XIII
Issachar
Bất chấp những lời khuyến cáo của Victoire về lây nhiễm, vừa rời khỏi nhà Elodie, Ernest chạy ngay tới nhà cô. Issachar, hai mươi mốt tuổi, ra mở cổng với ống nghe đeo ở cổ và miệng đeo khẩu trang. Vì thế Ernest mãi mới hiểu câu anh lúng búng qua khẩu trang: “Người nào bước vào đây sẽ chết ngay tức thì.” Issachar là sinh viên y khoa, nhưng anh cứ nghĩ mình đã là giáo sư của Trường Collège de France danh tiếng. Nhiều khi, với vốn kiến thức chút xíu, người ta cứ nghĩ mình đã biết tất cả. Anh thích thú giải thích những thông tin mới nhất về bệnh viêm gan C, về ung thư, về sida, về bệnh sơ cứng từng mảng trong hệ thần kinh trung ương, chứng nhồi máu và những rối loạn khác của cơ thể. Nhưng lĩnh vực ưa thích nhất của anh là tâm thần học và anh không ngừng chêm vào các câu nói của mình những từ như là hệ thần kinh, tâm lý, chứng hoang tưởng bộ phận, hưng-trầm cảm, hội chứng tự mê. Câu cửa miệng của anh là ”Đấy là bệnh lý, là mãn tính, là bẩm sinh.”
Anh đo huyết áp của mấy anh em trong nhà và cố moi móc những triệu chứng nhỏ nhất về những căn bệnh nan y. Hồi bé, anh đã chơi đóng giả bác sĩ bằng cách băng bó cho những bệnh nhân trung thành của mình dù chúng có đau hay không. Anh lôi ra từ tủ lạnh thức ăn thừa rồi lấy tay vê thành những viên thuốc. Với số dân của nhà mình, anh có đầy bệnh nhân. Anh bỏ khẩu trang và tự động đeo vào mặt Ernest và nói :”Anh đây hoàn toàn miễn dịch.”
Ernest thích ở trong ngôi nhà này, nơi mà anh em đông tới mức họ thâm chí cư xử với người ngoài cũng như anh em ruột. Chỉ cần bước qua cửa nhà của họ là trở thành anh em của họ ngay.
“Victoire đang ngủ. Cô nàng nghĩ là ngủ được trong hai ngày thì sẽ đủ khỏe mạnh để thứ hai này đi học. Anh sẽ vào gọi nó dậy.”
“Anh đừng đánh thức bạn ấy.” Ti-vi ở nhà Montardent bắt buộc phải mở to để át tiếng ầm ĩ của họ. Ernest biết đó là ti-vi ở trường cậu cũng có một chiếc nhưng cậu chưa bao giờ được xem thỏai mái, và cậu chắc chắn Bà nội cũng chưa từng xem ti-vi trong đời. Cái hộp biết mua vui này hình như làm cả thế giới lay động. Trước màn hình ti-vi trong phòng khách, chỉ có Dan, Benjamin và Issachar ngồi trên những ghế bành lớn, Jérèmie, nước mắt nước mũi, nước dãi chảy ròng ròng ngồi ngay trên đùi Benjamin, hình như em bé cũng đang say sưa theo dõi cuộc tranh luận trong cái hộp ti-vi.
“Lại đây,Ernest! Dan gọi. Hay lắm.” Mắt Dan đảo qua lại liên tục giữa màn hình và Ernest, người đang cố dõi theo lời nói của anh.
“Có một chương trình về lịch sử. Khách mời là các nhà sử học và nhà văn còn sống”, Benjamin nói với cậu.
“Họ không thể mời những người đã chết”, Victoire lúc này đã bị đánh thức, vận đồ pyjama, bước vào phòng khách, giọng càu nhàu. Giữa ba cơn ho, cô nhìn thấy Ernest và tỏ ra ngạc nhiên: “Cậu làm gì ở đây thế? Cậu không đến nhà Elodie à?”
“Mình là kẻ trốn tránh khỏi buổi lễ của Elodie.”
“Ở đó không vui à?” Có những ai?”
“Có Elodie.”
“Tất nhiên rồi.”
“Và một con vật kỳ lạ đang bị tuyệt chủng.”
“Nghe này, hôm nay mình chậm hiểu lắm. Nói bình thường đi. Ai hả?”
“Mình!”
“Còn ai nữa?”
“Mình đã nói cho bạn cả danh sách rồi.”
“Đồ con bò! Thế hai người đã làm gì?”
“Làm tình yêu! Cậu không biết tại sao từ miệng câu lại thốt ra lời này.
“Tôi sẽ giết cô ta! Tôi sẽ giết chết cậu!”
“Suy…ỵt!” Dan thì thào.
“Ơ!” Jérémie nói.
“Xem đi” Benjamin nói.
“Cô ta đã toan tính… một vụ mai phục!”
“Bạn còn chưa biết điều tồi tệ nhất: cô ta đã chiếm chỗ của bạn bên cạnh mình trong lớp rồi.”
“Còn cậu, Ernest Morlaisse, cậu cứ mặc cho mọi việc diễn ra chứ gì!” Ernest không biết trả lời thế nào.
“Mình sẽ móc mắt nó ra. Cậu đừng lo, không thể để như thế được!”
“Không có gì nghiêm trọng đâu…”
“Ernest, cậu hãy biết một điều, mình sẵn sàng chiến đấu vì cậu!”
“Còn mình, Victoire ạ, mình sẽ chiến đấu vì bạn.”
“Không phải tự nhiên mà mình mang tên Victoire đâu nhé.”
“Suỵt! Ít ra lần này cũng có một gã hay trên ti-vi!”
Victoire ngồi dài trên ghế đi-văng. “Cậu đừng lại gần quá”, cô bé nói với Ernest. Ông Montardent bước vào với câu chào vang như sấm, vợ ông cũng vậy, rồi vài người anh, mỗi người đều gây một tiếng động gì đó.
“Xuỵt nào!”
Jérémie đổi sang ngồi lên đùi người khác. Em trèo lên người Ernest và lôi khẩu trang của cậu ra.
Dan nhìn chăm chú Ernest: “Ông kia giống em kinh khủng.”
“Nhất là với cái khẩu trang.” Ernest nghiên cứu kỹ từng đường nét trên gương mặt người đàn ông đang nói và nhận thấy cậu giống ông ấy như đúc. Cũng cái cằm chẻ, cũng cái mũi ấy, cũng cái miệng ấy, cũng đôi mắt ấy. Mọi người cũng có đủ thứ những thứ mắt mũi miệng ấy, nhưng chỉ cần lệch đi một mi-li-mét là đẹp đã thành xấu.
“Gã này đẹp trai thật! Hệt như tài tử điện ảnh!” Victoire thốt lên.
Ernest luôn thấy nguợng khi mọi người nói với cậu về vẻ đẹp hình thức bên ngoài. “Đẹp trai! Cuộc đời còn có thứ khác nữa chứ, đúng không?”
“Dù sao đó cũng là điều đầu tiên người ta thấy!”
“Sụyt! Đó là gã trong cuốn sách của em!”
Ernest nhìn chăm chú vào màn hình và phải ghìm mình không tới sờ vào hình ảnh dưới lớp kính.
“Gaspard Morlaisse, ông có biết những bí mật về cha của ông không?” Người dẫn chương trình ti-vi hỏi.
“Tôi không được biết cha của mình. Ông hi sinh ở chiến trường vào năm 1940, trước khi tôi ra đời.”
“Tôi không biết cha của mình, Ernest nghĩ. Và tôi đang ở trong cùng một căn phòng với ông ấy…”
“Ông ấy là họ hàng với cháu à, Ernest?” Ông Montardent hỏi.
Mặt trắng bệnh như người vừa nhìn thấy ma, Ernest nói: Có thể đó là cha cháu.” “Và chắc chắn mình là bí mật của cha”, cậu tự nhủ. Thực tế cậu đã biết đó là cha mình. Cậu đã thuộc lòng khuôn mặt ông, khuôn mặt ở trên cái bàn ngủ trong phòng bà nội. “Liệu đó có phải là một người cha không nếu ông không muốn là một người cha?” Ernest thì thầm.
Cuộc phỏng vấn đã kết thúc song Ernest vẫn ngây người không nhúc nhích. Có thể cậu nghĩ rằng nếu cậu không rời ánh mắt đi nơi khác thì hình ảnh sẽ trở lại. Cậu cảm thấy đầy ứ mong ước và bực bội tới mức chẳng có gì có thể làm cho cậu rời khỏi nơi này. Hơn nữa, Jérémie đã cắm rễ lên đùi cậu.
“Vậy là em biết ông ấy”, Benjamin hỏi và cảm thấy hối tiếc ngay sau đó về câu hỏi của mình.
“Cha em đã biến mất khi em ra đời. Bà chẳng bao giờ nói với em về chuyện đó cả. Vẫn đầy những bí mật. Em ghét cay ghét đắng những bí mật! Tất cả đều có thể được nói ra chứ! Người ta không thể sinh ra đời để chơi trò ú tim với chính mình… mà để đi tìm sự thực và hét to nó lên!”
“Đấy là một nhiệm vụ nặng nề”, bà Montardent nói.
“Sống để làm gì nếu không…”
“Chắc cha cháu phải có lý do riêng.”
“Lúc đó cháu mới sinh ra được có ba ngày. Cháu có thể làm gì cho ông ấy cơ chứ?” Ernest cố ghìm những giọt nước mắt khiến mũi cậu cay xè.
Victoire đã tha hết những vi khuẩn lại gần và xoa đầu cậu.
“Cháu chưa bao giờ nghĩ tới điều đó. Cháu sống với Bà và cháu tự cấm mình nghĩ rằng điều đó là không bình thường. Chỉ khi tới đây, cháu mới thấy được nhiều kiểu sống khác.”
“Ai cũng có những khó khăn riêng của mình…” Bà Montardent nói xen vào.
“Vậy là chúng tôi đã khiến em buồn…” Benjamin nói.
“Ồ không, trái lại là đằng khác, mọi người đã khiến cháu bắt đầu nói chuyện với Bà nội. Bà đã thú nhận với cháu rằng cha cháu còn sống. Rồi sau đó cháu tình cờ tìm thấy cuốn sách này và cháu đã tìm thấy trong cuốn danh bạ điện thoại và thấy cha cháu sống trong cùng thành phố… và từ đó cháu đã đi tìm ông khắp nơi, cháu nằm mơ về cha cháu và cháu không biết cháu đã làm gì để ông phải bỏ cháu mãi mãi.”
“Chắc phải có chuyện giữa cha và bà nội cháu.”
“Và rồi, cháu tự hỏi không hiểu mình có còn muốn một người cha đã hèn nhát bỏ cháu không?”
“Chắc chắn ông ấy cũng phải có lý do của mình…”
“Hay là ông ấy bị điên… Issachar nói. Có thể đó là một sự trầm cảm sâu sắc.”
“Cũng có thể ông ấy đã quên hoàn toàn và chỉ có thế thôi”, Benjamin đóan.
Jérémie tỏ ý tán thành bằng một từ “Ơ!”
Nhận thấy trạng thái tinh thần của vị khách, bà Montardent tuyên bố: “Cháu ở lại đây với chúng ta tối nay nhé.”
“Dạ cháu xin cảm ơn, nhưng còn Bà cháu.”
“ Chúng ta sẽ qua đón bà tới đây.”
“Bác biết rồi đấy, bà cháu có những thói quen riêng.”
“Các thói quen… thì thỉnh thoảng cũng phải có những lúc làm khác đi chứ.”
Dan đứng dậy với chiếc chìa khóa xe ôtô trên tay, song Issachar đã ngăn anh ấy lại: “Sẽ không cẩn trọng lắm, một cụ già như vậy với tất cả những thứ vi khuẩn này.”
“Dạ, cháu phải về thôi. Cháu xin cảm ơn cả nhà. Để lần khác ạ.”
Dan đưa cậu ra tới cửa và thì thầm: “Anh đã ghi địa chỉ và gửi lá thư của em đi rồi.”
XIV
Jeannette
Ernest không ngờ sẽ trông thấy cái cảnh diễn ra lúc cậu về nhà. Bà ngồi trên chiếc tràng kỷ, mắt mở to về phía tủ ly với một vẻ vô hồn. Cậu không tin vào mắt mình khi nhìn thấy bên cạnh chiếc điện thoại, trên cái tủ đựng bức thư hai bà cháu vẫn ngắm nghía, đứng sừng sững một chiếc ti-vi nhỏ xíu. Cậu đưa mắt lên trần nhà xem có lỗ thủng nào khiến cho cái máy này rơi từ trên trời xuống không. Âm thanh to khủng khiếp. Chắc tại bà nội không biết điều chỉnh âm lượng.
“Bà ơi, ti-vi ở đâu ra vậy?” cậu hỏi, song bà vẫn giữ cái nhìn vô hồn và Ernest biết rằng bà đã thấy cùng một bóng ma như cậu.
“Bà cũng đã xem… Bà đã nhìn thấy cha cháu.”
Bà gật đầu và nhắm mắt lại. Có thể nói trông bà hệt như người chết, nếu không có những giọt lệ đã biến thành dòng suối chảy ra từ hai mí mắt.
Nếu những vi khuẩn là lây lan, thì nước mắt cũng vậy, và Ernest đã đổ gục bên cạnh bà và cũng bật khóc nức nở. Hai bà cháu đã ôm nhau khóc như vầy khá lâu, đủ để tưới lên những vết đau đầy ắp trái tim họ và sau đó bà trấn tĩnh lại. “Jeannette và Henriette đã bắt bà cho để cái ti-vi ở đó. Họ vừa mua một cái kiểu mới và họ đã đề nghị bà giúp họ giữ cái này cho tới khi Henriette cần tới.”
“Cháu đã nhìn thấy cha, bà ạ. Cháu đã nhìn thấy ông trên ti-vi. Bà nói đi bà, có chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao cha cháu đã bỏ hai bà cháu mình? Bà đã làm gì cha cháu?”
“Bà đã thai nghén cha con. Bà đã sinh cha con ra đời. Bà đã một mình nuôi nấng cha con. Bà đã yêu quý cha con. Bà vẫn yêu quý cha của con.”
“Bà có cho người tìm cha cháu không ạ?”
“Không. Tư cách làm mẹ không phải kéo dài mãi mãi. Những đứa con sẽ có ngày phải ra đi.”
“Nhưng cha cháu đã bỏ cháu!”
Précieuse nhún vai và buông một tiếng thở dài.
“Đã xảy ra chuyện gì phải không bà?” Ernest hỏi lại.
“Bà không biết. Cha con có thể không đương đầu nổi với sự thực đau lòng. Bà đã không cho cha con đủ sức mạnh. Bà không biết…”
“Cha cháu không có vẻ gì là quá chịu đựng cả.”
“Người nào chịu đựng một mình là người chịu đựng nhiều nhất. Không ai có thể hiểu được nỗi đau khổ của người khác.”
Ernest đứng dậy để tắt những tiếng hú điên lọan của ti-vi. Ngay khi ti-vi ngừng kêu, hai bà cháu cảm thấy như nhẹ nhõm hẳn.
“Cháu đã viết cho cha cháu một bức thư, bà ạ.”
Jeannette tới hỗ trợ cho con gái, không phải vì Henriette không đủ sức làm hết mọi việc, mà bởi vì Jeannette cảm thất rất gắn bó với cái gia đình kỳ quặc này. Bà tới đây trong ngày nghỉ để trò chuyện với Précieuse và kể cho bà nghe những tin tức mới nhất về nhà Montardent, Jeannette yêu mến họ như người ruột thịt, nhưng không phải luôn đồng ý với sự bột phát của họ, với cách sống thái quá của họ, và nói chung, với số lượng người quá đông của gia đình họ. “Bà biết không, cả nhà họ đã là mười sáu người. Nếu mỗi người kéo thêm những người bạn đến thì phải thành cả đội quân. Cháu không phải là chủ khách sạn đâu. Nhưng bà biết không, bọn trẻ giúp cháu đấy. Đó là những đứa trẻ ngoan.”
Chính Jeannette đã đưa Germaine từ bệnh viện về tới nhà Morlaisee. Ba đứa con trai nhà Montardent đã sơn lại một trong những căn buồng để đón bà về.
Germaine, gầy gò và tính tình khó chịu hơn, ngay lập tức không ưa Jeannette và Henriette. Bà tỏ ra rất kỳ thị tất cả những gì không theo nguyên tắc của bà. Các món ăn, theo gu của Germaine, thì đều là không tốt và sẽ rất có hại cho Précieuse. Việc mà bà Précieuse lên cân, ăn ngon miệng, chịu khó ăn mặc, tham gia hoạt động, và thậm chí thỉnh thoảng còn cười to không làm cho Germaine thấy các nguyên tắc của bà chả có ích gì. Còn Ernest, trong mắt Germaine đang trở thành tên du côn vì đi lại với lũ người xấu này.
Germaine những muốn bóp cổ Henriette khi chị làm tất cả những điều mà bà chưa bao giờ có ý định làm. Và bà phá hoại mỗi khi có thể. Bà giấu những đồ gia vị và cố làm giảm nhiệt tình của bà chủ nhà bằng những cuộc nói chuyện tầm phào có hại cho người thay thế mình. Bà nhấn mạnh vào việc bà đã cảm thấy đủ khỏe để có thể làm việc lại và đuổi cổ con bé dám đột nhập vào đây thế chỗ bà.
“Bà có ba tháng nghỉ dưỡng sức cơ mà, bà xứng đáng được hưởng như vậy.”
Trái lại, Germaine lại rất mê ti-vi, và bà ôm nó suốt từ sáng tới tối. Bà thuộc lòng chương trình và không bỏ lỡ bất cứ một bộ phim truyền hình nào vì bất kỳ lí do gì. Cả nhà hài lòng vì ti-vi làm cho bà im miệng lại.
Ernest bị ốm ngay sau khi đến thăm Victoire, cùng triệu chứng, điều đó chứng tỏ Germaine có lý về những mối quan hệ không hay ho gì của cậu.
Có điều Germaine lại rất quý Victoire. “Cô bé này tốt tính đấy!” Bá rất khoái khi nghe Victoire kể về cuộc chiến giành lại địa phận của mình bên cạnh Ernest. Cô bé chỉ viết có lá thư sau gửi tới thầy giáo:
Thưa Thầy,
Như Thầy biết, con đã chuyển trường nhiều lần trước khi cha mẹ con tìm đuợc một căn hộ đủ rộng để chứa đủ mười sáu thành viên gia đình. Dần dà, con cảm thấy thỏai mái trong lớp học của thầy, trên một hòn đảo nhỏ mà con sống với Ernest Moralaisse. Bạn ấy đã động viên con và giúp con (thầy có thể nhận thấy những tiến bộ của con) và con không giấu giếm gì thầy rằng chúng con yêu nhau và chúng con có ý định cưới nhau (sau này).
Không có lý do gì mà Elodie Hainaut chiếm chỗ của con. Con hiểu rằng cũng có thể cô ấy yêu cậu Morlaisse. Không chỉ có cô ấy đâu! Trong cuộc đời, người ta không thể có được tất cả những gì mình muốn. Nhưng con, con thề với thầy, con sẽ sụp đổ nếu thầy không trả con về chỗ cũ. Con sẽ không thở được nữa, cho nên thầy cũng hiểu là việc học hành của con sẽ rất tồi tệ! (Người mà không thở thì cũng không làm việc được.)
Đây không phải là một sự đồng bóng, đây là một nhu cầu.
Con tin tưởng vào sự phân định đúng đắn của thầy, con biết thầy sẽ mang lại cho con khả năng làm việc trong những điều kiện sư phạm lý tưởng.
Học trò Victoire của thầy
Ernest vốn đã đỏ mặt lại càng đỏ hơn khi đọc lá thư.
“Bạn tự viết một mình à?”
“Ừ…”
“Từ Sư phạm?”
“Đó là từ của Dan.”
“Con sụp đổ?”
“Đó là câu của Benjamin.”
“Tin tưởng vào sự phân định đúng đắn của thầy?”
“Simon.”
“Thế còn Jérémie?”
“Ơ!”
“Còn Elodie?”
“Cô ta không nói chuyện với mình nữa. Thế là tốt, mình cũng chẳng nói chuyện với cô ta.”
“Dễ thuơng nhỉ!”
“Ai?”
“Cả hai người!”
“Người ta không thể yêu hết thảy mọi người. Được yêu người mình yêu là may mắn lắm rồi.”
Mặc dù ngôi nhà đã quá ồn ào với sự thù địch của Germanine, tính đồng bóng của Henriette, những khám phá của Précieuse và sự chờ đợi của Ernest, lại có thêm anh em nhà Montardent lần lượt tới chơi cùng với Ernest.
Từ khi có điện thoại và ti-vi trên chiếc tủ ly, Ernest lại nghĩ tới lá thư, đã từng động viên hai bà cháu rất nhiều trong thời gian trước đó. Cậu có ý là sẽ trốn một mình trong phòng và cố gắng thêm để luận ra những chữ viết trên đó. Cậu đang cố đọc một lượt qua những ký tự trên lá thư thì Dan bước vào. Vừa nhìn thấy bức thư, anh thốt lên: “Em nhận được thư hồi âm rồi à?”
Ernest ngước đôi mắt buồn rầu và lắc đầu giải thích:”Lá thư này là do cụ nội em viết từ mặt trận trong cuộc Đại chiến thế giới thứ nhất.”
“Không đùa đấy chứ! Cho anh xem nào!”
Dan liếc qua và ra hiệu đồng ý. “Phải có các chuyên gia, các nhà chiết học, các chuyên gia lưu trữ, những người nghiên cứu chữ cổ… hoặc các dược sĩ thì mới luận đựơc cái thư này.”
“Vâng, nhưng biết tìm họ ở đâu?”
“Anh sẽ hỏi xem”, Dan hứa và Benjamin nhanh chóng thế chỗ anh. Bức thư vẫn ở trên tay Ernest, phong bì ở trên đùi của cậu, Benjamin cầm phong bì lên và lại đặt xuống. “Hay đấy! cậu nói. Em cho anh mượn được không?”
Ernest không thích cái ý nghĩ phải rời xa lá thư này.
“Anh chỉ muốn kiểm tra lại một điều trong sách của anh thôi.”
“Anh có thể mang sách của anh tới đây được không?”
“Ừ, nếu em muốn… đó là một ý kiến hay. Hôm khác anh sẽ quay lại. Em khá hơn chưa?”
“Sẽ khá hơn”, Ernest trả lời và nghĩ: “Khá hơn để làm gì nhỉ?”
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...