“Tôi thực sự không nghĩ rằng đây là một ý hay,” Olga nói: “Tại sao Jones lại đặc biệt yêu cầu anh đi?”
Bọn họ đi theo Herstal đến tận bãi đậu xe. Có lẽ luật sư định đến Sở Cảnh sát để gặp nhóm của Hardy trước, sau đó giao một số tiền lớn cho gã Martin Jones, nghe có vẻ như đây là công việc nguy hiểm đến tính mạng.
Herstal mở cửa xe một cách mạnh bạo: “Có lẽ là hồi nửa năm trước lúc gã tới công ty để làm loạn sau khi con gã đi tù, tôi là người đã can thiệp và đuổi gã đi. Gã muốn kháng cáo nhưng tôi với Davis đã thuyết phục gã từ bỏ ý định đó.”
“Rõ ràng là gã đang đổ lỗi cho anh về cái chết của con gái mình. Tôi tưởng gã chỉ vô tình bắn anh vào trưa nay nhưng gã có thể giết anh đấy, anh biết không?” Albarino chỉ ra.
“Vậy thì phải làm sao? Gã vẫn còn con tin trong tay, đứa con gái duy nhất của nhân viên vẫn đang nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt của tôi.” Herstal cau mày và vặn lại: “Tôi còn lựa chọn nào khác à?”
Bọn họ rơi vào ngõ cụt trong hai giây, cuối cùng Albarino lùi lại một bước như muốn thỏa hiệp: “Được rồi, được rồi, nhớ thay mặt tôi nói với Bart là tôi đã cố gắng ngăn cản anh.”
Ngoài ra, điều quan trọng nhất là hắn thực sự không muốn nguồn tài nguyên mình vừa chọn bị một kẻ bắt cóc và tống tiền vô vị bắn chết trong chớp mắt. Albarino rất ghét phải thay đổi kế hoạch, việc Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland chọn cùng một nạn nhân với hắn đã là quá đủ rồi.
Herstal nhìn chằm chằm vào hắn, đôi mắt xanh của người đàn ông này luôn trông có vẻ hung dữ vì màu quá nhạt. Giờ đây, đôi mắt này hiện lên một màu nâu xanh dịu dàng dưới ánh sáng mờ ảo của đèn đường. Gã dừng lại một lúc, có vẻ đầy ẩn ý rồi nói với Albarino: “Cậu thực sự nghĩ tôi vô cảm à?”
Anh hoàn toàn không có cảm giác gì về việc anh đã làm phải không? Bọn họ cuối cùng cũng quay về vấn đề này.
Quý ông Albarino Bacchus, tên sát nhân biến thái không hề cảm động, thậm chí hắn còn muốn tán thưởng kĩ năng diễn xuất tuyệt vời của người đàn ông trước mặt. Hắn không biết liệu Olga có tin gã không nhưng đó là một vấn đề khác.
Hắn và Olga đứng ở rìa bãi đậu xe nhìn người đàn ông lái xe đi về phía Sở Cảnh sát Westland. Sau đó, người này sẽ làm việc với cảnh sát Hardy để lập ra một kế hoạch chưa rõ có hiệu quả hay không và rất có thể dẫn đến hậu quả gã bị bắn chết.
Bọn họ lắng nghe tiếng xe chạy cuối cùng hòa vào dòng sông hắt ánh đèn trắng đỏ trên đường, Olga ho khan rồi hỏi: “Vậy hai người chúng ta đi vào làm thêm li nữa nhé?”
“Quên đi,” Albarino buồn bã cười: “Bây giờ đã gần chín giờ rồi, tôi về đây. Sáng nào tôi cũng có ca sớm.”
Olga nhìn hắn một cách gay gắt, hơi nghiêng đầu sang một bên khiến mái tóc đen mềm mại đó xõa trên cổ và vai như một dòng sông xinh đẹp. Cô chợt hỏi: “Al, cậu có thật lòng muốn tán anh ta không?”
“Làm thế quái nào mà chị lại ghép hai từ ‘thật lòng’ và ‘tán’’ lại với nhau?” Albarino nhướng mày một cách cường điệu và lên án.
“Bởi vì tôi đoán cậu không có ý định bước đến quan hệ lãng mạn thân mật với bất kì ai nên có sự khác biệt giữa việc cậu thật lòng hay vô tri tán tỉnh anh ta.” Olga nhún vai: “Nếu cậu lo quá thì tới Sở Cảnh sát với anh ta đi, Bart đâu có đuổi cậu đi.”
“Tôi không lo lắng, chị đừng có áp cái việc lập hồ sơ vào tôi.” Albarino nói dối. Thực ra hắn khá lo lắng, lo lắng vệt màu trắng của mình sẽ lại bị tên tội phạm mù kia trộm mất. Hắn sẽ tin tưởng hơn một chút vào Herstal nếu gã thực sự là Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland, hắn thành tâm mong là như thế. Nhưng nếu gã ta không phải thì sao?
Hắn phải chứng minh điều này càng sớm càng tốt, điều này có liên quan chặt chẽ đến bước tiếp theo trong kế hoạch của hắn.
“Tôi là nhà tâm lý học tội phạm chứ không phải người đọc suy nghĩ.” Olga lắc ngón tay với hắn và mỉm cười: “Được thôi Al, nếu cậu kiên quyết nói mình không lo lắng thì bây giờ chúng ta ai về nhà nấy rồi mai nghe tin từ Bart. Nếu anh ta bị tên Jones bắn chết thì chúng ta không cần lo liệu Người Làm Vườn Chủ Nhật có giết anh ta hay không.”
Câu an ủi này nghe có vẻ thực sự chẳng an ủi chút nào, nhưng đây chính là bản chất của Olga…
Khi Olga vẫy tay chào tạm biệt hắn và chuẩn bị rời đi, Albarino không khỏi ngăn cản cô.
“Nếu chị đúng thì sao?” Hắn hỏi “Nếu Người Làm Vườn Chủ Nhật thực sự là người xung quanh anh ta thì sao?”
Hắn đoán Olga sẽ xem câu hỏi này là sự quan tâm bình thường vì có vẻ hắn lại rơi vào lưới tình trong thời gian ngắn. ‘Bạn bè’ của hắn đã chứng kiến cảnh hắn hẹn hò với nhiều cô gái và chàng trai trong chớp nhoáng – những mối quan hệ sâu sắc hơn tình một đêm nhưng nông cạn hơn tình yêu.
Hắn sẽ là một người yêu chu đáo trong khoảng dăm bữa nửa tháng, chưa đầy ba tháng là hắn đã chia tay và bắt đầu lại với một người khác.
Hắn biết các cô gái ở Cục Pháp y yêu thích hắn, thậm chí bọn họ còn tiến thêm một bước và coi hắn là đối tượng cho những ảo tưởng tình dục trong đêm khuya. Tuy nhiên tất cả bọn họ đều hiểu hắn đủ rõ để biết mình sẽ không có mối quan hệ thực sự nào với hắn, nếu có thì nó cũng sẽ chẳng đi đến đâu.
Làm như vậy có hơi nhẫn tâm nhưng lại cần thiết vì một anh chàng tránh giao tiếp xã hội và khó gần có khả năng thu hút sự chú ý của cảnh sát, và ba tháng là giới hạn chịu đựng của hắn. Hắn rất hiểu hoàn cảnh của mình, ba tháng không đủ để ‘người yêu’ nhận ra hắn không có khả năng đồng cảm với đối phương, nhưng ba tháng cũng đủ để hắn mệt mỏi vì phải hoàn thiện lớp vỏ bọc trước một người. Lúc này, hắn cần phải bắt đầu lại từ đầu vì cái trải nghiệm mới lạ nhàm chán này.
Vì vậy Albarino có thể hiểu được những suy nghĩ sai trái của cô gái ở quầy lễ tân Cục Pháp y khi thấy Herstal tìm hắn. Cô sẽ nghĩ đây là một người đàn ông tội nghiệp, lại là một nạn nhân trong mối quan hệ không thể lâu dài với pháp y Bacchus, người này rồi sẽ tan nát cõi lòng.
Hắn không biết suy nghĩ của Olga sẽ trùng lặp với suy nghĩ của người khác đến mức nào. Olga là một người thông minh nhưng không đủ thông minh đâu, nếu không thì cô đã tóm được hắn từ sớm rồi.
Bấy giờ chuyên viên lập hồ sơ cười.
“Tất cả chúng ta đều biết Người Làm Vườn Chủ Nhật như thế nào mà Al,” cô nói đơn giản: “Nếu đúng như vậy thì Herstal đã chết rồi.”
–
“Dễ lắm, đây là ba trăm ngàn đô la còn đây là địa chỉ.” Hardy mệt mỏi nói với Herstal, ông chỉ vào ba lô có tiền và tờ giấy trên bàn, xung quanh là vô số cảnh sát đang bận rộn và lo lắng: “Anh tự lái xe đưa đồ đến địa điểm do gã chỉ định, gã sẽ liên lạc với anh qua điện thoại này.”
“Tôi không thấy có phần nào trong kế hoạch này là ‘dễ lắm’ cả.” Herstal khô khan nói.
“Nó sẽ dễ dàng thôi,” cảnh sát Hardy hứa hẹn nhưng có vẻ không chắc chắn: “Chúng tôi cử người theo dõi anh và cử người phục kích tại địa điểm đã định trước. Chúng tôi cũng sẽ đặt thiết bị theo dõi lên người anh, rất, rất nhiều máy theo dõi. Ngay khi gã xuất hiện là chúng tôi sẽ bắt giữ ngay lập tức.”
Ông ta dừng lại một chút, sau đó nói với vẻ hứa hẹn: “Chúng tôi sẽ đảm bảo an toàn cho anh.”
Có điều gì đó trên khuôn mặt của Herstal nói với Hardy rằng mối quan tâm lớn nhất của gã không phải là sự an toàn của bản thân. Trên thực tế, Hardy thậm chí còn không biết tại sao mọi chuyện lại trở nên như thế này. Herstal Armalight, luật sư xã hội đen khét tiếng mỗi ngày minh oan cho những kẻ tội phạm không hề tỏ ra thương xót người nhà các nạn nhân khi bọn họ đã chỉ trỏ và chửi bới ngay ngoài toà án; giờ đây, anh chàng này phải giúp họ giải cứu con gái nhỏ của một nhân viên khỏi kẻ điên xả súng ngẫu nhiên trong tòa nhà văn phòng.
“Anh nghĩ cô bé còn sống không?” Herstal chậm rãi hỏi.
“Tôi hy vọng con bé vẫn còn sống,” Hardy không thể kìm được tiếng thở dài cuối cùng: “Nhưng gã đó… Tôi không biết nữa. Gã nói rõ là gã muốn gặp anh, bọn tôi cũng không còn lựa chọn nào khác.”
Hardy nuốt lại câu cuối cùng ông muốn nói, rằng: “Cũng có thể gã muốn gặp anh chỉ để đả thương anh giống như cách gã đã bắn nhân viên của anh vậy.”
Herstal nhìn ông, khóe miệng mím lại. Người đàn ông không nói gì thêm mà chỉ kéo chiếc ba lô nặng nề xuống khỏi bàn.
–
Albarino đương nhiên không ‘ai về nhà nấy’ như Olga đã nói.
Hắn đã theo dõi Richard Norman được ba tháng và hiểu rất rõ về hành vi của người đàn ông này cũng như những cấp dưới thân cận nhất của anh ta, đây là lý do tại sao ba mươi phút sau hắn đang đứng trong một con hẻm ở khu vực trung tâm thành phố.
Tình hình an ninh ở nơi này vô cùng tồi tệ, tệ hơn rất nhiều so với những gì những người dân bình thường sống ở Westland có thể tưởng tượng. Những con phố chật hẹp đầy nước thải và chuột kêu rít lên dọc các góc phố. Không khí tràn ngập mùi mùi chua của rác thối rữa, ngoại trừ những người vô gia cư thỉnh thoảng dừng lại ở những con phố gần đó thì ngay cả những người lang thang cũng sẽ không nán lại đây.
Nếu nơi đây mà từng có một chiếc camera nào được lắp đặt thì hẳn nó đã bị phá hủy hoàn toàn, mọi bộ phận đều có thể đã bị tháo dỡ và bán.
Và đây là con đường duy nhất mà những người đàn ông thân tín nhất của Richard Norman phải băng qua để đi về nhà.
Điều khiến người ta yên tâm hơn là băng đảng của Norman không phải kiểu… Có thứ bậc truyền thống lâu đời mà là kiểu băng nhóm phát triển từ làn sóng nhập cư cách đây vài thế kỉ. Người ta đồn rằng băng đảng của Anh Em Norman đã ra khỏi tù và là tập hợp một nhóm người thô bạo từng bị kết án. Albarino thích tình huống này, ít nhất hắn không cần dùng não quá nhiều để đối phó với ‘đội hình’ này.
Ba tháng săn lùng chắc chắn đã có kết quả. Khoảng chín giờ, trợ lí của Richard luôn đi ngang qua bên ngoài con hẻm, trông nó có vẻ hơi say, cả người nồng nặc mùi rượu và khói cần sa. Albarino ẩn nấp trong bóng tối lắng nghe tiếng bước chân nặng nề của người đàn ông đi qua, chỉ cần biết lúc nào là thời cơ thích hợp…
Hắn lao ra từ nơi ẩn nấp ở đầu ngõ, tóm lấy cổ người đàn ông và kéo nó vào. Một âm thành mơ hồ phát ra từ cổ họng đang bị chặn lại của đối phương. Hắn đánh trật một bên vai của nó và mạnh tay ném nó thẳng vào tường.
Công việc hằng ngày của Albarino đơn giản hơn thế này nhiều bởi vì những người chết trên bàn khám nghiệm tử thi sẽ không vùng dậy làm tổn thương người khác, và hắn thì thích rạch cổ con mồi hơn.
Hắn dùng một tay bịt chặt miệng người đàn ông, tay kia rút con dao từ sau lưng rồi dùng sức mạnh của cơ thể để đè người đàn ông xuống. Sau đó, bằng một nhát dao gọn gàng, hắn cắt ngang gân cơ tứ đầu đùi của người kia.
Cơn đau khiến người đàn ông phát ra một tiếng kêu mơ hồ từ cổ họng. Hơi thở ướt át truyền vào bàn tay đeo găng da của Albarino thực sự rất khó chịu. Nhưng ít nhất như vậy thì chân đối phương không bị hắn kẹp sẽ không đá lung tung. Hắn nghe được tiếng máu nhỏ giọt dọc theo ống quần của đối phương rơi xuống vũng nước chua trên mặt đất.
Albarino từ từ lau máu khỏi lưỡi dao trên vai người đàn ông rồi từ từ ấn lưỡi dao vào cổ họng và chìm dần lưỡi dao vào làn da mỏng manh. Một tiếng rít trầm phát ra từ cổ họng đối phương, ánh mắt kinh hãi nhìn hắn dưới ánh đèn đường mờ ảo của con đường chính phía xa.
Albarino mỉm cười với nó, có lẽ hắn để lộ một phần răng và gương mặt đáng sợ. Khi hắn bỏ tay bịt miệng đối phương ra, anh chàng kinh hoàng hét lên: “Anh có phải là người ở Sở Cảnh sát ngày hôm đó không?!”
Đúng vậy, Albarino đã đứng bên ngoài cửa sổ phòng thẩm vấn suốt thời gian đó và chắc chắn có rất nhiều người nhìn thấy hắn.
“Tôi chỉ muốn hỏi cậu vài câu,” hắn nói và mỉm cười với người đàn ông đang sợ hãi. “Chỉ cần trả lời ‘ừ’ hoặc ‘không’, được chứ?”
–
Tất nhiên mọi việc không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, ngay cả khi bạn đang đối phó với một kẻ hèn nhát thích đổ hết trách nhiệm cho người khác.
Khi Herstal nhận được cuộc gọi liên lạc từ kẻ bắt cóc, gã đã gần đến địa điểm được chỉ định. Gã đang lái xe nên chỉ có thể trả lời cuộc gọi bằng tai nghe Bluetooth, giọng của kẻ bắt cóc gần như đang ở bên tai gã nghe có vẻ đang run rẩy và lo lắng.
“Thỏa thuận thay đổi,” người cha mất con nói: “Tao sẽ cho mày địa chỉ mới, mày nghe theo tao.”
Được thôi, điều này cho thấy kẻ bắt cóc vẫn có năng lực phản trinh sát nhất định, đội cảnh sát do Hardy bố trí tại địa điểm thỏa thuận ban đầu bị lãng phí. Herstal lạnh lùng cong khóe miệng trong bóng tối và cảm thấy ngứa ngáy ở những đầu ngón tay đang cầm vô lăng.
“Tôi có thể hỏi một câu được không?” Gã bình tĩnh nói: “Con bé còn sống không?”
“Đây không phải lúc để mày đàm phán với tao!” Đối phương không kiềm chế được hét lên trong điện thoại: “Vứt hết thiết bị theo dõi mà đồn cảnh sát đưa cho mày và nghe theo tao!”
“Có vẻ như cậu khá chắc chắn là có người theo dõi?” Herstal bình tĩnh hỏi.
“Tao biết cảnh sát nghĩ gì.” Jones nói bằng giọng khản đặc: “Mày nghe theo tao, còn nói lời vô nghĩa thì sẽ ảnh hưởng tới con bé đó.”
“Được rồi, được rồi.” Herstal lạnh lùng trả lời: “Tôi làm ngay.”
Tuy không biết đối phương uy hiếp có phải là thật hay không nhưng tốt nhất không nên mạo hiểm. Nếu Herstal tới mà Jones nhất quyết kiểm tra toàn thân và tìm được thiết bị theo dõi thì cũng hết cách. Gã cầm vô lăng bằng một tay, tay còn lại lấy từ trong túi áo vest ra một thiết bị nhỏ rồi giơ tay ném ra ngoài cửa sổ.
Gã không nghe thấy tiếng vật kim loại nhỏ rơi xuống đất, gã cũng không lo lắng.
–
Anh chàng bị Albarino kề dao vào cổ hỏi: “Ai cử anh đến…?”
Albarino đâm thẳng vào giữa xương sườn của khiến nó im lặng một cách vô cùng hiệu quả.
Hắn thực sự không thích quá trình tra tấn người khác nhưng nếu có cách nào để rút ngắn thời gian làm việc thì hắn rất vui lòng thử. Suy cho cùng, người trước mặt hắn là người hiếm hoi có thể giúp ích được chút gì đó trước khi chết. Hầu hết những người Albarino từng gặp có giá trị sau khi chết hơn nhiều so với khi bọn họ còn sống.
Nhưng hắn đảm bảo không cắt bất kỳ động mạch chủ nào, điều cuối cùng hắn cần là một máu động mạch túa ra khắp người. May mắn thay, bộ quần áo mùa thu trên người đối phương đã ngăn máu bắn tung tóe khắp nơi.
Hắn vui vẻ lặp lại: “Hiểu chưa?”
Đối phương đau đớn đến sắc mặt tái nhợt gật đầu như mổ thóc, con dao trên cổ khiến nó không thể quay đầu lại.
“Được rồi,” Albarino tiếp tục với một nụ cười hiền hậu: “Sếp của cậu, người không may vừa qua đời, Richard Norman ghen tị với em trai mình phải không?”
Dù không biết tại sao hắn lại hỏi câu hỏi này nhưng anh chàng tái nhợt vẫn gật đầu.
Câu trả lời này không có gì bất ngờ, dù sao lúc đó Herstal cũng đã tự mình nói ra. Albarino gật đầu, tiếp tục hỏi: “Tôi biết ngày nào cậu cũng ở bên cạnh sếp của mình khi anh ta còn sống. Nói cho tôi biết, anh ta có sắp xếp cho người giết em trai mình không?”
Vẻ mặt của đối phương gần như sợ hãi: “Sao anh lại…”
Albarino ấn lưỡi dao sâu hơn vào cổ đối phương, giọng nói trầm thấp như hơi thở: “Tôi chỉ muốn câu trả lời, cố gắng đơn giản hoá nó nhất có thể đi nào.”
“Đúng! Anh ta đã từng sắp xếp rồi!” Giọng nói của đối phương sắc bén đến mức có chút gay gắt vì căng thẳng: “Một nỗ lực thất bại. Anh ta hối lộ một tên xã hội đen để bắn vào lưng Thomas nhưng Thomas đã phát hiện ra, thằng xã hội đen chết nên không có ai…”
“Được rồi, được rồi, đủ rồi.” Albarino mỉm cười nói, đối phương run rẩy dừng lại ở đó nhưng Albarino đợi anh ta thở đến mức gần kiệt sức mới tiếp tục hỏi: “Còn ai biết việc này nữa?”
Người đàn ông run rẩy trả lời: “Hầu như không có ai cả! Nếu có ai biết chuyện này thì trong băng đảng sẽ xảy ra lục đục nội bộ… Tôi đã giúp ông chủ thu xếp chuyện này, tên nhận hối lộ cũng đã bị bắt. Sếp tôi không biết Thomas có định chơi xỏ anh ta bằng thủ tục pháp lí hay không nên anh ta đã liên lạc với luật sư, còn lại không ai khác…”
Albarino nghe được câu trả lời mình muốn nghe nên bước tiếp theo của kế hoạch đã rõ ràng.
“Có bao nhiêu người bên phía Thomas Norman biết chuyện này?” Albarino hứng thú hỏi.
“Không có ai!” Người đàn ông nhanh chóng trả lời: “Thomas không có thời gian để hỏi chân tướng sự việc. Tóm lại, người của Thomas đã đánh tên xã hội đen nhỏ bé nhưng bọn họ không ngờ rằng anh chàng này mắc bệnh tim. Bọn họ ra tay quá ác liệt nên tên này chưa kịp khai ra sếp tôi thì đã chết rồi.”
Albarino gần như có thể tưởng tượng ra khung cảnh lúc đó: Richard Norman thuê người sát hại em trai mình, sau khi sự việc bị vạch trần, anh ta vội vàng tìm Herstal Armalight để bàn biện pháp đối phó đề phòng trường hợp Thomas thực sự sẽ tống anh vào tù nếu tên xã hội đen kia thú nhận. Người em trai Thomas nói đúng, thằng anh quả là một người đàn ông liều lĩnh và hèn nhát.
Richard Norman có cảm thấy nhẹ nhõm khi tên trùm xã hội đen qua đời vì bạo bệnh đột ngột? Liệu anh ta có thể coi đây là một ân huệ giúp anh tránh khỏi một rắc rối và cho phép anh duy trì vẻ hòa bình với em trai mình không?
Dù thế nào đi nữa thì đây có thể là một ân huệ cho Nghệ Sĩ Dương Cầm Westland.
Nghệ Sĩ Dương Cầm đã thoáng thấy cảm hứng trong sự kiện này, quan trọng hơn là nó vô cùng an toàn. Chỉ có ba người biết việc này: Nghệ Sĩ Dương Cầm vẫn giữ im lặng; Richard Norman đã chết; và tên ngốc trước mặt hắn ta, người sẽ không bao giờ liên hệ vụ ám sát của Nghệ Sĩ Dương Cầm với hai anh em ruột kia, và hiển nhiên sẽ không thú nhận trước mặt cảnh sát rằng sếp của nó đã cố sát hại chính em trai mình.
Thậm chí không có bất kỳ bằng chứng nào được biết đến về vấn đề đó. Ngay cả khi cảnh sát phản ứng muộn màng và thẩm vấn bọn chúng về vấn đề này một lần nữa thì sẽ không ai thừa nhận cả. Các băng đảng ở thành phố Westland từ lâu đã học được cách sử dụng tuyệt kĩ không khai báo để làm lợi thế cho họ.
Tất nhiên, khi bạn kề dao vào cổ ai đó thì họ sẽ thừa nhận, nhưng đó lại là một câu chuyện khác.
“Vậy,” Albarino cười, giọng gần như nhẹ nhàng khi nói tiếp: “Đối với vụ giết người đó, chỉ có anh và Luật sư Armalight biết thôi phải không?”
Đối phương chật vật trả lời cái gì đó, hoặc đoán được điều gì đó từ câu hỏi của hắn, tóm lại là sắc mặt nó xám xịt đến đáng sợ. Những lời cầu xin rít lên từ cổ họng nó nhưng Albarino chỉ mỉm cười, một nụ cười đủ để nhấn chìm một người sống.
Hắn lại tóm lấy cổ họng đối phương, đập xuống rồi quay lưng nó về phía bản thân để ngăn máu bắn tung tóe vào người.
Sau đó, hắn dùng dao rạch cổ đối phương, cắt đứt khí quản và động mạch. Cơn đau chỉ trong chốc lát và rồi tất cả đều kết thúc… Nó chìm vào giấc ngủ không thể tránh khỏi. Máu thấm qua lớp vải rẻ tiền của bộ quần áo như thể chúng chẳng là gì, chảy xuống đất với âm thanh ọc ọc nhớp nháp.
Sau đó, Albarino buông tay và để người đàn ông ngã xuống đất. Hắn đứng đó cho đến khi nghe thấy tiếng máu ùng ục kì quặc trong cổ họng người đàn ông mờ dần trong đêm lạnh giá.
Hắn sẽ khiêng người đàn ông lên xe, cốp xe đã được lót sẵn túi nhựa để chuẩn bị cho tình huống này. Hắn cũng cần xử lí găng tay dính máu, một chiếc áo nỉ dính máu và một con dao dính máu.
Hắn sẽ lau thật sạch con dao bằng thuốc tẩy, đốt quần áo và găng tay thành tro rồi chôn nó ở vùng hoang dã xung quanh ngôi nhà ở ngoại ô của mình. Xác chết cũng sẽ được xử lí theo cách tương tự: Thịt và nội tạng không cần thiết sẽ bị chặt ra, băm thành vụn và rải trên mặt đất để chó sói và các loài chim lang bạt trong vùng hoang dã có thể ăn hết trong một đêm. Những chiếc xương cháy sẽ bị một vật cứng đập vỡ, thứ bột này sẽ được chôn dưới những bông hoa dại và rau diếp mọc ở sân sau nhà hắn. Hầu hết những gì còn sót lại không được sử dụng trong các tác phẩm của hắn đều được xử lý theo cách này, sau đó người ta không thể tìm thấy một chiếc xương hoàn chỉnh nào dưới đất.
Hơn nữa bộ quần áo hắn mặc bây giờ cũng không phải bộ hắn đã mặc khi đến quán bar. Olga và Herstal không cần biết hắn đang đậu xe trong một con hẻm tối. Thế mà hắn đã thực sự đã lái xe rời khỏi quán bar, so với việc giết người ở nơi chết tiệt này thì việc lái xe khi say rượu chẳng là cái thá gì cả.
Nói cách khác, đây chỉ là thói quen hàng ngày của một kẻ giết người.
Albarino tiếp tục lập kế hoạch công việc hàng ngày trong đầu và khiến danh sách càng dài đến vô tận. Đồng thời, hắn đứng trước thân thể dần lạnh đi và lấy điện thoại di động ra gọi vào một số..
“Bart,” hắn nói với đầu bên kia điện thoại sau khi điện thoại được kết nối, “Herstal lẽ ra phải nói với anh là anh ta đã ở cùng tôi và Olga trước khi đến đồn cảnh sát… Ừ, tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Bây giờ tôi hơi lo nên muốn ghé qua xem nếu được. Anh cho tôi biết nơi trả tiền chuộc không? Nếu được thì tôi gặp các anh ở đó luôn.”
Hắn nghe đối phương trả lời và chậm rãi lộ ra nụ cười lạnh lùng.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...