cùng trong tập giấy. Roark nghe tiếng giấy sột soạt khi Cameron lật hết tờ này đến tờ khác. Rồi Cameron ngẩng đầu lên.
“Ngồi xuống.”
Roark vâng lời. Cameron nhìn anh chăm chú, những ngón tay mập mạp của ông gõ nhịp trên tập bản vẽ.
“Cậu nghĩ là chúng đẹp lắm hả?” Cameron hỏi. “Hừm, chúng thật kinh tởm. Không thể diễn tả nổi. Đó là tội ác. Nhìn này,” ông ném một bản vẽ vào mặt Roark, “nhìn đi. Ý tưởng của cậu là gì vậy? Cái quái gì đã làm cậu quyết định nhét cái bản vẽ đó vào đây? Có phải chỉ vì cậu muốn có cái gì đèm đẹp, nên cậu phải gom góp tất cả những thứ cậu có? Cậu nghĩ cậu là ai cơ chứ? Vì Chúa, cậu nghĩ cậu là Guy Francon à?... Nhìn tòa nhà này đi, đồ ngu! Cậu có ý tưởng như thế này mà cậu lại không biết phải làm gì với nó cả! Cậu nghĩ ra một thứ tuyệt vời và cậu phải phá tan nó! Cậu có biết cậu còn phải học nhiều lắm không?”
“Có. Đó là lý do tại sao tôi đến đây.”
“Và nhìn cái kia xem! Tôi ước là tôi đã vẽ được như thế vào tuổi của cậu! Nhưng tại sao cậu lại phải phá hỏng nó? Cậu có biết tôi sẽ làm gì với nó không? Nhìn này, mặc xác các cầu thang gác và cả lò sưởi nữa chứ! Khi cậu đặt móng...”
Ông hăng say nói một lúc lâu. Ông chửi thề. Ông không thấy bất kỳ bản vẽ nào làm ông thỏa mãn. Nhưng Roark nhận thấy ông nói như thể các tòa nhà này đang trong quá trình xây dựng.
Ông đột ngột ngừng lại, đẩy các bản vẽ sang bên cạnh và đặt nắm tay lên trên. Ông hỏi:
“Cậu quyết định trở thành kiến trúc sư từ bao giờ?”
“Khi tôi 10 tuổi.”
“Người ta không biết mình muốn gì ở tuổi đấy, giả sử như có lúc nào đó trong đời mà họ biết. Cậu nói dối.”
“Tôi nói dối?”
“Đừng nhìn tôi chằm chằm như thế! Cậu không nhìn cái gì khác được à? Tại sao cậu quyết định trở thành kiến trúc sư?”
“Tôi không biết. Nhưng đó là vì tôi chưa từng tin vào Chúa.”
“Nào, đừng nói vớ vẩn nữa!”
“Vì tôi yêu quý mặt đất này. Đấy là tất cả những gì tôi yêu quý. Tôi không thích hình dạng của những thứ trên trái đất này. Tôi muốn thay đổi chúng.”
“Cho ai?”
“Cho bản thân tôi.”
“Cậu bao nhiêu tuổi rồi?”
“22.”
“Cậu nghe được những thứ này từ bao giờ?”
“Tôi không nghe”
“Người ta không nói như vậy khi 22 tuổi. Cậu không bình thường.”
“Có lẽ vậy.”
“Tôi không có ý khen!”
“Tôi cũng thế.”
“Có gia đình không?”
“Không.”
“Làm việc để trả tiền học?”
“Vâng.”
“Việc gì?”
“Xây dựng.”
“Cậu còn lại bao nhiêu tiền?”
“70 đô la và 30 cent.”
“Cậu đến New York khi nào?”
“Hôm qua.”
Cameron nhìn tập hồ sơ bìa trắng dưới nắm tay mình.
“Quỷ tha ma bắt cậu đi,” Cameron nhẹ nhàng nói.
“Quỷ tha ma bắt cậu đi!” Cameron chợt gầm lên và chồm người về phía trước. “Tôi không yêu cầu cậu đến đây! Tôi không cần người vẽ thiết kế! Chẳng có gì ở đây để thiết kế cả! Tôi không có đủ việc làm để cứu bản thân tôi và nhân viên của tôi khỏi trại tế bần[10]! Tôi không muốn có bất cứ thằng ngốc có tài nào bị chết đói ở chỗ này! Tôi không muốn chịu trách nhiệm. Tôi không yêu cầu trách nhiệm. Tôi không bao giờ nghĩ là phải gặp lại nó. Tôi đã chán ngấy trách nhiệm rồi. Tôi chán ngấy nó từ cách đây lâu rồi. Tôi hoàn toàn hài lòng với bọn ngốc thò lò mũi xanh mà tôi đang có ở đây; bọn chúng chưa từng có cái gì và sẽ chẳng có cái gì và chúng trở thành cái quái gì thì cũng thế cả. Tôi chỉ muốn có thế thôi. Tại sao cậu lại phải đến đây? Cậu đang chuẩn bị phá hỏng chính bản thân cậu; cậu biết thế, đúng không? Và tôi sẽ giúp cậu làm việc này. Tôi không muốn nhìn thấy cậu. Tôi không thích cậu. Tôi không thích cái mặt của cậu. Cậu là một kẻ sùng bái bản thân mình; cậu không thể bị tổn thương. Cậu thật láo toét. Cậu quá tự tin. Cách đây hai mươi năm, tôi sẽ sung sướng được đấm vào mặt cậu. Cậu sẽ đến đây làm việc vào ngày mai, đúng chín giờ sáng.”
“Vâng,” Roark trả lời và đứng lên.
“15 đô la một tuần. Đấy là tất cả những gì tôi có thể trả cậu.”
“Vâng.”
“Cậu đúng là đồ ngốc. Đáng lẽ cậu nên đi làm cho người khác. Tôi sẽ giết cậu nếu cậu làm việc cho ai khác. Tên cậu là gì?”
“Howard Roark.”
“Nếu cậu đến muộn, tôi sẽ đuổi cậu.”
“Vâng.”
Roark vươn tay lấy các bản vẽ.
“Để chúng ở đây!” Cameron gầm lên. “Giờ thì cút ngay!”
[1]Kiểu Doric: một trong ba kiểu cột trụ thời Hy Lạp cổ đại. Chiều cao của cột bằng 5,5 lần chiều rộng của cột. (ND)
[2] Nguyên văn: những họa sĩ mặc áo thụng Hy Lạp.
[3] Kiểu Chippendale: một kiểu đồ gỗ thế kỷ 18 ở Anh; do nhà thiết kế Thomas Chippendale sáng tạo và công bố trong một cuốn sách vẽ các thiết kế đồ gỗ của ông. (NHĐ)
[4] Vua James đệ nhất (1566-1625): một Hoàng đế nổi tiếng của Anh. Đây là thời kỳ có một phong cách kiến trúc riêng. (NHĐ)
[5] Nhà thờ lớn ở Rheims, nơi các vua của Pháp từng được phong vương. Nó được xây theo kiến trúc nhà thờ lớn đặc trưng, giống như của nhà thờ Đức Bà Paris hiện nay. (NHĐ)
[6] Khu nhà triển lãm hải dương học.
[7] Con chó trong nguyên tác. (NHĐ)
[8] Ở đây tác giả chơi chữ trong nguyên bản: màu trắng của tòa nhà triển lãm là do màu sơn của nó, nhưng tác giả chơi chữ "white plague" - vốn là từ ám chỉ "nạn dịch trắng" tức là những thứ dịch vào thế kỷ 19 và 20, trong đó những bệnh thường trở nên xanh xao, trắng nhợt. Những dịch này - ví dụ như lao - lan rộng, khó chữa, khiến nhiều người chết và người ta thường đổ vôi bột trắng trên các mộ chôn tập thể. (NHĐ)
[9] Trong thần thoại La Mã, Diana là nữ thần săn bắn, chị em sinh đôi với thần Appolo, con trai của thần Zeus và Latona. (NHĐ)
[10] Nguyên văn: Bowery Mission, là một chương trình từ thiện ở New York, từ thế kỷ trước, dành cho người nghèo, vô gia cư. (NHĐ)
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...