Một Lần Và Mãi Mãi

Victoria chậm chạp lắc đầu. “Có lẽ chú không nên kể điều gì với cháu hết, thuyền trưởng ạ. Đức ngài Fielding và cháu hầu hết thời gian là xa lánh nhau, nhưng cháu không muốn thấy chú hay anh ấy bị tổn thương vì những điều chú kể.” 
Một nụ cười thoáng hiện trên nét mặt cương quyết của thuyền trưởng Farrell. “Nếu tôi nghĩ cô có thể dùng những điều tôi kể cô nghe làm vũ khí chống lại cậu ấy, tôi sẽ im lặng. Nhưng cô sẽ không làm điều đó. Có một sức mạnh dịu dàng trong cô, và lòng trắc ẩn cùng sự thấu hiểu mà tôi đã tự mình chứng kiến đêm qua khi tôi thấy cô hoà trộn với dân làng. Tôi ngắm nhìn cô cười với họ và làm cho họ thoải mái, và khi đó tôi nghĩ cô là một phụ nữ trẻ tuyệt vời – và là một người vợ hoàn hảo cho Jason. Tôi vẫn còn nghĩ thế.” 
Ông thở một hơi dài và bắt đầu. “Lần đầu tôi nhìn thấy chồng cô là khi tôi ở Dehli. Đấy là nhiều năm trước, khi tôi đang làm việc ột thương gia giàu có người Dehli tên là Napal, ông ta chuyên chở hàng hoá bằng tàu thuỷ từ Ấn độ lui tới nhiều nước khác trên khắp thế giới. Napal không chỉ sở hữu hàng hoá mà ông ta buôn bán, ông ta còn sở hữu 4 chiếc tàu chở hàng vượt biển. Tôi là người đầu tiên trên một trong những chiếc tàu đó. 
“Tôi đã đi 6 tháng trong một chuyến hải hành mang lại vô số lợi nhuận, và khi chúng tôi về cảng, Napal mời thuyền trưởng và chính tôi đến nhà ông ta dự một buổi tiệc nhỏ riêng tư. 
“Ở Ấn độ trời luôn nóng, nhưng ngày hôm đó trời có vẻ còn nóng hơn, đặc biệt là bởi vì tôi bị lạc đường khi cố tìm nhà Napal. Không biết làm sao mà cuối cùng tôi sa vào một mê cung những ngõ ngách và khi tôi cố tìm cách ra khỏi đó, tôi lạc vào một quảng trường nhỏ dơ dáy đầy những người Ấn độ rách rưới, bẩn thỉu – Cái nghèo ở đó thật không thể tưởng tượng nổi đâu. Dù sao đi nữa, tôi nhìn quanh, hy vọng hết lần này đến lần khác tìm ra ai đó tôi có thể nói chuyện bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh để hỏi đường. 
“Tôi nhìn thấy một đám đông nho nhỏ đang tụ tập ở phía cuối quảng trường xem gì đó,- tôi không thể thấy là cái gì- và tôi đi về phía họ. Họ đang đứng phía bên ngoài một toà nhà, xem chuyện đang diễn ra trong đó. Tôi rảo bước quay lui, cố gắng lần lại đường cũ, rồi tôi nhìn thấy một hình chữ thập bằng gỗ thô sơ đóng đinh lên phía ngoài toà nhà. Nghĩ đó là một ngôi nhà thờ và tôi có thể tìm ra ai đó tôi có thể nói chuyện bằng chính ngôn ngữ của mình, tôi chen lấn qua đám đông và đi vào. Tôi dùng cùi chỏ dẹp đường đi qua cả trăm người Ấn độ rách rưới về phía mặt tiền ngôi nhà, nơi tôi có thể nghe thấy một người phụ nữ gào thét y như một kẻ phát cuồng, bằng tiếng Anh, về thói dâm ô và sự báo thù của Đấng toàn năng. 
“Cuối cùng tôi vào được nơi tôi có thể nhìn thấy, và bà ta ở đó, đứng trên cái bục gỗ cùng một cậu bé bên cạnh bà ta. Bà ta đang trỏ tay vào cậu bé và hét lên rằng cậu là đồ quỉ quái. Bà ta rít lên rằng cậu là “mầm mống của thói dâm ô” và là “đứa con của tội lỗi”, rồi bà ta giật đầu đứa trẻ lên và tôi thấy mặt cậu ta. 
“Tôi chết trân khi nhận thấy cậu bé là người da trắng, không phải người Ấn. Bà ta hét lên với mọi người để họ “nhìn vào đồ quỉ mà xem sự báo thù của Đức Chúa trời như thế nào”; rồi bà ta quay cậu bé lại để chỉ cho người ta thấy “sự báo thù của Đức Chúa”. Khi tôi nhìn thấy lưng cậu bé, tôi nghĩ tôi phát ốm lên mất.” 
Thuyền trưởng Farrell nuốt khan. “Victoria, lưng cậu bé tím đen vì trận đòn mới rồi và đầy sẹo từ biết bao nhiêu trận đòn trước đó, chỉ có Chúa mới biết được. Từ những gì tôi thấy thì bà ta vừa mới đánh cậu bé xong trước mặt ‘giáo đoàn’ của bà ta- người Ấn không phản đối kiểu bạo hành dã man như thế. 
Gương mặt ông méo mó khi ông tiếp tục. “Trong khi tôi đứng đó, mụ phù thuỷ loạn óc ấy la hét bắt cậu bé quì xuống để cầu xin đức chúa tha thứ. Cậu bé nhìn thẳng vào mắt bà ta, không nói gì, nhưng cậu không di chuyển, và bà ta quất roi xuống ngang lưng cậu, đủ mạnh để làm một người đàn ông trưởng thành phải quị xuống. Cậu bé quì xuống. ‘Cầu nguyện đi, đồ quỉ dữ nhà ngươi,’ bà ta hét lên với cậu bé đang quì, và bà ta lại đánh cậu. Cậu bé không nói gì, cậu chỉ nhìn thẳng về phía trước; và chính lúc đó tôi nhìn thấy mắt cậu … Mắt cậu khô khốc. Không hề có mọt giọt nước mắt trong đó. Nhưng mà có nỗi đau - lạy Chúa, đôi mắt tràn ngập nỗi đau!” 

Victoria run rẩy vì thương xót cho đứa bé xa lạ, tự hỏi tại sao thuyền trưởng Farrell lại kể cho nàng nghe câu chuyện kinh tởm này trước khi kể về Jason. 
Khuôn mặt Farrell nhăn nhúm. “Tôi sẽ không bao giờ quên nỗi đau trong đôi mắt cậu,” ông thì thầm khàn đặc, “hay chúng xanh đến thế nào trong thời điểm ấy.” 
Chiếc ly của Victoria rơi xuống sàn và vỡ tan tành. Nàng điên dại lắc đầu, cố chối bỏ điều ông đang nói với nàng. “Không,” nàng kêu lên trong cơn thống khổ. “Ôi, làm ơn, không-” 
Có vẻ như không nhận biết được nỗi hoảng loạn của nàng, Thuyền trưởng Farrell tiếp tục, mắt ôngnhìn thẳng về phía trước, chìm đắm trong hồi tưởng. “Rồi cậu bé cầu nguyện, cậu chắp hai bàn tay lại với nhau và nhắc lại, ‘Tôi quì gối trước Chúa trời, cầu xin sự tha thứ của ngài.’ Người đàn bà bắt cậu nói to hơn, nói đi rồi nói lại, và khi bà ta đã thoả mãn, bà kéo cậu đứng lên. Bà ta chỉ vào những người Ấn độ dơ dáy và bảo cậu cầu xin những người lương thiện sự tha thứ của họ. Rồi bà ta trao cho cậu một cái bát nhỏ. Tôi đứng nhìn cậu đi vào đám đông và quì dưới chân ‘giáo đoàn’ của bà ta, hôn gấu áo bẩn thỉu của họ và ‘cầu xin sự tha thứ của họ.’ ” 
“Không,” Victoria rên rỉ, xiết chặt cánh tay quanh người và nhắm mắt khi nàng cố xoá đi hình ảnh cậu bé với mái tóc quăn đen và đôi mắt xanh quen thuộc đang chịu đựng một tội ác khủng khiếp như vậy. 
“Có điều gì đó trong lòng tôi phát cuồng lên,” Farrell tiếp tục. “Những người Ấn độ là dân cuồng tín và tôi không quan tâm đến lối sống của họ. Nhưng nhìn thấy một đứa trẻ thuộc chủng tộc của chính tôi bị lạm dụng như thế khiến tôi điên tiết. Mặc dù còn hơn thế nữa. Có điều gì đó nơi cậu bé đã chạm vào tôi - cậu dơ bẩn, rách rưới và đói khát, nhưng có một vẻ kiêu hãnh, thách thức trong đôi mắt ám ảnh của cậu làm trái tim tôi tan vỡ. Tôi chờ trong khi cậu lê gối đến bên những người Ấn bên cạnh tôi và hôn gấu áo họ, cầu xin sự tha thứ của họ trong khi họ thả những đồng xu vào cái bát gỗ của cậu. Sau đó cậu mang cái bát đến cho người phụ nữ, và bà ta mỉm cười. Bà ta lấy cái bát và cười với cậu; bà ta bảo bây giờ cậu ‘tốt’ rồi, bà ta cười cái nụ cười cuồng tín, điên loạn của bà ta. 
“Tôi nhìn người đàn bà ghê tởm đứng trên bệ thờ tạm thời đó, tay bà ta cầm cây thánh giá, và tôi muốn giết bà ta. Mặt khác, tôi không biết giáo đoàn của bà ta trung thành với bà ta đến mức nào và, vì tôi không thể chiến đấu với họ chỉ bằng một tay, tôi hỏi liệu bà ta có muốn bán cậu bé cho tôi không. Tôi bảo bà ta rằng tôi nghĩ cần có một người đàn ông để trừng phạt cậu ta cho thoả đáng.” 
Dứt ánh mắt ra khỏi điểm tập trung xa xôi của nó, thuyền trưởng Farrell nhìn Victoria, một nụ cười rầu rĩ nở trên mặt ông. “Bà ta bán cậu bé cho tôi với sáu tháng tiền lương tôi mang theo trong túi. Chồng bà ta chết một năm trước đây và bà ta cần tiền cũng nhiều như cần có một cậu bé chịu đòn. Nhưng trước khi tôi ra khỏi chỗ đó, bà ta vãi tiền ra cho đám giáo dân của bà ta và hét lên về việc Chúa đã gửi quà của Ngài cho họ thông qua bà ta. Bà ta điên. Điên hoàn toàn.” 
Giọng Victoria chỉ là một tiếng thì thầm cầu xin. “Chú có nghĩ mọi thứ tốt hơn với Jason trước khi cha anh ấy chết không?” 
“Cha Jason vẫn còn sống,” Thuyền trưởng Farrell trả lời một cách khó khăn. “Jason là con ngoại hôn của Charles.” 

Căn phòng bắt đầu chao đảo và Victoria ép chặt tay lên môi, cố nén cơn choáng váng và buồn nôn đang tấn công nàng. 
“Cô có ghê tởm lắm không khi khám phá ra cô đã kết hôn với một đứa con hoang?” ông hỏi, đợi xem phản ứng của nàng. 
“Làm sao chú có thể nghĩ ra điều ngu ngốc đó chứ!” Victoria kêu lên căm phẫn. 
Ông mỉm cười vì điều đó. “Tốt. Tôi không nghĩ là cô quan tâm, nhưng người Anh rất khó khăn về chuyện như thế.” 
“Đấy là,” Victoria nóng nảy độp lại, “chuyện cực kỳ đạo đức giả về phần họ, vì có ba công tước hoàng gia mà cháu biết là hậu duệ trực hệ của ba người con ngoại hôn của đức vua Charles. Hơn nữa, cháu không phải là người Anh, cháu là người Mỹ.” 
“Cô thật dáng yêu,” ông dịu dàng nói. 
“Chú kể cho cháu nghe phần còn lại mà chú biết về Jason nhé?” nàng hỏi, trái tim nàng đã đầy tràn những nhịp đập của niềm thương cảm. 
“Phần còn lại không quan trọng lắm. Tôi mang Jason đến nhà Napal vào cùng đêm đó. Một người hầu của Napal rửa ráy sạch sẽ cho cậu và đưa cậu đến gặp chúng tôi. Cậu bé không muốn nói chuyện nhưng một khi cậu đã nói, rõ ràng là cậu thật sáng dạ. Khi tôi kể cho Napal câu chuyện đó, ông ta cảm thấy thương Jason và nhận cậu vào làm như một cậu bé chạy việc vặt. Jason không nhận tiền, nhưng cậu được ột cái giường ở đằng sau văn phòng của Napal, thức ăn tươm tất, và áo quần. Cậu bé tự học đọc và viết - cậu có một niềm khao khát vô vàn là được học. 
“Đến lúc Jason được 16 tuổi, cậu đã học được tất cả mọi thứ có thể từ Napal để làm một thương gia. Ngoài chuyện thông minh và lanh lợi, Jason có một nghị lực đi đến thành công không thể tin nổi—Tôi tưởng tượng là điều đó có từ việc bị buộc phải đi ăn xin với một chiếc bát gỗ lúc cậu còn nhỏ. 
“Dù sao đi nữa, Napal trở nên đằm hơn khi ông già đi, vì ông không có con cái, ông bắt đầu nghĩ đến Jason như là một đứa con trai hơn là một người thư ký làm việc quá sức với đồng lương còm cõi. Jason thuyết phục Napal cho cậu ấy đi trên một trong những chiếc tàu của Napal để cậu ấy tự mình học kinh doanh tàu biển. Tôi đã trở thành thuyền trưởng vào thời đó, và Jason đã đi với tôi trong 5 năm liền.” 

“Anh ấy có phải là một thuỷ thủ giỏi không?” Victoria nhẹ nhàng hỏi, cảm thấy cực kỳ tự hào về cậu bé đã lớn lên thành một người đàn ông thành đạt. 
“Giỏi nhất. Cậu ấy khởi sự như một thuỷ thủ thông thường, nhưng cậu ấy học điều khiển tàu biển và mọi thứ từ tôi khi cậu rảnh. Napal chết hai ngày sau khi chúng tôi trở về từ một chuyến đi. Ông đang ngồi trong văn phòng thì tim ngừng đập. Jason cố mọi cách để làm ông ấy tỉnh lại, cậu ấy thậm chí còn cúi trên người ông và cố đẩy hơi thở của cậu vào phổi ông. Mọi người trong văn phòng còn nghĩ Jason hoá điên rồi, nhưng cô thấy đấy, cậu ấy yêu thương ông già keo kiệt ấy. Cậu ấy thương tiếc ông ta hàng tháng trời, nhưng cậu ấy không rơi một giọt nước mắt,” Mike Farrell lặng lẽ nói. “Jason không khóc được, Mụ phù thuỷ nuôi cậu ấy đã thuyết phục rằng ‘quỉ’ không biết khóc, và bà ta đánh cậu ấy kinh khủng hơn nếu cậu ấy khóc. Jason cuối cùng đã nói với tôi thế lúc cậu ấy được 9 tuổi. 
“Dù gì đi nữa, Napal để lại mọi thứ cho Jason khi ông ấy qua đời. Trong vòng sáu năm kế đó, Jason đã làm điều cậu ấy đã từng thuyết phục Napal làm - cậu ấy mua nguyên một đội tàu và cuối cùng cậu ấy đã nhân tài sản của Napal lên gấp nhiều lần.” 
Khi thuyền trưởng Farrell đứng dậy lặng lẽ nhìn vào ngọn lửa, Victoria nói, “Jason cũng cưới vợ, phải không? Cháu khám phá ra chuyện đó mấy ngày trước.” 
“À, có, cậu ấy lấy vợ,” Mike nói, ông nhăn mặt ghê tởm khi ông bước đến chỗ chai whiskey và rót ình một ly khác. “Hai năm sau cái chết của Napal, Jason trở thành một trong những người đàn ông giàu có nhất Dehli. Sự khác biệt đó dành được sự quan tâm đầy vụ lợi của một người đẹp vô đạo đức tên là Melissa. Bố cô ta là một người Anh sống ở Delhi và làm việc cho chính phủ. Melissa có vẻ đẹp, dòng dõi và phong cách, cô ta có mọi thứ trừ thứ cô ta cần nhất - tiền. Cô ta lấy Jason vì cái mà cậu ấy có thể cho cô ta.” 
“Tại sao Jason lại lấy cô ta?” Victoria muốn biết. 
Mike Farrell nhún vai. “Cậu ấy trẻ hơn cô ta và bị choáng váng vì vẻ ngoài của cô ta, tôi đoán thế. Và rồi, quí cô ấy – tôi dùng cái danh xưng này không đúng lắm—cũng có một … ờ … cái vẻ có thể làm cho bất kỳ người đàn ông nào trông đợi tìm thấy sự ấm áp trong vòng tay cô ta. Cô ta bán cái ấm áp đó cho Jason để đổi lấy bất kỳ cái gì cô ta có thể vòi được từ cậu ấy. Cậu ấy cho cô ta rất nhiều - những món nữ trang có thể làm hài lòng một nữ hoàng. Cô ta nhận nó và cười với cậu ấy. Cô ta có gương mặt đẹp, nhưng không biết vì lý do gì khi cô ta cười với cậu ta như thế, nó nhắc tôi nhớ lại mụ phù thuỷ già ghê tởm với cái bát gỗ.” 
Victoria nhìn thấy cái hình ảnh sắc nét đau nhói khi Jason tặng nàng ngọc trai và xa phia và yêu cầu nàng cảm ơn hắn bằng một nụ hôn. Nàng buồn rầu tự hỏi có phải hắn phải hối lộ ột phụ nữ để cô ta quan tâm đến hắn. 
Nâng ly lên, Mike uống một ngụm dài. “Melissa là một cô ả hư hỏng- một cô ả hư hỏng bỏ hết thời giờ của cô ta ra để lê lết từ chiếc giường này sang chiếc giường khác sau khi cô ta đã lấy chồng. Chuyện buồn cười là cô ta té xỉu khi cô ta khám phá ra Jason là một đứa con ngoại hôn. Đó là tại ngôi nhà của họ ở Delhi khi Công tước Atherton xuất hiện và yêu cầu được nói chuyện với con trai ông ấy. Melissa phát rồ lên vì giận dữ khi cô ta nhận ra Jason là con ngoài giá thú của Charles. Có vẻ như việc pha trộn dòng máu của cô ta với một đứa con hoang là vi phạm qui tắc của cô ta lắm. Tuy nhiên đem thân cô ta ra mà tặng cho bất kỳ người đàn ông nào thuộc tầng lớp cô ta thì lại chả phiền gì tới qui tắc của cô ta cả. Thật là một mớ qui tắc đạo đức kỳ cục, cô thấy thế không?” 
“Quá sức kỳ cục!” Victoria đồng ý. 
Thuyền trưởng Farrell cười toét miệng trước câu trả lời chân thành của nàng, rồi ông nói, “Bất kỳ sự trìu mến nào mà Jason cảm thấy dành cho cô ta lúc cậu ấy cưới cô ta nhanh chóng bị huỷ diệt khi sống cùng cô ta. Mặc dù vậy cô ta cũng sinh cho cậu ấy một đứa con trai, và vì lý do đó, cậu ấy giữ cô ta trên đỉnh cao thời thượng và làm ngơ mọi phi vụ của cô ta. Thực lòng mà nói, tôi không nghĩ cậu ấy quan tâm.” 

Victoria, người không hề biết Jason có một đứa con trai, ngồi bật dậy, nhìn sửng sốt vào thuyền trưởng Farrell khi ông tiếp tục. “Jason thương yêu đứa trẻ đó. Cậu ấy mang cậu bé theo hầu như là mọi nơi cậu ấy đến. Cậu ấy còn đồng ý trở về đây và chi tiền để khôi phục lại những điền trang đã xuống cấp của Charles Fielding để rồi Jamie có thể thừa hưởng một vương quốc phù hợp. Và rốt cục thì chả để làm gì cả. Melissa đã cố bỏ trốn với tình nhân cuối cùng của ả, và ả mang cả Jamie đi cùng, định để cho Jason phải chuộc cậu bé về sau đó. Con tàu họ đi bị đắm trong một cơn bão.” 
Bàn tay của thuyền trưởng Farrell siết chặt trên chiếc ly và những thớ thịt trên cổ họng ông gồng lên dữ dội. “Tôi là người đầu tiên khám phá ra là Melissa đã mang cả Jamie đi cùng cô ả. Tôi là người phải nói với Jason rằng con trai cậu ấy đã chết. Tôi khóc,” ông nói khản đặc giọng. “Nhưng Jason thì không. Thậm chí cả khi đó. Cậu ấy không thể khóc.” 
“Thuyền trưởng Farrell,” Victoria nói bằng thứ giọng nghẹn ngào, “Cháu muốn về nhà. Trời tối rồi, và Jason có thể đang lo lắng về cháu.” 
Vẻ đau đớn biến mất khỏi mặt người thuyền trưởng và một nụ cười vỡ ra trên những nét mặt khắc khổ của ông. “Một ý tưởng tuyệt vời,” ông đồng ý. “Nhưng trước khi cô đi, tôi muốn nói với cô điều này.” 
“Là gì ạ?” 
“Đừng để Jason lừa cô hay chính bản thân cậu ấy tin rằng cậu ấy không muốn gì từ cô ngoài một đứa con trai. Tôi biết cậu ấy rõ hơn bất kỳ ai, và tôi nhìn thấy cái cách cậu ấy ngắm cô tối qua. Cậu ấy đã yêu cô một nửa rồi, mặc dù tôi ngờ là cậu ấy không muốn thế đâu.” 
“Cháu không thể trách anh ấy vì không muốn yêu bất kỳ người phụ nữ nào,” Victoria buồn rầu nói. “Cháu không thể hình dung được làm sao anh ấy có thể sống qua mọi điều xảy đến với anh ấy mà chẳng phát điên lên.” 
“Cậu ấy mạnh mẽ,” Thuyền trưởng Farrell trả lời. “Jason là con người mạnh mẽ nhất mà tôi từng biết. Và là người tốt nhất. Hãy cho phép mình yêu thương cậu ấy, Victoria – tôi biết cô muốn thế. Và hãy dạy cậu ấy làm thế nào để yêu cô. Cậu ấy có rất nhiều tình yêu để trao tặng, nhưng trước hết, cậu ấy sẽ phải học cách tin cô. Một khi cậu ấy đã tin cô, cậu ấy sẽ đặt cả thế giới dưới chân cô đấy.” 
Victoria đứng dậy, nhưng đôi mắt nàng ngập đầy lo lắng. “Điều gì làm chú tin chắc mọi chuyện sẽ đâu vào đấy như cách chú nghĩ?” 
Giọng người đàn ông Ai len thật nhẹ nhàng và có một ánh nhìn xa xôi trong mắt ông. “Bởi vì tôi đã biết một cô gái giống như cô ngày trước. Cô ấy có sự ấm áp và lòng can đảm của cô. Cô ấy dạy tôi tin tưởng, yêu thương và được yêu thương thì sẽ thế nào. Tôi không sợ chết bởi vì tôi biết có cô ấy ở đó chờ tôi. Hầu hết đàn ông yêu dễ dàng và thường xuyên, nhưng Jason giống tôi hơn. Cậu ấy sẽ chỉ yêu một lần – nhưng đó sẽ là tình yêu ãi mãi.”
 


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận