Vừa lúc ấy, câu chuyện của đức cha bắt đầu và đột nhiên tôi thấy buồn ngủ. Khi mẹ lạy người đánh thức tôi dậy, trong nhà thờ đã gần như không còn ai. Người phụ nữ chơi organ khi nãy đang thu dọn bản nhạc. Nhà thờ chỉ ít phút trước thôi chẳng khác nào hộp bánh lung linh ánh sáng và dồn chặt âm thanh giờ đây chỉ còn như một một trường bình thường ở bất kỳ đâu.
Không khí bên ngoài lạnh buốt như chọc vào mắt tôi.Ở chỗ cánh cổng còn đang mở, tôi ngoái đầu nhìn lại Chúa Jesus trên cây thập giá một lần nữa.
“Cháu để ta lại đây mà về ư?”
Người đó nói.
“Lần sau cháu lại tớ
Tôi khẽ lẩm bẩm rồi bước ra ngoài.
*
* *
Có nhiều hôm, bác Nishioka phải đi làm từ sẩm tối nên từ chiều anh Osamu đã đi chợ để nấu cơm sớm. Tôi vẫn thường tha thẩn quanh Osamu, có lúc xách hộ anh vài thứ khi đi chợ, lúc thì giúp anh rửa rau…Tại căn bếp nhỏ trong căn hộ, Osamu bận tạp dề, tay phải cầm muôi, tay trái nhấc lọ xì dầu trong tủ bếp ra, dáng vẻ anh khi đó y hệt vợ của bác Nishioka. Và cũng giống như đống chăn mền lúc vừa ngủ dậy, trông chẳng khác gì một con cá sấu. Dù nhìn thế nào thì hình ảnh anh Osamu luôn tay luôn chân trong căn bếp ấy cũng y hệt “bác gái bên nhà hàng xóm”vậy. Được ở cùng với “bác gái” trong căn bếp đó, tôi thấy thật vui là yên ổn.
Điều này dường như có liên quan tới chuyện tôi không cảm nhận được sự bình yên nơi bóng dáng của mẹ mỗi khi mẹ làm bếp. Tôi biết nếu nói điều này thật bất công với mẹ, người ngày ngày vẫn làm cơm cho tôi ăn, nhưng có lẽ tôi thấy ngạt thở. Trong tôi đầy ấp nỗi lo: liệu mẹ có làm việc quá sức, liệu mẹ có quá vất vả, liệu một lúc nào đó mẹ có giống như bố, sẽ bỏ tôi lại hay không? Tôi học cách sử dụng máy giặt và gấp quần áo, tôi nhận nhiệm vụ đi mua sữa mỗi ngày, tôi cố gắng để trở thành học sinh lớp Một mẫu mực, nhưng dù cố gắng thế nào, mỗi lần nhìn thấy lưng mẹ đứng quay mặt về phía bồn rửa bát, tôi lại sợ hãi nghĩ rằng rồi đây tôi sẽ bị bỏ lại một mình. Hồi tưởng về mẹ khi ấy, tôi có cảm giác mẹ như bị bọc kín trong một nỗi bất an, có lẽ nói vậy là hợp lí hơn cả.
Nhưng Osamu thì khác, anh ấy luôn vui vẻ và không đứng bếp theo cái kiểu ủ dột như mẹ tôi. Một hôm, trên đường đi mua đồ về, tôi nói với Osamu: “Giá mà anh ở đây mãi nhỉ.”
“Ừ, hay là thế nhỉ.”
Không hề lường trước rằng mình sẽ nhận được một câu trả lời đáng mừng thế và giản đơn đến thế, tôi lấy làm hân hoan.
“Thật nhé, thật nhé!”
“Ừ, dù gì anh cũng nấu ăn ngon hơn bố…”
“Đúng rồi, đúng rồi.”
“Đăng nào, sau khi sinh em bé, mẹ anh cũng sẽ vất vả lắm.
“Em bé, mẹ anh sinh em bé ạ?”
“Ừ. Dự kiến là ngày mùng ba Tết đấy.”
“Ồ.”
“Vì mẹ anh hơi yếu nên giờ vẫn đang nằm viện.”
Chắc vì thế mà anh ấy đến đây, tôi hiểu ra.
“Đến Tết, anh có thể đi thăm mẹ.”
“Xa lắm!”
“Nhưng để mẹ anh ở một mình như thế, tủi thân lắm.”
“Còn có bố nữa.”
“Dạ?”
“Bố mới của anh. Không phải bố ở đây đâu.”
Tôi thất vọng thốt lên một tiếng “ồ”. Trong giây lát, tôi im lặng bước đi, từ từ sắp xếp lại mọi thứ trong đầu.
“Bố mới của anh có ác không?”
“Không đâu,” Osamu khẽ lắc đầu. Câu trả lời của Osamu khiến tôi khá yên tâm như thể nó là chuyện của mình; tôi hỏi vậy là do bị ảnh hưởng bởi những bà mẹ kế độc ác trong truyện tranh và truyện cổ tích. Tuy nhiên tôi vẫn thấy có điều gì đó không chắc chắn.
“Anh thích khu nhà đó.”
Đột nhiên Osamu nói, đôi mắt hẹp dài cố mở thật to sau cặp kính.
“Bà cụ chủ nhà rất giống bà của anh. Hồi còn nhỏ, anh đã từng đến chỗ bà anh. Nhưng rất lâu rồi anh không gặp bà nữa.”
“Tại sao thế ạ?”
Tôi bỗng thấy thật khó có thể tin rằng bà của anh Osamu lại có khuôn mặt đáng sợ như bà cụ chủ nhà này.
“Vì bà anh cũng hay gọi anh là “Osamu”. Kiểu như “Osamu, đào hãy còn lạnh đấy” chẳng hạn. Bnh rất hiền.”
Osamu nhìn trân trân vào khoảng đất cách mũi chân chừng ba mét về phía trước, sau đó dùng ngón trỏ gõ cộc cộc vào mấy cái răng cửa to cộ.
“Anh Osamu này. Những người mà anh biết, đã có ai chết chưa?”
“Không có. Sao thế?”
“Không ạ. Không có gì.”
Tự nhiên tôi muốn kể cho Osamu nghe về những lá thư tôi viết cho bố, về cái ngăn kéo tủ của bà cụ. Nhưng quanh anh ấy chưa có ai chết cả nên tôi nghĩ cứ giữ bí mật với bà thì hơn. Vừa thấy thất vọng lại vừa nhẹ nhõm, tôi đá chân lên cao, chiếc giày thể thao đã bắt đầu trở nên hơi chật.
*
* *
Bố khỏe không ạ? Hôm nay, anh Osamu bảo: “Anh sẽ hái cho em quả qua lâu.” Anh Osamu cố gắng trèo lên cây dương. Nhưng dưới thấp không có cành nào cả nên mãi mà anh ấy không trèo được. Đúng lúc ấy bà cụ hỏi: “Hai đứa đang làm gì thế?” Anh Osamu trả lời: “Cháu muốn hái quả qua lâu nhưng không trèo lên cây được.” Bà cụ vào nhà kho lấy cái kéo làm vườn ra cho bọn con. Nó rất nặng và có tay cầm dài ơi là dài. Bà bảo: “Khi thầy bà còn sống, ông ấy đã mua cây kéo này ở cửa hàng cây cảnh.” Anh Osamu trèo lên cái thùng muối dưa lật úp. Anh ấy hô một tiếng rồi đưa cây kéo lên. Cánh tay anh Osamu rung rung. Cuối cùng, quả qua lâu bị cắt rơi xuống, và con tóm kịp lấy nó. Anh Osamu nói lớn: “Nice catch!”(4) Con rất vui. Nhưng sau đó, vì cái kéo quá nặng nên anh Osamu bị ngã nhào.
4. Tiếng Anh: cú bắt đẹp!
Quả qua lâu rất nhẵn bố ạ. Con tưởng nó mềm giống như cà chua nhưng hóa ra không phải. Con hỏi: “Ăn được không hả bà?” thì bà cụ nói: “Bà không biết, sao cháu không thử đi?” Con định ăn thì anh Osamu bảo: “Chiaki, đừng có ăn!” nên con không ăn nữa. Bà lại bảo: “Nó định ăn thật đấy, cái con bé này,” con bực lắm bố ạ.
Con rủ: “Quả qua lâu này thật đẹp, mình mang tới nhà thờ tặng cái người ở trên cây thập giá đi anh đi,” Anh Osamu đồng ý: “Ừ, hay đấy.” Lúc đó không có ai, nhà thờ hơi đáng sợ bố ạ. Anh Osamu bảo: “Con người sau khi chết sẽ tới xứ sở của các vị thần, Chiaki cũng tới đó. Anh cũng thế.” Anh ấy còn bảo, các vị thay những người chăn cừu, còn con người là những con cừu. Con đã tưởng tượng bố biến thành cừu. Nhưng con chẳng tin chút nào. Con không thích bố cứ tha thẩn trên mặt trăng với thỏ, kể cả cừu cũng thế. Con nghĩ, nếu bố mà biến thành cừu thì làm sao con biết được con cừu nào là bố.
Ông Jesus chỉ có một mình, ông ấy không mặc gì và trông ông ấy có vẻ buồn chán bố ạ. Con đặt quả qua lâu dưới cây thập giá. Rồi con chạy ra ngoài. Ra ngoài xong, con nghĩ, ông Jesus và bố hơi giống nhau. Con thấy ông ấy có khi còn giống bố hơn cả bức ảnh trên bàn thờ nhà mình nữa. Nhưng nghĩ lại thì điều đó thật kì cục làm sao.
Anh Osamu bảo: “Lần sau, chúng mình mang hoa tới nhé!” Con thích ý nghĩ lại được tới đó. Nhưng con thích những quả qua lâu hơn là hoa. Con nghĩ, nếu là bố, chắc bố cũng thích những quả qua lâu hơn. Thế bố nhé, con chào bố!
7.
Cuối năm, phố phường ngập tràn tiếng nhạc, người và xe cộ hối hả ngược xuôi trong bầu không khí rộn ràng tấp nập. Những ngày này, bà cụ, anh Osamu và tôi lại sống trầm lặng, như bị cái ồn ào náo nhiệt xung quanh tôi bỏ lại hoàn toàn.
Mỗi lần tới nhà thờ, tôi và anh Osamu lại say sưa đặt dưới chân cây thập giá những chiếc lá đẹp màu, quả thông, cả bức tranh máy bay mà Osamu vẽ, rồi cái cúc áo trông như viên kẹo tròn tròn lấy từ bộ vest mẹ tôi từng mặc, ngoài ra còn biết bao nhiêu thứ đồ lễ khác nữa. Tùy thời điểm mà bức tượng Chúa bằng gỗ mang những sắc thái khác nhau, cũng có khi tôi thấy ông ta giống như người đang bận tâm về một chuyện xúi quẩy nào đó hơn là đang đau khổ, chẳng hạn như bị rơi ví hay giẫm phải đống phân chó. Bị cuốn hút kì lạ bởi những biểu hiện cảm xúc khác nhau mỗi lần ngắm nhìn bức tượng, có những ngày, tôi rủ Osamu leo lên con dốc dài dẫn đến nhà thờ tới hai, ba lần. Lần nào tôi rủ: “Đi đi anh!” Osamu cũng đồng ý: “Ừ, đi!” nên tôi rất vui, có lẽ càng ngày tôi càng thích thú với trò chơi này.
Bà cụ chẳng có vẻ gì là sốt sắng với việc chuẩn bị tết nhất. Nếu hỏi hằng ngày bà cụ làm gì, câu trả lời sẽ là: bà dành cả ngày để dọn dẹp phân mèo. Thường thì lúc đi vệ sinh, lũ mèo sẽ tìm vào tận ngóc ngách nào đó và sau khi xong chúng sẽ lấp đất lên cẩn thận. Nhưng chắc những con mèo tới đây thuộc loại nặng mông, cứ ị phân lăn lóc ngay giữa vườn và để mặc như thế mà chẳng lấp đất che đi. Với một người ưa sạch sẽ như bà cụ, không đời nào bà lại chịu để yên như vây. Lần nào bà cụ cũng đi lòng vòng khắp vườn, tay đeo găng lao động, cầm theo túi giấy và xẻng, mắt sáng lên và cánh mũi phập phồng. Khi tôi và anh Osamu định đi ra ngoài, bà cụ gọi giật lại: “Hai đứa nhìn này!” rồi he hé cái túi giấy để những gì bên trong lộ ra. Chúng tôi nhăn mặt vì mùi khó chịu, còn bà cụ lại thích thú trước thái độ lạ lùng đó. Anh Osamu và tôi đưa mắt nhìn nhau, thế rồi bà cụ chúi mái đầu bạc phơ vào túi giấy và tự gật đầu một mình: “Ừ, có mùi. Mũi ta vẫn ngửi được.” Mũi của bà cụ đã gần như không ngửi thấy gì nữa rồi.
Năm đó, vì nhà đang có tang nên chúng tôi không viết thiệp chúc mừng ai cả. Đêm giao thừa và mùng một Tết, mẹ con tôi đến ở nhà bác anh cả của mẹ. Trước đó không lâu, bà ngoại cũng đến đó sống cùng với bác gái và hai chị họ của tôi.
Hiếm khi mẹ tới thăm nhà bác cả. Không phải vì quan hệ giữa mẹ và bác cả không tốt, mà nói thế nào nhỉ, chắc họ không được hợp nhau cho lắm. Thế nhưng vì bác ấy kiên quyết rằng ít nhất vào dịp tết nhất mẹ con tôi cũng nên tới thăm bà ngoại, hơn nữa khoảng cách ba giờ đồng hồ tàu điện chưa kể phải đổi tàu liên tục là quá xa để có thể đi và về trong một ngày, nên chúng tôi quyết định nghỉ đêm ở đây. Bác cả trách hai mẹ con tôi lâu lắm rồi có chưa đến thăm bà ngoại. Tim của bà ngoại có chuyển biến xấu, phải nhập viện nên lễ tang của bố tôi bà không đến dự được.
Mẹ với bác cả vừa xem chương trình âm nhạc cuối năm vừa nhâm nhi bia và trao đổi với nhau vài câu nhạt thếch. Hai chị họ đang học cấp II của tôi đứng trước ti vi và bắt chước các ca sĩ, hết hát hò lại nhảy nhót ầm ĩ, còn tôi thì vừa ngồi mơ màng bên bàn sưởi vừa nghĩ vẫn vơ, anh Osamu thế nào nhỉ?
Bác gái chăm bà ngoại tôi như chăm con nít vậy.
“Nàooo, mẹ ơi, mẹ ăn dưa vàng nhé.”
Giọng nói của bác ngọt như mía lùi. Bà ngoại vẫn có thể tự làm được nhiều việc, nhưng bác gái vẫn cắt sẵn dưa ra thành từng miếng nhỏ vừa miệng. Được chăm sóc chu đáo, bà ngoại nom thật đáng thương, nhỏ thú lọt thỏm trong cái áo len lông thỏ mềm mại rất hợp với nước da trắng, trên khuôn mặt nở một nụ cười mơ hồ. Bác gái càng ngọt ngào bao nhiêu, bà ngoại càng giống trẻ nhỏ bấy nhiêu. Nhìn bà ngoại như vậy, chẳng hiểu sao tôi lại nhớ tới hình ảnh bà cụ ở trang viên Cây Dương, trông rất oách trong chiếc tạp dề nhưng lại đứng bếp với vẻ lười nhác, lần nào cũng nấu đi nấu lại món canh tương dở tệ rồi húp sì s.
“Mẹ ơi!”
Sau khi chui vào trong chăn, tôi gọi mẹ. Bình thường tôi vốn khó ngủ, nhưng đúng là phải thừa nhận lớp hồ của cái vỏ chăn này quá dày.
“Mai mấy giờ mình về hả mẹ?”
Mẹ trở mình quay về phía tôi.
“Con muốn về ư?”
“Không phải thế nhưng mà…”
“Không phải thế, nhưng con muốn về chứ gì?”
“Vâng ạ.”
“Mẹ cũng thế.”
“Thật ạ?”
Mẹ gật đầu. Hình như lâu rồi tôi và mẹ mới nói chuyện với nhau như thế này, tôi thấy trong lòng vui vui.
“Bà ngoại già quá rồi nhỉ?”
Mẹ nói một mình. “Rồi thì, mọi người đều sẽ đi xa,” mẹ khẽ lẩm bẩm điều đó rồi quay lưng về phía tôi, bật khóc run run.
Tôi ra khỏi chăn mình, chui vào chăn bên cạnh, nằm sát lại như dán vào lưng mẹ. Từ sau khi vào mẫu giáo, hiếm khi tôi được ngủ cùng mẹ thế này, nhưng hôm đó là một ngoại lệ. Hơi ấm từ người mẹ từ từ truyền sang tôi, và rồi ở khóe mắt đang nhắm chặt cả tôi, khuôn mặt bố bất ngờ hiện lên rõ nét. Bố nhắm mắt, dường như đang suy nghĩ điều gì. Đúng rồi, bố vẫn thường nhắm mắt như thế, vừa hút thuốc lá, thỉ thoảng vẫn còn nghe nhạc, vừa suy nghĩ đăm chiêu. Tôi muốn biết bố đang nghĩ gì. Nhưng lần nào tôi tới gần, bố liền mở mắt ra ngay rồi bế bổng tôi lên. Điều đó khiến tôi vô cùng hạnh phúc nhưng cũng vì vậy mà chẳng bao giờ tôi bước vào được suy nghĩ riêng của bố…
“Mẹ xin lỗi.”
Mẹ vừa lau mắt khóc như trẻ con vừa quay về phía tôi. “Con bất ngờ phải không?”
Tôi lắc đầu. “Mẹ ơi,
“Sao, con?”
“Con đang viết thư đấy. Cho bố.”
Mẹ sững lại một giây. “Thế à, con đang viết thư cho bố à?”
“Con nhờ được người gửi hộ, thật đấy!”
Nếu mẹ hỏi, ai gửi hộ con, chắc tôi sẽ kể hết cho mẹ toàn bộ sự thật. Nhưng trong một thoáng, mẹ không nói gì, chỉ trân trân nhìn những đầu ngón tay tôi nằm gọn trong lòng bàn tay mẹ.
“Con viết những gì?”
“Ừm.”
“Bí mật à?”
“Con viết cả về những bí mật nữa. Ví dụ như chuyện anh Osamu sau này chẳng hạn.”
Mẹ khẽ cười.
“Mẹ ơi, bố chưa bao giờ nổi cáu, mẹ nhỉ?”
“Đúng rồi.”
Nhưng trong giọng nói của mẹ có điều gì đó mơ hồ.
“Viết thư cho bố, con thấy có cả giác kỳ lạ lắm.”
“Lạ thế nào hả con?”
“Con tự hỏi, bố đã chết rồi sao. Sự thực là bố đã chết rồi. Nhưng con chẳng thấy sợ gì cả mẹ ạ.”
“Trước đây con sợ à?”
“Vâng.”
Giây lát, cả hai mẹ con cùng chìm vào im lặng.
“Mẹ ơi, mẹ sẽ viết chứ?”
“Một lúc nào đó nhé!”
“Nếu viết, mẹ bảo con nhé. Để con nhờ người gởi đi hộ cho.
Tôi vội nhắm mắt lại. Mong sẽ kịp ngủ trước khi mẹ nhắc, “Giờ thì về với cái chân của con đi nào.” Nhưng hình như mẹ không định nói điều đó. Mẹ cứ chĩa mũi vào mớ tóc mái hỉ nhi vừa cắt của tôi và cứ để như vậy thật lâu. Trong khi cố vờ ngủ, tôi đã thiếp đi luôn.
*
* *
Mùng một Tết. Mẹ và tôi định sẽ đi dạo cùng bà ngoại. Hàng ngày, đi dạo sau bữa sáng đã trở thành thói quen thường nhật của bà, và bà không hề có định phá vỡ thói quen ấy dù là trong ngày Tết. Bác gái, người luôn đi dạo cùng bà, từ sáng đã mệt lử do uống chút rượu nặng. Bác đã cố gọi vợ dậy nhưng vô ích, “Mau dậy còn dắt mẹ ra ngoài chứ,” cứ như thể bảo bác gái đi chăm cún con vậy. Hai cô chị họ của tôi đã ra ngoài đi lễ cầu năm với bạn bè.
Chúng tôi thong thả ra công viên gần nhà theo nhịp bước chân chậm rãi của bà. Phố xá được gói ghém trong cái tĩnh lặng đặc trưng của Tết, còn bầu không khí như căng ra dưới ánh nắng trong vắt. Bà ngoại không nói gì cả. “Mẹ có lạnh không?” “Đây có phải là con đường mọi khi không mẹ nhỉ?” Mẹ có hỏi gì đi nữa, bà cũng chỉ gật gật hoặc lắc đầu mà thôi. Tôi ngờ rằng bà ngoại chẳng biết gì về hai mẹ con tôi. Suốt từ hôm qua, chưa một lần bà gọi tên tôi và mẹ.
Trong công viên, chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng dưới nắng. Ngay bãi cát trước mặt, có một con mèo đang bới bới cát để giải quyết nỗi buồn.
“Mẹ xem kìa. Có con mèo kìa, mèo.”
Mẹ chỉ cho bà ngoai. Bị ảnh hưởng của bác gái, giọng mẹ nghe như đang trò chuyện với con nít vậy. Nhưng lập tức, bà ngoại làm mẹ con tôi sững người.
“Này con, thôi cái kiểu đó đi cho mẹ nhờ.”
Bà ngoại nói xong thở phì phò cả ra đằng mũi, bà vẫn còn mệt.
“Thôi cái gì cơ ạ?”
Mẹ tôi chớp mắt liên tục.
“Nghe cái giọng chảy nước của con, mẹ đến đoản thọ mất.”
Tôi và mẹ cùng há miệng. Bà ngoại ít nhất trước trông còn đáng thương đến thế giờ đã đi đâu mất rồi?
“Con bao nhiêu tuổi rồi?”
Mẹ còn đang ngơ ngác thì bà ngoại liền hỏi lại: “Này con gái. Con bao nhiêu tuổi rồi?”
“Ba bảy ạ.”
Bà ngoại gật đầu rồi mò tìm trong túi ni lông đặt trên đầu gối, lấy ra một phong bì dày đưa cho mẹ.
“Cái gì thế ạ?” Mẹ hé mắt nhìn vào trong rồi lên tiếng. “Đây chẳng phải là tiền sao?”
“Mẹ cứ nghĩ mãi, chẳng biết sau khi mẹ chết đi rồi thì nó có đến được tay con hay không...”
“Nhưng còn các anh con thì sao ạ?”
“Đó là chuyện mẹ sẽ tự lo, được chứ?”
Giọng bà ngoại dần trở nên rõ ràng.
“Con có tiền không? Không có xu nào còn gì?”
“Dạ vâng, nhưng…cảm ơn mẹ đã giúp con.”
Bên trong phong bì, ngoài tiền ra còn có một chiếc nhẫn vàng.
“Mẹ mua nó từ trước khi sinh con. Hơi bốn mươi năm rồi đấy.”
Mẹ bèn đeo thử, chiếc nhẫn còn vừa khít với ngón giữa.
“Mẹ mang thai con năm bốn hai tuổi nhỉ. Ngưỡng mộ thật!”
Mẹ nói, mắt ngắm nghía mãi cái bàn tay đeo nhẫn, bà ngoại không trả lời. Thay vì thế, bà chăm chú nhìn mẹ với một sự lưu tâm sâu sắc, gần như là dò xét.
“Này, có phải con cảm giác như bây giờ mình đã có tuổi rồi phải không?”
Mẹ khẽ cười rồi trả lời bâng quơ: “Vâng ạ.”
“Mẹ biết, thời đại bây giờ khác rồi, nhưng mẹ cũng từng giống như con. Cũng có phần chán chường, buồn bã. Bố con điều hành công ty rất tốt nên mọi chuyện đều thuận buồm xuôi gió. Ngày đó, con còn chưa sinh ra, có một người đàn bà…”
“Đàn bà…với bố ạ?”
“Ừ.”
“Không thể nào. Chẳng phải cứ hễ trên ti vi chiếu gì đó lãng mạn là bố đều tắt đi đấy hay sao?”
“Nhưng mà có đấy con ạ. Chuyện đó đã xảy ra, và mẹ nghĩ cuộc đời mình thế là hết. Rồi bằng mọi cách, mẹ cố gắng tự vực mình dậy, lần đầu tiên mẹ bí mặt mua đồ mà không cho bố con biết. Mẹ thấy thoải mái lắm. Là chiếc nhẫn này đây.”
Mẹ nhìn chiếc nhẫn. Tôi chẳng hiểu gì về nội dung câu chuyện nhưng lại bị khuôn mặt bà thu hút. Cả mắt, miệng và lỗ mũi của bà trông đều phồng lên dễ phải đến gấp đôi lúc ở nhà.
“Từ đó về sau, dần dần từng chút một, nhiều chuyện trở nên tốt đẹp hơn, và rồi con ra đời. Đó là cái nhẫn mang lại điềm lành.”
Bà ngoại nói vậy với mẹ rồi quay sang nháy mắt với tôi, khi ấy đang dỏng tai lên nghe chuyện người lớn. “Cháu có thấy đẹp không? Mai này cháu lớn lên, mẹ cháu sẽ tặng lại nó cho cháu.”
Mẹ chìa bàn tay đeo nhẫn về phía tôi. Trên bề mặt nhẵn bóng của chiếc nhẫn vàng, khuôn mặt tôi ánh lên dài thượt.
“Có lẽ con cảm thấy thật khó khăn nhưng…” bà ngoại ho khẽ, “quan trọng hơn cả là rồi đây sẽ thế nào. Con hãy làm sao để sau này không phải hối hận rằng ‘Ôi, ngày đó mình vẫn còn trẻ, vậy mà…’ ”
Đáp lại lời bà, “Điều đó con hiểu,” - mẹ khẽ gật đầu như muốn nói.
“Con ổn cả mà mẹ.”
“Thật ư? Hôm qua, lúc con xuất hiện trong bộ vest cũ nát đó, mẹ thấy rùng cả mình.”
“A ha ha,” mẹ bật cười, Chắc mọi người chê bộ vest kẻ ca rô mà mẹ đang mặc, điều đó hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Đó là bộ đồ mà tôi yêu thích.
“Bộ này ạ, con chủ định mặc nó đấy. Con đang để tang mà. Anh Hiroyuki chắc là đang càu nhàu nhiều lắm hả mẹ?”
“Thằng bé đó là một đứa cứng nhắc. Nó bảo thủ và độc đoán.”
Mặt bà ngoại nhăn lại.
“Cực chẳng đã, mẹ đành phải đóng vai người có tuổi. Nếu không giả làm một bà già lẩn thẩn thì thật khó sống.”
Mẹ định xen vào, song bà lắc đầu cho mẹ thấy.
“Mọi người đều biết cả. Rằng thực ra mẹ là một bà già lắm điều. Bác cắt tóc, bác sĩ Naganuma, ông Tashiro ở bưu điện, và Yoshizawa ở Hội Người cao tuổi, cả ông Tamiya nữa. Nhưng cũng vì thế nên trước Toshiko, mọi người đều giữ bí mật giúp mẹ, về việc mẹ đóng kịch thế này. Đó đều là những người thực sự tốt.”
“Nào, đến lúc phải đi rồi,” bà ngoại là người đứng lên trước tiên. Tới tận bây giờ, tôi vẫn nhớ như in khuôn mặt bà ngoại khi vừa đi qua cổng nhà bác cả: mắt bà trũng xuống còn miệng thì mím chặt lại, có một sự thay đổi ghê gớm vừa diễn ra cứ như thể bà vừa đeo thêm một chiếc mặt nạ vậy. Liền sau đó là bữa trà chiều. Như một chú chim non, bà ngoại ăn những miếng thạch đậu xanh được bác gái cắt nhỏ.
*
* *
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...