Những Người Khốn Khổ


Bữa ăn kết thúc, người em gái của vị giáo sĩ, cô Baptisfine, và người giúp việc, bà Magloire, lên lầu ngủ, phòng của họ trên tầng sâu độc nhất của ngôi nhà.

Vị giáo sĩ cầm một cây đèn bạc trên bàn và quay sang người khách của mình, ông nói:

- Ông đến đây, mời ông, tôi sẽ đưa ông về phòng.

Họ đi qua một gian phòng cũng bày biện đơn sơ như phòng ngoài, với một cái bàn và nhưng chiếc ghế màu trắng, một cái giường sắt có màn che bằng nỉ màu lục chiếm một góc, trong một góc khác có cánh cửa mở ra phòng cầu nguyện, một pho tượng Jésus-christ với hai cánh tay đã tróc lớp mạ vàng bị đóng đinh trên một cây thập tự gỗ nổi bật trên bức tường quét vôi trắng.

Một buồng ngủ đóng kín với một cái giường ở cuối nhà nguyện.

- Xin ông cứ tự nhiên như ở nhà ông - vị giáo sĩ vừa nói vừa đặt cây đèn trên một cái bàn con nơi buồng ngủ.

- Ông hãy ngủ ngon.

Sáng mai trước lúc lên đường, ông sẽ uống một ly sữa từ bầy bò cái của chúng tôi.

Bấy giờ bất chợt người đàn ông kêu lên, giọng khàn đục:

- Ông để tôi ngủ gần bên ông! Như thế này đây! Ai bảo với ông rằng tôi không phải là kẻ giết người?

Ông Myrial hay đúng hơn là đức giám mục Bienvenu như ở địa phương mọi người vẫn gọi, chủ nhân đón tiếp người cựu tù khổ sai, là giám mục tại D...!Từ nhiều năm nay, lòng từ thiện vô tận của ông đã khiến ông nổi tiếng trong thành phố nhỏ có vẻ đạo mạo, nơi những người theo đảng Jacobins, những người theo chủ nghĩa đế chế và những người theo chủ nghĩa bảo hoàng xâu xé nhau bằng những trò vu khống ngấm ngầm, cũng như trong những thôn xa xôi thuộc miền núi.

Ông đã bắt đầu sự nghiệp giám mục của mình tại D...!bằng cách đưa hai mươi sáu người bịnh trong bịnh viện vào tòa lâu đài có những khu vườn bao quanh nơi các tổng giám mục địa phận Embrun đã đến trước ông từ nhiều thế kỷ.

Bản thân ông cùng với người em gái và người giúp việc về ở trong ngôi nhà nhỏ có khu vườn con con mà thành phố vẫn dành cho việc vệ sinh công cộng.

- Ông được chỗ ở của tôi và tôi được của ông - Ông đã nói với ông giám đốc bịnh viện.

Hãy trả lại nhà tôi!

- Chỗ của ông là đây.


Lương bổng ông nhận được của nhà nước trong tư cách giám mục ráng lắm cũng chỉ đủ cho ông thanh toán điều ông gọi là "những khoản chi tiêu trong nhà".

Những khoản chi tiêu đó gồm việc giúp đỡ, tặng tiền cho các công cuộc cứu tế và các hội đoàn khác nhau trong giáo khu.

Trong số mười lăm nghìn cung cấp cho ông, giám mục Bienvenu chỉ giữ lại một nghìn để sống và ông thường tự trách mình đã tước đoạt của người nghèo món tiền đó.

Bà Magloire dù dè sẻn tiện cặn cũng phải vất vả lắm mới kham nổi những món chi tiêu trong nhà chưa kể những lần bố thí bất ngờ.

Bà đã khuyên chủ nhân đòi tỉnh phải trả những chi phí về xe cộ trong thành phố và về những chuyến đi trong giáo khu.

Và bà mừng rỡ khi Tổng hội đồng chấp thuận yêu cầu của ông giám mục, biểu quyết cho ông một món tiền hằng năm ba nghìn.

Xong những niềm vui đó đã chóng tàn bởi ngay buổi chiều đức giám mục Bienvenu đưa ra bản ghi chú này.

" Chi phí xe cộ và các chuyến đi:

Để đưa canh thịt cho người bịnh trong bịnh viện.........................1500 frăng dành cho hội dục anh Aix...............!250 frăng dành cho hội dục anh vùng Dragreignan.........................!250 frăng dành cho trẻ lạc..........................!500 frăng dành cho trẻ mồ côi........................!500 frăng Tổng cộng...................!3000 frăng Đó là quỹ chi thu của ông Myriel.

Thật nhanh chóng, ông giám mục trở thành người quản lý tài chánh của mọi công việc từ thiện và người thủ quỹ của mọi trường hợp cùng khổ.

Người bịnh, người nghèo, người khốn khổ đổ dồn về ông như về một nguồn sinh khí.

Ông chuyện trò nhiều hơn thuyết giảng, ông không kết án vội vã một điều gì, ông nói:"Chúng ta hãy thấy con đường mà lỗi lầm đã đi qua.".

Ông còn nói:"Với những người dốt nát, hãy dốc lòng dạy họ những gì các con có thể.

Xã hội chịu trách nhiệm về đêm tối mà nó sản sinh.

Kẻ phạm tội không phải là kẻ làm nên tội lỗi mà là kẻ làm nên bóng tối."

Ông biết ngồi im hàng giờ bên người đàn ông vừa mất vợ yêu dấu, bên người mẹ vừa mất con.


Ông không tìm cách xóa nhòa nỗi đau bằng sự quên lãng, mà không phóng to nó ra bằng hy vọng..

Hãy chú ý đến cách các con quay về phía người chết.

"Đừng nghĩ tới những gì đang thối rữa." Ông biến đổi nỗi đau thương đang ngắm nhìn một cái hố bằng cách chỉ cho nó thấy nỗi đau thương đang ngắm nhìn một vì sao.

Quanh ông không có ban tham mưu gồm những tu sĩ tìm kiếm tương lai, bởi ông không có vẻ gì là một giám mục được sủng ái với mũ lễ to tướng được nhiều thánh lộc, của bố thí cùng chức vụ thuộc nhà thờ làm tăng tiến kẻ hầu người hạ bằng cách tăng tiến chính mình.

Tiếng tăm của giám mục Bienvenu chỉ tạo sự cô độc cho chính ông.

Một ông thánh là một người láng giềng nguy hiểm có thể khiến chúng ta lây nhiễm một sự nghèo khó không chữa trị được.

Nhưng sự cô độc trong đó tham vọng của một số người đã bỏ mặc ông, ông làm cho nó trở nên sinh động bằng sự khốn khổ của kẻ khác.

Dưới mắt ông, thế giới giống như một căn bịnh trầm trọng mà ông thử tìm cách băng bó vết thương, không cần đoán biết căn nguyên bí ẩn của nó.

"Hãy thương yêu nhau", ông tuyên bố ngắn gọn như thế, và đó là tất cả học thuyết của ông.

Điều soi sáng con người đó chính là tấm lòng.

Sự khôn ngoan của ông được hình thành bằng ánh sáng đến từ đó.

Mỗi buổi chiều, khi gió và mưa không cản bước ông, trước khi đi ngủ, ông ra khu vườn của mình trong một hay hai tiếng đồng hồ.

Ông ở đó một mình một bóng, trầm mặc, tĩnh tâm, mở rộng tâm hồn đón nhận những tư tưởng từ cõi cao xa rơi xuống, ngưỡng vọng, trong vẻ lộng lẫy hữu hình của những chòm sao, vẻ lộng lẫy vô hình của Thượng đế.

Địa phận rào kín chật hẹp đó với bầu trời làm trần đã quá đủ cho cuộc đi dạo của ông và cho mộng tưởng của ông.

Ông còn ước vọng điều chi hơn một vài cánh hoa trên mặt đất và tất cả những vì sao kia trong bầu trời?


Chiều hôm đó, ông giám mục đi bách bộ có phần lâu hơn trong khu vườn của mình, tâm hồn bám chặt vào những điều kỳ bí lớn lao kia mà về đêm Thượng đế vẫn chỉ cho những đôi mắt còn biết mở to trông thấy.

Trời đã khuya khi ông trở về căn hộ của mình; vài phút sau tất cả đều say ngủ trong ngôi nhà nhỏ.

Vào khoảng giữa đêm Jean Valjean thức giấc.

Ông ngồi bật dậy và đảo mắt nhìn quanh trong bóng tối, phần nào theo cách của loài mèo.

Bao nhiêu ý tưởng từ từ phác thảo trong óc ông nhưng khởi điểm và mức đến của chúng chỉ là lòng thù hận, thù hận xã hội và loài người thể hiện bằng một khát vọng thô bạo và liên tục được làm hại bất luận ai.

Đã mười chín năm nay, Jean Valjean chưa bao giờ nhỏ một giọt nước mắt.

Bị kết án năm năm tù đày vì tội trộm một ổ bánh mì, ông đã trông thấy sự khổ ải của mình kéo dài quá đáng trong những lần toan tính vượt ngục, và trong tâm hồn đen tối của ông một toà án được thiết lập.

Không phải ông tự xá tội cho mình, nhưng ông lên án xã hội đã trừng phạt ông, con người đói khổ, và ông tự nhủ rằng ông có thể sẽ không ngần ngại vào một ngày nào đó đòi hỏi loài người biện giải về sự thiếu cân bằng giữa sự thiệt hại ông gây ra và sự trừng phạt ông phải gánh chịu.

Trong phút chốc, Jean Valjean thoáng có ý định ngủ lại, nhưng không lâu.

Tư tưởng ông bị ám ảnh bởi một hình ảnh: hình ảnh bộ đồ ăn bằng bạc mà bà Magloire đã đặt trên bàn mấy tiếng đồng hồ trước đây.

Ông đứng dậy, cởi giày để tránh gây tiếng động và bước rón rén về phía cửa phòng ông giám mục.

Ông nhẹ tay mở cửa và bước vào.

Một tia sáng trắng vẽ quầng trên khuôn mặt bình yên của đức ông Bienvenu và tạo cho giấc ngủ của ông một vẻ yên ả cao cả và thánh thiện.

Người cựu tù khổ sai ngắm nhìn chủ nhân với một vẻ kinh ngạc dữ dằn.

Những ý tưởng hung bạo đã lôi kéo ông đến cạnh giường này chợt tan biến.

Ông lùi lại, mắt vẫn nhìn đăm đăm người đang ngủ.

Gần như máy móc bàn tay ông chụp lấy cái giỏ nơi mỗi buổi chiều bà Magloire cất mớ bát đĩa bằng bạc và đang ở trên đầu ông giám mục; đoạn ông vội vàng trở vào phòng cầu nguyện, bước qua bục cửa sổ mở ra khu vườn.

Một phút sau ông chạy trốn như một con chó xuyên qua đồng ruộng bằng cách nhảy qua những tường rào và những cái hố.

Hôm sau trong lúc đức ông Myriel sắn sàng ngồi vào bàn với người em gái của ông thì bà Magloire xuất hiện, tay chân run rẩy, mặt mày tái mét.


- Thưa đức ông! - Bà kêu lên - Người đàn ông hôm qua đã lên đường và mớ chén đĩa bằng bạc cũng thế.

Ông ta đã trộm của chúng ta!

- À! ông giám mục chỉ buột miệng có thế.

Đoạn ngước cái nhìn nghiêm nghị và dịu dàng về phía người quản gia của mình: - Và trước tiên, ông tiếp lời, mớ chén đĩa bằng bạc đó có đúng là của chúng ta không nào?

- Chúng không phải của người nghèo hay sao? Và người đàn ông đó là gì, nếu không phải là một người nghèo?

Bà Magloire sắp sửa trả lời thì cửa mở: ba viên sen đầm đang tóm cổ Jean Valjean bước vào.

Họ đẩy mạnh người tù tới trước.

Đức ông Myriel ghìm lại một cử chỉ ngạc nhiên và bước nhanh về phía Jean Valjean.

- Tại sao ông không mang theo luôn hai cây đèn bằng bạc chứ? - Ông nói với một vẻ mặt khó diễn tả.

- Như vậy, - một viên sen đầm nói giọng kính cẩn - người đàn ông này đã không nói dối, thưa đức ông, khi quả quyết rằng đức ông đã biếu ông ta bộ chén đĩa bằng bạc này phải không ạ?

- Ông ấy không nói dối, hãy để ông ấy đi.

Ông lấy hai cây đèn bạc mà ông vẫn thích dùng để trang hoàng bàn ông vào những ngày tiếp tân.

- Hai cây đèn của ông đây, ông nói, ông hãy lấy và lên đường bình yên.

Và ông tiếp lời đủ để người cựu tù khổ sai nghe, người này đang run bần bật và đang nhìn ông vẻ lơ láo, sững sờ.

- Xin ông đừng quên, đừng bao giờ quên rằng ông đã hứa với tôi là sẽ dùng món tiền này để trở thành người lương thiện.

Jean Valjean, người anh em của tôi, ông không còn thuộc về cái xấu nữa, tôi đã mua linh hồn ông và tôi tặng cho Thượng đế.





Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận