Rồi Sau Đó…

 
CHƯƠNG 6
Không phải là trời lạnh hơn rồi ư?
Không phải luôn luôn vẫn là đêm tối, mỗi
lúc một nhiều đêm tối ư?
Không phải là phải thắp đèn lên ngay từ sáng ư?
Nietzsche
 
- Ba năm trở lại đây, thử hỏi tôi đã nghỉ phép được mấy ngày?
Bây giờ là sáu giờ tối. Ngồi trong văn phòng của Ashley Jordan, Nathan thử thuyết phục vị liên danh chính đồng ý cho anh nghỉ phép hai tuần. Quan hệ giữa hai người được thiết lập dựa trên những mối ràng buộc chồng chéo phức tạp. Ban đầu, Nathan là người được Jordan đỡ đầu trong hãng luật, nhưng dần dần, Jordan đã trở thành cái gai trong con mắt đầy tham vọng của người đồng nghiệp trẻ thường bị anh chê trách ở điểm không chịu nhường nhịn ai bao giờ. Về phần mình, Nathan sớm nhận ra rằng Jordan không phải tuýp người lẫn lộn giữa tình nghĩa và công việc. Anh lập tức hiểu ra rằng nếu một ngày kia anh gặp phải chuyện gì cần đến sự giúp đỡ thì cũng không nên đến gõ cửa nhà anh
Nathan thở dài, cố che giấu cũng chẳng ích gì: cuộc trò chuyện thẳng thắn giữa anh và Garrett Goodrich, vụ tự sát của Kevin đã ảnh hưởng đến anh quá nhiều. Đó là chưa kể đến cơn đau vẫn luôn nặng trĩu trên ngực anh.
Nói đúng ra, anh không biết phải suy nghĩ sao về những lời mê sảng của Goodrich về các Sứ giả. Nhưng có một điều chắc chắn: anh cần nghỉ ngơi một thời gian, cho đầu óc thảnh thơi và tranh thủ những kì nghĩ lễ tới đây để chăm sóc con gái nhiều hơn.
Anh nhắc lại câu hỏi của mình:
- Ba năm trở lại đây, thử hỏi tôi đã nghỉ phép được mấy ngày?
- Hầu như không ngày nào cả, Jordan thừa nhận.
- Chúng ta mấy khi phải đem các vụ việc ra tòa, và nếu có xảy ra chuyện đó thì tôi đã để thua bao nhiêu vụ?

Jordan thở hắt ra nhưng không giấu nổi nụ cười. Anh đã thuộc làu cái điệp khúc này rồi. Nathan là một luật sư có tài nhưng không thể nào gọi là khiêm tốn được.
- Vài năm nay thì cậu không thua vụ nào cả.
- Tôi chưa để thua vụ nào trong cả sự nghiệp của mình, Nathan chữa lại.
Jordan gật đầu tỏ ý tán thành, rồi hỏi:
- Cậu làm vậy là vì Mallory à? Thật sao?
Nathan tránh không trả lời thẳng vào câu hỏi:
- Nghe này, tôi sẽ mang điện thoại di động và máy nhắn tin để giữ liên lạc thường xuyên nếu có chuyện gì xảy ra.
- O.K., cứ việc nghỉ hết phép của cậu, nếu muốn. Cậu có thể làm thế không cần hỏi đến tôi. Tôi sẽ đích thân theo dõi hồ sơ của Rightby’s.
Coi như cuộc tranh luận đã kết thúc, Jordan lại chúi đầu vào những số liệu đang lần lượt xuất hiện trên màn hình vi tính.
Nhưng Nathan không chịu dừng ở đó. Anh cao giọng để gây chú ý:
- Tôi muốn dành chút thời gian cho con gái tôi, tôi không thấy chuyện đó gây phiền toái gì hết.
- Đúng là bản thân chuyện đó không gây phiền toái gì hết, Jordan nói và ngẩng đầu lên. Điều phiền duy nhất là việc đó không được báo trước mà cậu thừa hiểu, trong nghề của chúng ta, phải dự tính trước mọi việc.
Ngày 11 tháng Chạp
Chuông báo thức reo lúc năm rưỡi sáng.
Dù Nathan đã chợp mắt được vài tiếng nhưng cơn đau vẫn chưa dứt. Ngược lại là khác, nó rát buốt trong lồng ngực, như ai vừa đốt lửa sau xương ức. Anh có cảm giác như ngay lúc này cơn đau đang lan sang bả vai trái và bắt đầu tỏa xuống dọc theo cánh tay.

Anh cũng không đủ can đảm để ngồi dậy ngay. Anh nằm lại trên giường và thở sâu, cố gắng lấy lại bình tĩnh. Khoảng vài giây sau, con đau rốt cuộc cũng dịu đi nhưng anh vẫn nán lại trên giường thêm mười phút, tự hỏi anh sẽ làm gì cho hết ngày hôm nay. Cuối cùng, anh cũng đưa ra một quyết định.
Khỉ thật! Mình không thể khoanh tay ngồi nhìn để rồi sau đó hứng chịu hậu quả. Mình phải biết rõ ngọn ngành mới được!
Anh ra khỏi giường và nhanh chóng vào đứng dưới vòi hoa sen. Anh rất thèm một tách cà phê nhưng phải cưỡng lại sự cám dỗ: anh phải nhịn ăn uống hoàn toàn nếu muốn làm xét nghiệm máu.
Anh mặc quần áo thật ấm, xuống nhà bằng rồi bước vội quan những họa tiết trang trí theo phong cách Art Déco giăng khắp tiền sảnh và những lối vào của tòa nhà. Anh dừng lại một lát để chào người gác cổng mà bản thân anh rất quý mến bởi lòng nhiệt tình, tử tế.
- Xin chào, thưa ngài.
- Chào Peter, tối qua Knick thi đấu thế nào?
- Họ thắng Seattle với hai mươi điểm chênh lệch. Ward ghi liền mấy bàn đẹp mắt…
- Thế thì hay quá, mong sao trong trận gặp Miami họ vẫn giữ vững phong độ!
- Sáng nay ngài không chạy bộ sao?
- Không, lúc này máy móc đang bị han gỉ chút ít.
- Vậy thì ngài phải nhanh chóng hồi phục đi thôi….
- Cám ơn Peter, chúc một ngày tốt lành!
Bên ngoài, bầu trời vẫn tối đen và không khí buổi sớm lạnh thấu xương.
Anh bước sang bên kia đường và ngẩng mặt nhìn hai tòa tháp của San Remo. Anh nhận ra khung cửa sổ căn hộ của anh, tầng nhà thứ hai mươi ba của tòa tháp phía bắc. Như mọi lần, anh lại nghĩ: Không đến nỗi tệ.
Thành đạt đến mức đó thật không tệ chút nào đối với một thằng nhóc lớn lên trong khu ổ chuột phía nam của Queens.

Anh đã trải qua thời thơ ấu cực khổ, đó là sự thật. Một tuổi thơ hằn dấu nghèo đói và chi tiêu tiết kiệm đến từng khoản vụn vặt. Một cuộc sống nghèo khổ nhưng chưa đến nỗi khốn cùng, ngay cả khi hai mẹ con anh đôi lần phải cầm đến những phiếu ăn, loại thẻ nhận tiếp tế thực phẩm được phát cho người nghèo.
Phải, không đến nỗi tệ.
Bởi số nhà 145 nằm trên đường Park Avenue
chắc chắn là một trong những địa chỉ nổi tiếng khắp toàn vùng. Vị trí này đối diện với công viên, chỉ cần thả bộ qua hai tòa nhà là đến trạm tàu điện ngầm mà hiển nhiên dân ở đây không mấy khi phải sử dụng đến. Các chủ nhân của tổng cộng một trăm ba mươi sáu căn hộ của tòa nhà, điểm ra toàn những doanh nhân, những tay trùm tài phiện, những gia đình danh giá lâu đời gốc New York và những ngôi sao của làng giải trí. Rita Hayworth đã sống tại đây cho đến lúc tạ thế. Có tin đồn rằng Dustin Hoffman và Paul Simon mỗi người vẫn sở hữu một căn hộ nơi đây.
Anh vẫn nhìn nóc tòa nhà được chia thành hai tòa tháp đôi, bên trên mỗi đỉnh tháp lại có một ngôi đền nhỏ kiểu La Mã đem lại cho tòa nhà dáng vẻ hao hao những giáo đường thời Trung cổ.
Không đến nỗi tệ.
Tuy nhiên, anh vẫn phải thừa nhận rằng, dù có là luật sư danh tiếng đi nữa, anh cũng không thể tự tậu ình căn hộ này nếu không có câu chuyện sau đây với người bố vợ. Nói đúng hơn là bố vợ trước đây của anh, Jeffrey Wexler.
Trong một khoảng thời gian dài, căn hộ thuộc tòa nhà San Remon đã là chốn đi về của Wexler khi ông có công chuyện đến New York. Đó là một người đàn ông chỉnh chu và cố chấp, một sản phẩm thuần khiết của giới tinh hoa Boston. Chỗ ở vốn dĩ thuộc về gia đình Wexler. Tức là ngay sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1930, thời điểm tòa nhà này được khởi công xây dựng bởi Emery Roth, kiến trúc sư tài hoa đã có sẵn trong bảng thành tích của mình nhiều công trình nổi tiếng khác nằm rải rác quanh Công viên Trung tâm.
Wexler đã thuê một phụ nữ gốc Ý dọn dẹp, trông nom căn hộ: bà tên là Eleanor Del Amico, trước đó vẫn sống cùng con trai trong khu ổ chuột ở Queens. Thoạt đầu, Wexler đã thuê bà bất chấp ý kiến phản đối của vợ mình, thấy chuyện thuê một người mẹ đơn thân vào làm là không tiện. Nhưng Eleanor luôn luôn hoàn thành xuất sắc công việc nên hai vợ chồng còn đề nghị bà trông coi thêm căn nhà nghỉ của gia đình tại Nantucket.
Cứ như thế, liên tiếp nhiều mùa hè, Nathan đã theo mẹ ra đảo. Và chính tại đó đã diễn ra sự kiện khiến cuộc đời anh thay đổi cuộc gặp gỡ với Mallory.
Công việc của bà mẹ đã đặt anh vào vị trí thuận tiện nhất để tha hồ nhìn ngắm và khao khát nước Mỹ của những người da trắng theo đạo Tin lành, tầng lớp dân cư mà thời gian trôi chảy dường như không tài nào tác động đến. Chính anh cũng từng ao ước có một tuổi thơ với những khóa học dương cầm, những cuộc dạo chơi bằng thuyền buồm trong cảng Boston và những cánh cửa xe Merceder đóng sập lại. Dĩ nhiên, anh đã không thể đạt được gì trong số đó: anh không cha, không anh em, không tiền bạc. Anh không đeo phù hiệu của một trường tư thục trên ve áo đồng phục, không có áo sợi đan tay kiểu lính thủy hay xuất thân trong một gia đình danh giá.
Nhưng nhờ có Mallory, anh đã có thể háo hức nếm trải một vài mảnh vụn của nghệ thuật sống ngoài mọi giới hạn của thời gian ấy. Đôi khi anh được mời tham gia những cuộc dạo chơi ngoài trời xa hoa và rắc rối với nhiều công đoạn tại những vạt rừng râm mát của Nantucket. Nhiều lần, anh được Wexler dẫn theo trong những buổi đi câu thường kết thúc không thể thiếu một tách cà phê đá và bánh sô cô la hạnh nhân vừa mới ra lò. Và ngay đến Elizabeth Wexler, quý bà hết sức tao nhã kiểu cách cũng đôi lần cho anh mượn sách từ phòng thư viện của ngôi nhà rộng mênh mông, nơi tất thảy đều sạch bong, choáng lộn và thanh nhã.
Tuy nhiên, lòng nhân từ bề ngoài cũng không khỏi khiến cho gia đình Wexler cảm thấy phiền lòng khi thấy con trai người giúp việc cứu con gái mình khỏi chết đuối vào một ngày tháng Bảy năm 1972.
Và nỗi lo này chưa bao giờ vợi bớt. Ngược lại, nó lớn dần theo tháng năm và biến thành một mối thù địch không úp mở khi Mallory và anh thông báo họ biết ý định dọn đến sống chung với nhau và sau đó là kết hôn.
Gia đình Wexler đã tìm mọi cách để tách con gái khỏi người cô yêu. Nhưng chẳng ích gì: Mallory vẫn khăng khăng với quyết định của mình. Cô biết xét về lý, cô mạnh hơn những lời cảnh báo mạo xưng kia. Mạnh hơn những lời đe dọa và những bữa ăn gia đình từ ngày đó bầu không khí nặng nề vẫn thường bao trùm thay cho những cuộc chuyện trò giữa bố mẹ và con cái.
Ý chí sắt đá ấy đã kéo dài đến lễ Giáng sinh 1986 đáng nhớ, trong đêm giao thừa trong căn nhà lớn của gia đình quy tụ một nhúm còn sót lại của tầng lớp quý tộc Boston, Mallory đã đến dự, tay trong tay với Nathan và giới thiệu với gia đình anh là “chồng sắp cưới” của mình. Jeffrey và Lisa Wexler đã hiểu rằng họ không thể phản đối mãi quyết định của cô con gái. Chuyện đã đến nước này và không thể khác được thì ông bà đành chấp nhận Nathan Del Amico nếu không muốn mất Mallory.
Nathan thì thật sự kinh ngạc trước quyết tâm thuyết phục gia đình ủng hộ đám cưới của vợ và càng thêm yêu cô vì điều đó. Anh vẫn vậy, mỗi khi nhớ đến buổi tiệc đáng nhớ ấy, anh không khỏi run lên vì xúc động. Đối với anh, sẽ không có gì có thể xóa nhòa trong kí ức buổi tối Mallory nhận lời cầu hôn của anh. Nhận lời trước sự chứng kiến của những thành viên khác trong gia đình. Nhận lời trước cả thế giới.
Ngay cả khi hôn lễ của họ đã cử hành, gia đình Wexler vẫn không thực sự công nhận anh như một thành viên. Ngay cả khi anh đã tốt nghiệp đại học Columbia: ngay cả khi anh được nhận vào một văn phòng luật sư danh tiếng. Vấn đề không phải là ở số tiền anh kiếm được nữa mà là xuất thân xã hội. Có chút gì đó như thể trong môi trường này, hoàn cảnh xuất thân đã phân định sẵn cho người ta một chỗ đứng mà người ta cách nào cũng mãi mãi không thể thoát ra được, dù bằng cổ phiếu hay cả cơ nghiệp.

Đối với họ, anh sẽ mãi mãi là con trai của người giúp việc, một người họ đã miễn cưỡng phải chấp nhận để không phải xa rời đứa con gái, nhưng không phải vì thế mà bước chân được vào dòng tộc. Và sẽ không đời nào có chuyện đó.
Thế rồi đã xảy ra một vụ kiện. Năm 1995.
Thật ra, vụ việc này không trực tiếp thuộc thẩm quyền của anh. Nhưng khi thấy hồ sơ được chuyển đến cho Marble&March. Nathan đã nhất quyết đề nghị được xử lý.
Vụ việc không có gì khó hiểu: sau khi bị một công ty tin học lớn thôn tính doanh nghiệp của mình, một trong những thành viên sáng lập của hãng SoftOnline cho rằng mình đã bị những cổ đông mới thải hồi vô căn cứ và đòi hai mươi triệu đô la tiền bồi thường. Hãng từ chối trả khoản tiền này nên dẫn đến nguy cơ bị thành viên sáng lập kiện ra tòa. Người này đã tìm đến văn phòng luật Marble&March.
Cùng thời gian đó, những cổ đông mới của công ty- trụ sở vốn đặt ở Boston- đến lượt mình đã nhờ đến văn phòng luật riêng của mình: Branagh&Mitchell mà một trong những liên danh chính không ai khác, chính là …..
Mallory gần như van xin chồng bỏ vụ này. Chuyện này sẽ không thể đem lại điều gì tốt đẹp cho họ. Nó sẽ chỉ khiến ọi việc thêm phức tạp, bởi lẽ chính Wexler sẽ đích thân đại diện cho văn phòng của ông theo dõi hồ sơ.
Nhưng Nathan đã không nghe cô. Anh muốn chứng tỏ cho gia đình Wexler thấy khả năng của người vốn bị họ coi là tên lưu manh hè phố. Anh đã tìm gặp Jeffrey Wexler để báo trước với ông ta anh không chỉ nhận về mình vụ này mà còn nung nấu ý định giành phần thắng.
Wexler cho người tống cổ anh ngay lập tức.
Trong những việc tương tự, hầu như người ta không bao giờ để phải đem ra xét xử trước tòa. Thông thường, mọi chuyện sẽ được giải quyết bằng thỏa thuận giữa hai bên và công việc của luật sư chỉ còn gói gọn lại ở khâu thu xếp sao cho thân chủ của mình có lợi nhất.
Theo tư vấn của Wexler, hãng phần mềm đã đề nghị một khoản bồi thường là sáu triệu rưỡi đô la. Đó là một mức đền bù phải chăng. Phần lớn các luật sư bên nguyên sẽ chấp nhận đề xuất này. Tuy nhiên, đi ngược lại tất cả các quy tắc thận trọng. Nathan đã thuyết phục thân chủ của mình không nhượng bộ.
Vài ngày trước hôm ra tòa, Branagh&Mitchell đã đề nghị mức bồi thường cuối cùng là tám triệu đô la. Lần này, Nathan vẫn thẳng thừng từ chối. Rồi Wexler đã nói câu này. Những lời mà anh sẽ không bao giờ quên:
- Cậu đã có được con gái ta, Nathan Del Amico ạ. Chiến lợi phẩm đối với cậu như thế chưa đủ sao?
- Không phải tôi “có được” con gái ông như lời ông nói. Tôi đã luôn yêu thương Mallory nhưng ông không chịu hiểu điều đó.
- Ta sẽ đè bẹp cậu như đè bẹp một con gián!
- Vẫn là cái lối khinh khỉnh thường ngày của ông, nhưng trong vụ này, nó không giúp được gì nhiều cho ông đâu.
- Hãy cân nhắc cho thật kỹ. Nếu cậu để cho khách hàng này mất tám triệu, danh tiếng của cậu cũng bị ảnh hưởng nhiều đấy. Mà cậu cũng biết danh tiếng của một luật sư khó xây dựng và cũng khó giữ gìn thế nào rồi.
 


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận