Cuối cùng cũng đã đợi được đến trận tuyết đầu mùa của năm nay.
Ngày này đúng vào lúc cha được nghỉ, gọi hết cả nhà Kiều gia đến, chúng ta ngồi dưới mái hiên chính sảnh, một bên nấu nước pha trà, một bên nướng thịt hươu.
Nương còn đích thân xuống bếp nấu món chè mà ta thích ăn nhất.
Ba người, ca ca, ta, Kiều Vĩnh, ở trong hoa viên ném tuyết.
Tuyết rơi rất lớn, chẳng bao lâu mà mặt đất đã thành một mảnh tuyết phủ trắng xóa (1), cực kỳ đẹp mắt.
Ta ngắm tuyết đọng trên mái hiên nhà, trong lòng nghĩ: Bây giờ tên cao to đang làm gì nhỉ?
Nếu là mùa hè thì tốt rồi, tuyết rơi lớn thế này, trời lại còn rất lạnh, ta cũng không muốn làm phiền bồ câu nhỏ đưa thư.
Nhưng mà thật muốn biết tin tức của tên cao to aaa.
“Bốp” một tiếng, ta vừa bị một quả cầu tuyết đập trúng đầu, đập ta khá đau.
Ta quay lại nhìn, ca ca đứng phía xa diễu võ dương oai: “Lâm Niệm, muội ngơ ngẩn gì thế!”
Ta tức không chịu được, cho Kiều Vĩnh một ánh mắt, hai chúng ta liền bắt đầu bao vây ca ca lại.
Kiều bá phụ và cha ngồi dưới mái hiên nhìn chúng ta, ha ha cười lớn.
·
Ném tuyết xong, lúc quay lại chính sảnh sau khi trở về phòng thay quần áo, mấy người cha ta đang thảo luận sự tình vụ án.
Vài hôm trước, bảng tin ở cửa nha môn đã dán cáo thị, trên đó miêu tả tường tận tình tiết vụ án thông đồng với địch này.
Ta mới biết được, bởi vì bản đồ lương thảo ở trong tay Thừa tướng, mà kho lương lớn nhất Tây Bắc là ở Lan Châu, đây chính là nguyên nhân Thừa tướng và Kiều gia bị kéo xuống vũng lầy này.
Trong thời gian Bùi Quảng Hoàn tiếp xúc với Thừa tướng, hắn đã nhiều lần để lộ ra ý phản quốc.
Lần nào Thừa tướng cũng tức giận khiển trách, nhưng niệm tình sư đồ, liền phái hắn đến biên cương rèn luyện, ai biết được ngược lại tạo cơ hội cho hắn ghép nối với Liêu Quốc.
Mục đích của phong thư là để kể công với Liêu Quốc, cũng là để kéo hai người Kiều, Huỳnh xuống nước.
Ngày nào hắn bám được lên người Liêu, thì họ cũng đã bất giác lên thuyền giặc, bất kể đó không phải là ý định của hai vị này.
Chuyện sau đó cũng sẽ không đơn giản nữa.
Bùi Quảng Hoàn muốn ép buộc hai người như vậy để họ làm việc cho hắn.
Ta không thể không nghi ngờ: “Nhưng Bùi Quảng Hoàn vẫn không hề ra mặt, sao Đại Lý Tự hoài nghi đến hắn ạ?”
“Nói muội ngốc, muội đúng là ngớ ngẩn.” Ca ca đắc ý nhìn ta, “Tra xét xem ca nữ kia đã đi lại với quan viên nào ở kinh thành, lại tra tiếp những người mà thư sinh giả nét chữ đã tiếp xúc, nếu vẫn không có ích, thì hỏi thêm Thừa tướng, người này có thể không lộ ra hay sao?”
“Hiền chất thật là thông tuệ.” Kiều bá phụ gật đầu, “Lúc đầu khi nhắc đến ấn tín, ta nghĩ mãi mà không ra, tư ấn của ta vẫn luôn ở trong thư phòng, mà lại do thợ thủ công của quan gia khắc, bên trên có dấu hiệu riêng biệt, không ai có thể khắc theo, sao có thể bị lọt ra ngoài được? Sau đó được biết là nhi tử của ta đã bán đứng cha nó, ta mới đột nhiên nhớ đến Bùi Quảng Hoàn.”
Kiều Vĩnh áy náy cúi đầu, nhìn nước trà trong chén, không lên tiếng.
“Con người không phải là bậc thánh hiền, sao có thể không bao giờ phạm lỗi.” Cha ta vỗ vai Kiều Vĩnh, “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn (2).
Con người ý mà, họa phúc đi liền với nhau, trải qua một kiếp chưa chắc là đã chuyện xấu.”
“Vậy cũng phải.” Kiều bá phụ chuyển chủ đề, hỏi: “Cố đại nhân ở Đại Lý Tự chính là vị hôn phu của Niệm nhi à?”
Ngay lập tức, ta cảm thấy mặt hơi nóng, cũng cúi đầu không nói chuyện.
“Đúng thế.” Cha nhìn ta một cái, vuốt râu, cười nói, “Đó là Thế tử phủ Thành thân vương, tên gọi Cố Tư Hoành.
Vốn tưởng mười mấy năm trước chỉ là nói chơi, người ta không để trong lòng, ta còn có ý kéo tơ hồng cho Lâm Niệm và Vĩnh nhi.
Ai ngờ duyên phận trời định, hai đứa (Niệm & Cố) vẫn đến với nhau.”
Kiều Vĩnh ngẩng đầu, lén lút nhìn ta.
Kiều bá phụ cũng cười híp mắt, nói: “Nếu không phải lúc đó Niệm khi gặp khó khăn, ta cũng không dám nhắc đến tiểu tử nhà ta, sợ làm Niệm nhi bẽ mặt.”
Cha không thể không giả vờ tức giận: “Ông nói lời gì thế này.”
“Mới chớp mắt một cái mà hai ta đã già cả rồi.” Kiều bá phụ không kìm nổi mà cảm thán, “Hoàng thượng hạ chỉ, tháng sau ta sẽ đi Từ Châu làm việc.
Hai ông già chúng ta, có lẽ lại không gặp nhau mấy năm liền.”
Cha ta cũng hơi buồn: “Không đón lễ năm mới ở kinh thành sao?”
Ta liền hỏi: “Thế Kiều Vĩnh có đi theo cùng không ạ?”
Kiều bá phụ gật đầu: “Thế sự khó đoán, mang nó theo bên cạnh thì ta cũng yên tâm hơn.”
Kiều Vĩnh cũng nhân tiện cười nói: “Ta biết ngay là ngươi không nỡ mà.”
“Ai không nỡ?” Ta véo hắn một cái, “Ta là sợ ngươi lại gây họa thì có!”
“Ngươi đủ rồi đấy.” Biểu cảm trên khuôn mặt của Kiều Vĩnh lại rất nghiêm túc, “Kẻ sĩ ba ngày không gặp, phải nhìn bằng con mắt khác.
Vài năm sau, ta nhất định để cho mọi người hết sức ngạc nhiên.”
Chúng ta nghe được, đều cười rộ lên.
Ta liền chắp tay làm một cái lễ với hắn: “Được đấy, một lời đã định.”
·
Rất nhanh liền tới đêm trừ tịch, năm mới sắp đến, ta lại lớn thêm một tuổi.
Lúc kính rượu cha, ông cười híp mắt, nói: “Niệm nhi, mặc dù hàng ngày con hơi lỗ mãng, nhưng đáng quý là tấm lòng lương thiện, có thể nói là dũng cảm, hào phóng, không hổ là nữ nhi của cha.”
Nương ở bên cạnh lạnh lẽo lên tiếng: “Đáng tiếc từ nhỏ đã lười, không chịu học võ cho tốt, nếu không thì sao lại bị người ta bắt những hai lần đây?”
Ta chỉ có thể sáp vào người nương: “Nương, nương biết khinh công không ạ? Con muốn học khinh công.”
Nương cầm đũa gõ lên đầu ta: “Trèo còn không biết trèo, lại còn muốn bay?”
Ca ca ha ha cười lớn.
Ta nhanh chóng kéo ca xuống nước: “Ca ca cũng muốn học ạ, nương thấy lần tỷ võ chiêu thân ý ạ, ca bị đánh cho sưng vù thành cái dạng gì rồi?”
Cha cười trên nỗi đau của ca ca, vuốt râu, tán thành, nói: “Lời này của Niệm nhi nói cũng phải.”
Ca ca tâm trạng không tốt trừng mắt nhìn ta: “Ca đấy gọi là khổ nhục kế, nếu không vì như vậy, muội làm sao có thể có tẩu tẩu được?”
Ta nhịn không được liếc mắt trắng: “Nếu người ta không có ý với ca, đừng nói khổ nhục kế, ca có chết cũng vô dụng.”
Ca ca sững sờ chốc lát, bỗng vui vẻ hẳn lên: “Muội nói cũng đúng đấy.”
Ta nhìn ca ca, nhịn không được lắc đầu, ôi, ca ca ngốc của ta.
Khi đang vui vui vẻ vẻ nhàn rỗi nói chuyện, ngoài cửa đột nhiên truyền tới bẩm báo: “Ngoài cổng có vị Tần tiểu thư, nói có việc muốn tìm tiểu
.