Nghe xong tên này gáy tôi lành lạnh, vô ý thức hỏi: “Ngô Tam Quế nào?”
Ngô Tam Quế tỏ vẻ không thích, trầm giọng nói: “Là Ngô Tam Quế có Trần Viên Viên.”
Lão hán gian! Lại còn hổ báo trâu bò như vậy! Thật sự muốn đấm lão một phát.
Nhưng nhìn lão hình như cũng muốn đấm tôi, tôi giương mắt nhìn tới nhìn lui rồi kéo Sáu Lưu lại hỏi: “Hắn tới làm gì?”
Sáu Lưu vui vẻ nói: “Nói tóm lại hắn cũng là danh nhân, chú không thể yêu cầu đưa người tới không có một vết đen, hơn nữa cũng chẳng có người nào mà không có chút vết đen.”
“Vậy lão cũng không nên bất thình lình đưa tới đây một tên hán gian, hơn nữa Ngô Tam Quế nhiều cừu nhân lắm nha.”
Sáu Lưu vui vẻ nói cho tôi: “Đây là khảo nghiệm của bên trên dành cho chú, lúc anh giúp chú chuẩn bị 500 vạn thì sao chú không kêu oán?”
Tôi kháng nghị: “Lúc trước chỉ nói là muốn tiếp khách, muốn làm theo hợp đồng, đám hảo hán Lương Sơn tôi tiếp đãi rồi, Tứ Đại Thiên Vương cũng không phải thuộc trách nhiệm của tôi tôi cũng quản rồi, hiện tại lại tới thêm một Ngô Tam Quế, Hà Thiên Đậu mà dẫn Lý Tự Thành cùng một đám người từ trong xó ra thì tôi biết làm sao? Các vị đang đơn phương vi phạm ước định, nên tăng thù lao.”
Sáu Lưu thong thả nói: “Vậy không cần phải chờ Hà Thiên Đậu nữa, anh đưa luôn Trần Cận Nam tới, theo quy củ chú cũng phải quản hả?”
Tôi: “…”
Sáu Lưu thấy tôi á khẩu, vỗ vai tôi nói: “Thời gian nhiệm vụ rất gấp gáp, chú có bực tức cũng là chuyện thường, nhưng không thể tiêu cực lười biếng. Kỳ thật anh cũng giúp chú nhiều, anh an bài họ tới lúc năm mới, trọng trách của chú càng nhẹ nhàng hơn đúng không? Cho nên, tổ chức chẳng những tín nhiệm chú, hơn nữa luôn cam đoan đảm bảo công việc của chú tiến triển thuận lợi…..
Tôi nói: “Nghe lão nói vậy là yêu cầu tiền hoa hồng hả. Nếu không lão ăn miếng bích quy phục chế Triệu mắt trắng đi này?”. Cuối cùng tôi cũng nghĩ tới chuyện thỏ thọt, nói với Sáu Lưu:: “A, hỏi lão chuyện này…”
Sáu Lưu cắt lời tôi: “Còn chưa tới lúc lĩnh lương.”
“Không phải vậy.”
“Tiền anh mượn chú tháng sau anh trả lại.”
“…Cũng không phải cái này.”
“À? Vậy chú hỏi đi.”
Tôi cố nén ý muốn muốn bóp chết lão: “Một con ngựa còn nhớ rõ chủ nhân đời trước, đây là chuyện gì?”
Sáu Lưu thản nhiên trả lời: “Chuyện bình thường. Ngựa, trâu, còn có mèo chó đều là động vật thông linh, tức là như người ta nói là âm khí trọng, mặc dù không phải tất cả đều nhớ đời trước là gì, nhưng mà chúng khác với các động vật khác. Trí nhớ kiếp trước bọn chúng bất diệt vài đời có xác xuất phi thường lớn, mọi người đều nói ngựa già thuộc đường, nhưng vì sao ngựa non cũng biết đường? Vì sao chó mèo vẫn rất ngoan ngoãn đột nhiên lại nổi điên cắn người?”
Tôi sợ hải: “Bởi vì chúng nó có oán với người đó đời trước?”
Sáu Lưu gật đầu: “Ừ, đương nhiên - cũng có thể vì bị bệnh.”
Tôi: ‘’….” Tôi đột nhiên nhớ ra, có mấy năm tôi rất hay bị chó cắn, mỗi năm 4 lần làm tôi trở thành kỳ nhân ở khu, ngang hàng với mức độ tăng trưởng GDP của thành phố. Tâm tôi chợt lành lạnh, chẳng lẽ đời trước tôi là thằng bán thịt chó? Cho dù kiếp trước không phải như vậy thì giờ có khi cũng nên đi tiêm vắc xin phòng dại, thời kỳ ủ bệnh dại dài nhất là 20 năm, cũng chẳng biết giờ tiêm có tác dụng không. Tôi thật sự sợ hãi có ngày tôi sợ ánh sáng, sợ nước, đứng dưới cột điện đi đái, thấy người tới thì chạy lại liếm người ta….
Tôi lại hỏi Sáu Lưu: “Người thì sao? Người xuất hiện tình huống như thế cao không?”
Sáu Lưu: “Cũng không phải là không có, nhưng ít đến khó tin, trên cơ bản vài trăm triệu người mới có một, hơn nữa - người như thế bình thường đều vô cùng cố chấp không chịu quên chuyện trước kia, bọn họ khi uống mạnh bà thang ra sức chống lại dược tính, nói vậy khẳng định sẽ bị tổn thương đầu óc đến một trình độ nhất định, sinh ra sẽ bị thiểu năng. Cho dù lớn lên không đơ cũng ngốc, có thể thành công bảo toàn trí nhớ kiếp trước cơ hồ là không có.”
Vậy tên tự xưng Chu Thương kia cũng quá khủng?
Tôi giữ Sáu Lưu lại: “Vậy còn câu hỏi cuối cùng.”
Sáu Lưu như biết trước: “Chú cứ hỏi, trên trời dưới đất, còn không có chuyện gì mà Sáu gia gia của chú không biết.”
“Tiền tôi cho lão vay tháng sau lão trả lại thật hả?”
Sáu Lưu lảo đảo, lão lừa đảo giả say bỏ trốn.
Tôi nhìn Nhan Chân Khanh cùng Trương Trạch Đoan, cung kính nói: “Nhị vị đi theo ta.” Sau đó nhìn Ngô Tam Quế, lão dường như phát hiện tôi chẳng thích thú gì lão, lạnh lùng nhìn lại tôi, tôi đành miễn cưỡng nói: “Lão cũng cùng đi luôn.” Ngô Tam Quế hừ lạnh, đứng lên đi theo chúng tôi.
Không có cách nào khác cả, văn hán gian như Tần Cối tôi có thể vừa đánh vừa chửi, những võ hán gian như Ngô Tam Quế thì tôi không tiện xử lý. Nhìn qua cũng thấy lão già chẳng khó khăn gì có thể đánh gục năm ba thằng như tôi, hơn nữa tôi nghe nói lão hán gian mặc dù đầu hàng nhưng cuối cùng cũng bị Thanh chính phủ tiêu diệt, cuộc đời mang binh hiếm bại tích. Ngay cả Khang Hy cũng khen ngợi lão già này dũng không thể đáng.
Nhan Chân Khanh biết Trương Trạch Đoan chuyên về mỹ thuật, lập tức chắp tay nói nói Ngô Tam Quế: “Còn chưa thỉnh giáo vị nhân huynh này?”
Ngô Tam Quế thản nhiên: “Ngô mỗ bất quá là một võ phu, vì một nữ nhân không tiếc làm vài vạn binh sĩ chảy máu đầy đất, cuối cùng cũng lưỡng diện tam đao, khiến người ta xem thường.” Nói xong trừng mắt hung hăng nhìn tôi.
Đó là thái độ nhận lỗi sao?
Nhan Chân Khanh nghe qua không hiểu, chỉ nói cho có lệ: “Ha ha, chỉ có anh hùng mới có bản sắc. Ngô huynh thật khí phách.”
Trương Trạch Đoan nói với tôi: “Tiểu Cường thân là người phát ngôn của Tiên Đình, tất là thư thi song tuyệt, chẳng biết có tác phẩm gì truyền thế cho chúng ta được chiêm ngưỡng học tập?”
Sỉ nhục tôi? Tôi lúng túng nói: “Sao lại nói vậy, tôi chỉ là một dân thường…” có người nào thi thư song tuyệt tên Tiểu Cường sao? Trương lão đầu thật quá ngây ngô.
Trương Trạch Đoan lại muốn hỏi, Nhan Chân Khanh đã thấy tôi không tự nhiên, vội hòa giải: “Tiểu Cường hiền đệ thật khiêm tốn, ngày sau lĩnh giáo thêm.”
Lên xe tôi quay đầu lại nói với Trương Trạch Đoan: “Trương lão, bức Hà Đồ của ngài truyền tới hậu nhân đã không được đầy đủ, ngài có định vẽ lại một bức không?”
Trương Trạch Đoan dứt khoát lắc đầu: “Cùng một người nhưng không cùng bức họa, đó là nguyên tắc cơ bản của họa sĩ.” Sau đó tôi lại cân nhắc ý của lão, đại khái nói một họa sĩ nếu thành công bằng một bức tranh rồi thì không ngừng vẽ lại một bức tranh là lãng phí tính mạng nghệ thuật. Dù sao nghệ thuật gia cần sáng tác chứ không phải chế tác, xem ra muốn lão nhân tái hiện “Thanh minh thượng hà đồ” là không thực tế, cho dù có thể vẽ ra cũng không đủ linh khí.
Trương Trạch Đoan nhìn xe cộ nườm nượp bên ngoài ngơ ngác hỏi: “Nơi này phồn hoa, co thể nhập họa.”
Tôi càng hoảng sợ, vội nói: “Ngài đừng lãng phí linh cảm, muốn đi chỗ nhiều người lát tôi mang đi tới phú quý lộ, hoặc tối tới phố quán bar.” Ngẫm lại cũng rất thích thú, Trương đạo sư dưới sự dẫn đường của tôi vẽ “Phú quý lộ đào hóa đồ” hoặc “Quán bar phố tầm mỹ đồ”. Tôi … tôi thành tội nhân của dân tộc rồi.
Trương Trạch Đoan căn bản không nghe tôi nói, chỉ nhìn bên ngoài ngẩn người, Nhân Chân Khanh nói: “Đừng quấy rầy nó, hội họa chú trọng hồn nhiên thiên thành, cơ hội.”
Trương Tranh Đoan mỉm cười tỏ vẻ cảm tạ Nhan Chân Khanh, lại ngẩn người.
Tới trước cửa trường, Nhan Chân Khanh bỗng hét lớn: “Dừng lại.”
Tôi vội phanh gấp, Ngô Tam Quế biến sắc. Vô thức rút đao bên hông, cảnh giác nhìn bốn phía, hỏi: “Có mai phục sao?”
Trương Trạch Đoan cũng từ trầm tư tỉnh lại, xoa đầu hỏi: “Sao vậy?”
Nhan Chân Khanh thò đầu ra cửa xe, nhìn giáo kỳ của trường say mê: “Là người phương nào vẽ? Thật xứng là thư họa song tuyệt. À, một hàng chữ dùng hai loại bút thể, ba chữ đầu là bắt chước thư thánh Vương Hữu Quân, ba chữ sau không biết là của vị thánh thủ nào, nhưng tụ thành nhất thể…”
Trương Trạch Đoan nhìn đến xuất thần, tiếp đó nói: “Cái khó là họa cũng có thần vận, trương cuồng như Ngô Đạo Tử, thần thái giống như Diêm Lập Bản, tuyệt diệu.”
Tôi phục sát đất: “Hai vị nói đúng, lá cờ này do bốn vị đại gia hợp tác, ba chữ trước không phải bắt chước mà là do đích thân Vương Hi Chi viết, ba chữ sau do Liễu Công Quyền sửa. Còn về họa…”
“A, thực sự là Vương Hữu Quân ở đây?’
Không chờ tôi nói xong, Nhan Chân Khanh vốn ổn trọng kêu lên.
Chúng tôi mới vừa xuống xe thì thấy một lão nhân đi qua, tôi lập tức chỉ cho họ: “Đó là trà thánh Lục Vũ.” Không chờ tôi chào, tôi lại chỉ vào một lão nhân đeo kính cầm bút ký đi cùng bọn nhỏ vừa tan học nói: “Vị kia là thần y Biển Thước, một vị thần y khác là Hoa Đà ở trong phòng giáo viên.” Biển Thước hiện tại đi học đánh vần cùng chữ giản thể với các học sinh lớp dưới.
Đi ngang qua Đại lễ đường chúng tôi gặp Ngô Đạo Tử, lão nhân đội một cái mũ gắp bằng giấy báo đang đứng trên thang vẽ lên trần nhà. Diêm Lập Bản đứng bên tường vẽ Khổng môn 72 hiền, tôi thấy nên giới thiệu Trương Trạch Đoan cho mọi người biết. Diêm Lập Bản ngoắc bọn tôi: “Đợi chút, tôi vẽ xong Nhan Hồi, thêm vài bút nữa là xong.”
Nhan Chân Khanh cảm thán: “Chỗ cậu thật là quần hiền hội tụ.”
Tôi kéo ông ấy: “Đi, tôi dẫn ngài đi gặp Vương Hi Chi.”
Tới phòng học, Vương Hi Chi cùng Liễu Công Quyền đang bận tối mắt tối mũi. Vương Hi Chi viết: “Học, học nữa, học mãi”, Liễu Công Quyền viết: “Thi đua dậy tốt học tốt”. Mấy tác phẩm này mỗi phòng treo một đôi, đây cũng là kế quyền biến, chữ viết có tốt nhưng nội dung như vậy đại khái cũng không bị nhận ra? Đương nhiên đây cũng không phải là nhiệm vụ chủ yếu của họ, tân giáo khu có mấy bức tường chờ bọn họ viết, hiện tại cũng là luyện chữ.
Chỉ chốc lát Ngô Đạo Tử cùng Diêm Lập Bản cũng tới, chư vị đại sư gặp nhau náo nhiệt một hồi, nơi này chỉ có Trương Trạch Đoan nhỏ nhất, lão thi lễ với từng người, xoa tay nói: “Các vị huynh trưởng, chúng ta gặp nhau cũng không dễ, đệ ra một đề mục.” Có thể thấy Trương đại sư rất hưng phấn, không còn khô khốc ngây ngô như vừa rồi.
Diêm Lập Bản cùng Ngô Đạo Tử đều nói: “À, hiện đệ thỉnh giảng.”
Trương Trạch Đoan nói: “Thời của đệ, Thánh Thượng Huy Tông từng ra một đề “đạp hoa quy lai mã đề hương”, lấy họa để biểu lộ tình cảnh, nhất là chữ “hương”, nhị vị huynh trưởng có lương sách?”
Ngô Đạo Tử cười nói: “Không bằng ba người chúng ta đều vẽ một bức, sau đó mời các vị bình luận, thế nào?”
Vương Hi Chi vừa nghe tam đại thánh họa muốn đấu họa, đây là chuyện trăm ngàn năm khó gặp, cùng với đám Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền vỗ tay khen hay. Ngô Tam Quế không kiên nhẫn được nói: “Các ngươi cứ đấu, ta ra ngoài đi dạo” Tôi cũng chẳng thèm để ý.
Trong phòng học, bút mực màu đều có sẵn, ba vị hội họa đại sư mỗi người một bàn, Diêm Lập Bản nói: “Chúng ta lấy thời gian một nén hương làm hạn định nhé?’ Nhị vị gật đầu.
Đi đâu kiếm hương cho họ đây? Cuối cùng tôi châm một điếu thuốc, lộn lại để lên bàn nói: “Các vị lão gia tử, vậy thế này đi, ba điếu thuốc làm hạn định, hẳn là cũng không sai lệch nhiều lắm.”
Vì vậy, trong khói trắng lượn lờ, ba vị đại sư múa bút vẩy mực, nếu có thêm chút nhạc thì tốt, đáng tiếc Du Bá Nha đập vỡ cây đàn rồi.
Vương Hi Chi mấy người dù không tinh hội họa nhưng có tạo nghệ nghệ thuật rất cao, vây quanh ba người xem mê mải.
Ba vị bút pháp khác nhau, Ngô Đạo Tử vẽ nhanh nhất. Nháy mắt vẽ lên một con tuấn mã khí thế bừng bừng, kỵ sĩ cúi rạp mình, mắt nhìn phía trước, vô cùng sinh động, chữ hương này biểu hiện thế nào còn chưa nhìn ra mánh khóe.
Diêm Lập Bản thong thả ung dung vẽ một đứa nhỏ, bất quá ngay cả ngựa cũng không thấy đâu, càng khó hiểu hơn.
Chỉ có Trương Trạch Đoan đang chậm rãi vẽ ngựa, nhưng hương từ đâu cũng chưa thấy điềm báo gì.
Hai điếu thuốc đã cháy hết, trên giấy của Ngô Đạo Tử đã xuất hiện tiên y nộ mã, Diêm Lập Bản vẽ mười mấy đứa nhỏ, vẫn không thấy bóng ngựa, Trương Trạch Đoan lại tiếp tục vẽ nhân mã đồ. Lúc này ba bức tranh đã xem như quốc họa tinh phẩm. Bút pháp thuần thục cặn kẽ, nhưng mà còn chưa xuất ra chữ “hương”.
Tôi đặt điếu thuốc cuối cùng lên bàn – may mắn là nói trước một nén hương, các vị đại sư mà muốn chậm rãi tinh tế thi đấu thì chắc chắn trúng độc ni cô tin rồi.
Tôi vội, đám Vương Hi Chi dường như cũng thiếu kiên nhẫn, mặc dù vẫn chắp tay sau lưng nhàn nhã đi dạo, nhưng rõ ràng bước chân đã nhanh hơn, đi tới đi lui quanh mấy vị họa sĩ.
Đến khi điếu thuốc cuối cùng còn chưa được một phần ba, Ngô Đạo Tử bỗng ưỡn lưng lau mồ hôi. Tôi nghĩ lão đã vẽ xong, ai ngờ lão lau một hồi rồi mắt mở lớn, nằm sấp xuống, tựa hồ tiến nhập vào lúc chạy nước rút cuối cùng, chỉ thấy lão lắc cổ tay, điểm mực liên tiếp trên giấy, nước mực khuyếch tán. Tôi cũng nhìn ra, kỳ thật đó đại biểu rất nhiều cánh hoa, như vậy bức họa thành một kỵ sĩ cưỡi ngựa giơ roi, mặc dù từ kỵ sĩ không nhìn ra mùa nào nhưng không càn nói cũng biết từ cánh hoa có thể khiến người khác nổi lên xuân ý. Lúc này Ngô Đạo Tử mới thở ra một hơi dài, xem ra đã chân chính thu công.
Lúc này thuốc đã cháy tới cuối, giấy của Diêm Lập Bản lại chỉ có một đứa nhỏ trợn mắt há mồm. Tôi cũng trợn mắt há mồm – xem ra ý của Diêm lão là muốn nhận thua. Nào biết Diêm Lập Bản bỗng vẽ tại xa xa một con ngựa sắp biến mất trong tầm mắt, sau đó lại điểm bên bọn nhỏ vài nụ hoa…
Lại nhìn bức họa này, cảnh giới lập tức không giống, nụ hoa đã biểu lộ thời gian, hơn nữa hiện tại nhìn có thể nhận ra vẻ mặt bọn nhỏ kỳ thật rất vui vẻ, đó cũng là một kiểu mùi hương, Diêm Lập Bản vẽ thần của người là nhất tuyệt, quả danh bất hư truyền.
Mà Trương Trạch Đoan căn bản chẳng chú ý tới thời gian, vẫn như một học sinh tiểu học nghiêm chỉnh vẽ từng nét người cùng ngựa. Ngựa nhịp bước nhàn nhã, người không có gì đáng nói, nhưng đóa hoa cùng hương hoàn toàn nhìn không ra, chẳng lẽ Trương đại sư ngoại trừ “Thanh minh thượng hà đồ” thì không vẽ được cái khác? Vậy mà lão lại là người ra cái đề này cơ đấy.
Ai cũng không ngờ, vài giây cuối cùng, Trương Trạch Đoan nghiêm mặt chấm vào chung quanh móng ngựa vài con bướm đang nhảy múa…
Sau đó, điếu thuốc thứ ba hoàn toàn tắt.
Vương Hi Chi sửng sốt hồi lâu, sau đó mới khen: “Tuyệt.”
Bởi vì Trương Trạch Đoan vẽ xong cuối cùng, Ngô Đạo Tử cùng Diêm Lập Bản cũng đứng bên người, đợi khi nhìn xong nét bút cuối cùng, hai người đều kêu lên: “Ta thua.”
Trên tranh của Trương Trạch Đoan, một người một ngựa thản nhiên đi ở trên đường, hai con bướm bay quanh móng ngựa, lại phối xứng thơ văn: “Đạp hoa quy lai mã đề hương.” Kẻ khác xem đã thấy hương, thật sự là tuyệt phẩm.
Ngô Đạo Tử cùng Diêm Lập bản nâng bức họa lên ngắm nghía hồi lâu mới nói: “Trương lão đệ ý tưởng mới lạ, bố cục xảo diệu, so với chúng ta cao hơn đâu chỉ một bậc.”
Trương Trạch Đoan đỏ mặt: “Hổ thẹn, hổ thẹn, kỳ thật ý tưởng này lúc trước là do có một vị đồng liêu nghĩ ra, đệ hôm nay chỉ vẽ theo cho hai vị huynh trưởng xem thôi.”
Diêm Lập Bản: “Dù vậy, có thể chứng kiến bức họa thế này chúng ta cũng thấy đủ rồi.”
Ngô Đạo Tử lấy bức họa của mình tới nhìn một hồi rồi tự giễu: “Bức của ta “đạp hoa quy lai”, đáng tiếc chỉ có thể nói là “đạp hoa quy lai mã đề khoái”, không liên quan tới chữ Hương.”
Diêm Lập Bản bày tác phẩm ra, lắc đầu: “Cho nên bức này của ta, hương thì hương thật, lại nhìn không ra đạp hoa chi cố, thất bại thất bại”
Tôi thấy lão vô cùng uể oải bèn nói: “Kỳ thật chỉ cần thêm hai bút là nhìn ra.”
“Sao?” Diêm Lập Bản mắt sáng lên, đặt bức họa trước mặt tôi: “Chú nói thêm chỗ nào?”
Tôi cầm bút như cầm chân gà nướng, vẽ sau mông ngựa ba làn sóng, sau đó quăng bút nói: “Chẳng phải nhìn ra rồi sao?”
Diêm Lập Bản nhìn ngang nhìn dọc nhìn trên nhìn dưới: “Đây là gì?”
Tôi chỉ vào ba đường sóng uống lượn: “Đây là hương khí.”
“Có thể thấy… hương khí sao?”
Tôi nói: “Đúng vậy, đây là chủ nghĩa siêu hiện thực.”
“….chủ nghĩa siêu hiện thực?”
“Đúng. Là đem thứ vốn nhìn không thấy được dùng hình thức thực vật biểu hiện ra ngoài, ví dụ mùi thơm, tâm tình, chán, ghét…
… ba vị đại sư chán nản đi tới nghe tôi cao đàm khoát luận, mặc dù không hiểu được hết, nhưng cuối cùng cũng tỏ ra có hứng thú nhất định, Diêm Lập Bản cười nói: “Cũng rất thú vị, xem ra Tiểu Cường không đơn giản.”
Trương Trạch Đoan cầm lên nói: “Chả trách tôi nghĩ, người phát ngôn của tiên đình sao có thể không có bản lãnh, hôm nay xem ra về ý tưởng, Tiểu Cường thắng chúng ta một bậc.”
Quá tuyệt, tôi tự hào.
Tôi vẫn cho là tôi vẽ ba lượn sóng đã là chủ nghĩa siêu hiện thực, còn tự nhận là đảm đang cầu nối giữa văn hóa Trung Tây, sau đó mới biết không phải, cuộn sóng cũng chẳng phải chủ nghĩa siêu hiện thực, càng không đại biểu cho họa phái phương tây, bởi vì trong các bức tranh kinh điên của phương tay không có mấy thứ này, “bữa tối cuối cùng” cũng không thấy thực vật bốc khói cuồn cuộn, trong “nụ cười của mô na li za” cũng không thấy mô na li sa đoan trang thỏa mãn trên đầu còn có mấy cái mặt cười, thứ lớn nhất trong bức họa là một khuôn mặt tươi cười…
Sau đó tôi mới ý thức được: Ba đường sóng chỉ có trong phim hoạt hình cùng truyện tranh, ví dụ “tiểu trư hô lỗ lỗ” cùng “hồ lô tiểu kim cương”, lúc tỏ vẻ nổi giận lôi đình có thể vẽ trên đầu một ngọn lửa nhỏ.
Cho nên sau đó tôi nhìn lại bức họa của Diêm Lập Bản, ba đường sóng lượn sau móng ngựa còn được, vẽ sau mông ngựa, lại vẽ trên mặt bọn nhỏ đang vui vẻ kia, rất khó nói rõ. Thế cho nên sau này ai thấy cũng nói: Tiếc cho một bức họa tốt, đáng tiếc làm cho con giun bò.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...