“Tôi đã gọi cho bác sĩ nội khoa và bác sĩ thần kinh, họ sẽ tới đây trong vài phút,” ông nói. “Sao giờ anh không lên phòng cô ấy nhỉ?”
“Cô ấy không sao, phải không ạ?”
Harris, một người đàn ông mà Travis hầu như chẳng quen thân, đặt tay lên vai anh, đẩy anh về phía trước. “Tôi gặp cô ấy,” ông nói. “Cô ấy đòi gặp anh mãi.”
Ai đó giữ cửa mở giùm anh - dù anh cố gắng đến đâu, anh vẫn không thể nhớ nổi đó là đàn ông hay phụ nữ - rồi Travis bước vào tòa nhà. Sang phải một chút là tới cầu thang, anh bước vội lên các bậc, càng lên cao càng loạng choạng. Trên tầng hai, anh kéo cánh cửa và trông thấy một y tá cùng một hộ lý đang chờ sẵn, như thể biết người bước vào là anh. Nhìn nét mặt hồ hởi của họ, anh đoán hẳn là họ đã trông thấy anh bước vào và muốn kể cho anh chuyện gì đã xảy ra, nhưng anh không dừng lại, còn họ để anh đi qua. Khi bước thêm một bước, anh cảm thấy chân mình như thể đang sắp sửa nhũn ra. Anh dựa người vào tường cho vững trong một lát, rồi bước tiếp một bước về phía phòng Gabby.
Đó là căn phòng thứ hai bên tay trái, và cửa phòng để mở. Khi anh tới gần hơn, anh nghe có tiếng người rì rầm nói chuyện. Bên cánh cửa, anh ngập ngừng, ước gì ít nhất mình cũng đã chải đầu, song anh biết điều đó không quan trọng. Anh bước vào, gương mặt Gretchen liền sáng bừng lên.
“Tôi đang ở bên bác sĩ tại bệnh viện thì ông ấy nhận được giấy báo, và tôi phải qua xem thế nào...”
Travis hầu như không nghe thấy cô. Thay vào đó, tất cả những gì anh có thể nhận ra là hình ảnh Gabby, người vợ của anh, đang yếu ớt dựa lên thành giường bệnh. Dường như cô đang mất phương hướng, nhưng nụ cười khi cô trông thấy anh đã nói với anh tất cả những gì anh cần biết.
“Tôi biết hai người có rất nhiều chuyện phải hàn huyên...,” văng vẳng tiếng Gretchen nói tiếp.
“Gabby?” sau cùng, Travis thầm thì.
“Travis,” giọng cô khàn khàn. Gọng cô nghe lạ lùng, khàn đặc và lè nhè vì lâu không nói, nhưng dù sao, đó vẫn là giọng của Gabby. Travis chậm chạp tiến về phía giường, đôi mắt anh chẳng một lần rời cô, không hay biết sau lưng anh, Gretchen đã lùi lại sau và đóng cánh cửa lại.
“Gabby?” anh lặp lại, gần như hoài nghi. Trong giấc mơ của anh, hay những gì anh coi là một giấc mơ, anh quan sát cô đưa tay từ giường lên bụng, như thể điều đó đã lấy đi toàn bộ sức lực của cô.
Anh ngồi xuống giường bên cô.
“Anh đã ở đâu?” cô hỏi, những lời khản đặc nhưng dẫu sao vẫn chan chứa tình yêu, rõ ràng đã tràn trề sức sống. Thức giấc. “Em không biết anh đã ở đâu.”
“Giờ anh ở đây,” Travis nói, và tới đó anh kiệt sức, tiếng nức nở của anh bỗng trào ra vỡ òa. Anh ngả người về phía Gabby, khao khát được cô ôm lấy mình, và khi cảm thấy bàn tay cô trên lưng anh, anh thậm chí bắt đầu khóc to hơn. Anh không mơ. Gabby đang ôm anh; cô biết anh là ai và cô có ý nghĩa đến thế nào với anh. Là thật, tất cả những gì anh có thể nghĩ, lần này, là thật...
Vì Travis không muốn rời Gabby nửa bước, bố anh đã nhận việc thay anh ở phòng khám trong vài ngày tiếp theo. Chỉ tới gần đây anh mới trở lại với điều gì đó giống như một lịch làm việc toàn thời gian, trong những ngày nghỉ cuối tuần thế này, khi các cô con gái chạy nhảy và đùa giỡn trên sân, còn Gabby đang trong bếp, đôi khi anh thấy mình đang phải cố níu lấy từng chi tiết trong năm vừa qua. Ký ức của anh về những tháng ngày anh trải qua trong bệnh viện đã trở nên lờ mờ, mơ hồ, như thể khi ấy anh cũng chỉ tỉnh táo hơn Gabby đôi chút.
Gabby dã không qua khỏi cơn hôn mê mà không bị hậu quả gì, tất nhiên là vậy. Cô giảm rất nhiều cân, cơ bắp teo lại, sự tê cứng đeo bám gần như cả thân người bên trái của cô. Phải mất vài ngày cô mới có thể đứng thẳng mà không cần giúp đỡ. Các liệu pháp chữa trị thì dai dẳng đến phát cáu; thậm chí đến tận bây giờ, cô vẫn mất hai tiếng hàng ngày với bác sĩ vật lý trị liệu, và ban đầu, cô thường trở nên thất vọng khi không làm được những điều đơn giản mà trước đó cô đã từng cho là đương nhiên. Cô ghét dáng vẻ hốc hác của mình trong gương và đã hơn một lần than phiền rằng trong cô như mới mười lăm tuổi. Trong những lúc như thế, Travis luôn bảo cô rằng cô rất đẹp, anh chưa từng chắc chắn về điều gì hơn thế.
Christine và Lisa mất một thời gian mới thích nghi được. Vào buổi chiều khi Gabby tỉnh dậy, Travis đã nhờ Elliot Harris gọi điện cho mẹ anh để bà tới trường đón các cô bé. Một giờ sau, cả gia đình sum họp, nhưng khi bước vào phòng, dường như cả Christine lẫn Lisa đều không muốn lại gần mẹ chúng. Thay vào đó, chúng cứ bám riết lấy Travis và chỉ trả lời bằng độc một từ trước bất cứ câu gì Gabby hỏi. Đêm hôm đó, Gabby được chuyển về bệnh viện và Travis đưa các con về nhà, Christine đã hỏi liệu “Mẹ thực sự quay về, hay mẹ sẽ lại ngủ tiếp.” Mặc dù các bác sĩ đã nói rõ rằng họ hầu như khẳng định cô sẽ không hôn mê lại, song họ cũng không hoàn toàn loại trừ khả năng đó, ít nhất là trong thời điểm hiện tại. Những sợ hãi của Christine cũng phản ánh những sợ hãi của anh, bất cứ khi nào anh thấy Gabby ngủ hoặc chỉ đơn giản đang nghỉ ngơi sau những ca trị liệu mệt lử, dạ dày Travis lại thắt lại. Hơi thở của anh sẽ trở nên nông hơn, và anh sẽ lay cô khe khẽ, càng lúc càng hoang mang hơn nếu cô không mở mắt. Cuối cùng khi cô động đậy, anh không che giấu nổi sự khuây khỏa và biết ơn. Ban đầu Gabby chấp nhận những lo âu của anh - cô thừa nhận suy nghĩ đó cũng khiến cô sợ hãi - nhưng nó bắt đầu khiến cô phát điên. Tuần trước, khi trăng đã lên rất cao và lũ dế gáy râm ran, Travis bỗng đập vào cánh tay cô khi cô đang nằm cạnh anh. Mắt cô mở choàng và cô tập trung nhìn đồng hồ, nhận ra lúc đó mới chỉ hơn ba giờ sáng một chút. Một lát sau, cô ngồi dậy trên giường và chằm chằm nhìn anh.
“Anh phải thôi làm thế này đi! Em cần giấc ngủ của em. Một giấc ngủ không gián đoạn, một giấc ngủ bình thường, như bất kỳ ai khác trên thế giới! Em mệt lử đi rồi, anh không hiểu sao? Em từ chối sống từ nay đến hết đời khi biết rằng anh sẽ gọi em dậy mỗi tiếng đồng hồ!”
Đó chỉ mới tới mức là lời phê bình; thậm chí chưa được xếp vào một cuộc cãi vã, vì anh không còn có thời gian phản ứng lại trước khi cô quay lưng lại phía anh, tự lẩm bẩm một mình - nhưng nó khiến Travis cảm thấy... rất Gabby, khiến anh thở dài một tiếng nhẹ nhõm. Nếu cô không còn lo lắng sẽ hôn mê trở lại - và cô đã thề sẽ không hôn mê lại - thì anh biết anh cũng không nên lo lắng. Hoặc, ít nhất, anh có thể để cô yên giấc. Nếu thành thật với bản thân, anh cũng không chắc liệu có bao giờ nỗi sợ hãi đó hoàn toàn biến mất. Giờ đây, giữa đêm khuya, anh chỉ lắng nghe tiếng cô thở, và khi nhận ra những nhịp thở khác nhau, những khác biệt không xảy ra khi cô đang hôn mê, sau cùng anh mới có thể cuộn người ngủ lại.
Tất cả đều đang thích nghi, anh biết điều đó sẽ cần thời gian. Rất nhiều thời gian. Nhưng họ vẫn chưa nói tới việc anh đã bất chấp bản di chúc sống, và anh tự hỏi liệu có bao giờ họ nói tới chuyện đó. Anh vẫn chưa kể cho Gabby về những cuộc chuyện trò trong tưởng tượng giữa cô và anh khi cô còn nằm trong viện, cô cũng chẳng có gì để nói về cơn hôn mê. Cô chẳng nhớ bất cứ điều gì: không mùi vị, không âm thanh từ tivi, không cả những cái động chạm của anh. “Giống như thời gian đã... biến mất.”
Nhưng điều đó cũng tốt thôi. Cũng nên như vậy. Đằng sau, anh nghe tiếng cửa mở ra cọt kẹt và quay lại. Từ xa, anh có thể trông thấy Molly đang nằm trong bụi cỏ cao bên cạnh nhà; Moby, giờ đã trở thành một anh già, đang nằm trong góc. Travis mỉm cười khi Gabby bí mật quan sát bọn trẻ, nhận ra vẻ mặt mãn nguyện của cô. Khi Christine đẩy xích đu cho Lisa và cả hai cùng cười khanh khách, Gabby ngồi xuống ghế bập bênh bên cạnh Travis.
“Bữa trưa đã sẵn sàng,” cô nói. “Nhưng em nghĩ sẽ để chúng chơi thêm vài phút nữa. Chúng đang chơi vui quá.”
“Ừ, đúng thế. Trước đó, chúng làm anh mệt bã người.”
“Anh có nghĩ có lẽ lát nữa, khi Stephanie tới đây, tất cả chúng ta có thể tới công viên thủy sinh? Và có lẽ sẽ đi ăn pizza sau đó? Em thèm pizza đến chết mất thôi.”
Anh mỉm cười, nghĩ rằng mình có thể đắm chìm trong giây phút này mãi mãi. “Nghe tuyệt đấy. À phải rồi, nhắc anh mới nhớ. Anh quên không nói mẹ em đã gọi tới khi em đang trong buồng tắm.”
“Lát nữa em sẽ gọi lại cho bà. Và em phải gọi cho bên sửa máy bơm nhiệt(20) nữa. Tối qua phòng các con chẳng mát hơn chút nào.”
“Có khi anh sửa được đấy.”
“Em không nghĩ vậy. Lần trước khi anh cố sửa nó, chúng ta đã phải mua nguyên một cái mới. Anh nhớ chứ?”
“Anh nhớ là em đã không cho anh đủ thời gian.”
“Vâng, vâng,” cô trêu đùa. Cô nháy mắt với anh. “Anh muốn ăn ở ngoài này hay trong kia?”
Anh giờ vờ đắn đo câu hỏi, biết rằng điều đó thực sự không quan trọng. Ở đây hay trong nhà, họ đều bên nhau. Anh cùng với người phụ nữ và những đứa trẻ anh yêu, ai có thể yêu cầu hay đòi hỏi bất kỳ điều gì hơn thế? Mặt trời tỏa sáng rực rỡ, những bông hoa nở rộ, một ngày sẽ trôi qua với sự thoải mái thảnh thơi mà mới chỉ mùa đông năm ngoái thôi đã không thể nào tưởng tượng ra. Một ngày bình thường, một ngày như bao ngày khác. Nhưng trên hết thảy, đó là một ngày mà mọi thứ trong đó đều diễn ra đúng như cách chúng nên diễn ra.
1. SPCA (Society for the Prevention of Cruelty to Animals): Hội chống đối xử tàn tệ với động vật.
2. Delta Delta Delta ( DDD), còn gọi là Tri Delta, gọi tắt là Tri Delts: tổ chức dành cho nữ giới tại các trường đại học ở Mỹ ra đời từ năm 1888 và hiện là một trong những tổ chức phụ nữ lớn nhất thế giới.
3. Intracoastal Waterway là tuyến đường thủy dài 4.800 km chạy dọc bờ biển Đại Tây Dương và vịnh Mexico của Mỹ; một số đoạn tận dụng đường thủy tự nhiên, một số đoạn là các kênh đào. Tuyến đường này cho phép tàu thuyền đi dọc hết chiều dài 4.800 km ấy mà không phải chịu những nguy hiểm như khi trên biển khơi.
4. Nguyên văn “down east”: down east có thể dùng để chỉ nhiều vùng ở Mỹ, nhưng ở Bắc Carolina nó thường dùng để chỉ vùng phía Đông Beaufort, hạt Carteret. Dân địa phương ở đây đã dùng “down east” để tự chỉ mình trong nhiều thập kỷ.
5. Tỷ phú người Mỹ trong lĩnh vực kinh donah bất động sản.
6. Nhà Clampetts là một gia đình bảo thủ trong series The Bevely Hillbillies; còn nhà Brady Bunch là một gia đình “rổ rá cạp lại” trong series Brady Bunch. Cả hai series này đều là những bộ sitcom truyền hình đình đám ở Mỹ.
7. “Hang” trong tiếng Anh là “liar”, gần âm với Laird.
8. “Thảm” trong tiếng Anh là “mat”, đồng âm với Matt.
9. Back Sound: một vùng nước nông lớn ở phía Đông bang Bắc Carolina - phía Nam là Bãi Shackleford; phía Đông là Bãi Core và đảoPortsmouth; phía Tây là Beaufort và thành phố Morehead.
10. Phiên bản gốc ở Mỹ của chương trình Ô cửa bí mật đang phát trên VTV.
11. Thủ phủ bang Bắc Carolina.
12. Little League Baseball: tên một tổ chức phi lợi nhuận ở Mỹ, chuyên tổ chức các giải bóng chày và bóng mềm cho trẻ em.
13. Giải vô địch Bóng Bầu dục Quốc gia Mỹ. Trong nhiều năm, giải Super Bowl đã trở thành chương trình được xem nhiều nhất trên truyền hình Mỹ.
14. Lồng tiếng cho nhân vật Shrek trong bộ phim cùng tên là Mike Myers, một danh hài người Scotland.
15. Quần áo dành cho tù nhân ở Mỹ.
16. Các nhân vật trong Rocky, một bộ phim Mỹ về quyền Anh. Rocky Balboa là võ sĩ vô danh; còn Apollo Creed là nhà vô địch quyền Anh hạng nặng.
17. Baby monitor: một loại thiết bị thu âm hoặc hình ảnh trực tiếp giúp cha mẹ biết con họ đang làm gì hi họ không có bên cạnh.
18. Maxon Dixon: đường biên giới phân chia miền Bắc và miền Nam Hoa Kỳ do Charles Mason and Jerremiah Dixon đo đạc trong những năm 1763-1767 nhằm giải quyết tranh chấp biên giới trong Nội chiến Mỹ giữa các bang vẫn duy trì chế độ nô lệ và các bang tự do ở miền Bắc.
19. Living will: một loại di chúc của Mỹ, cho phép người lập di chúc nêu lên những nguyện vọng về phương pháp điều trị y khoa trong trường hợp họ đã quá ốm, không thể đưa ra quyết định được nữa, đặc biệt khi họ muốn bác sĩ ngừng chữa trị và để họ được ra đi.
20. Để sưởi ấm hoặc làm mát một tòa nhà.
Hết
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...