“Chưa, như thế này thì chưa. Nhưng...”
Khi cô nói khẽ dần rồi bặt hẳn, Travis với sang và nắm lấy tay cô.
“Nào em,” anh nói. “Là anh đây. Hãy nói với anh đi nào.”
Cô vẫn tập trung chằm chằm nhìn vào mặt bàn, nhưng giọng cô đã bình tĩnh khi cô thuật lại tiền sử những hành động của Melton. Khi kể xong, mặt anh đanh lại với cơn thịnh nộ gần như không thể kìm nén.
“Anh sẽ lo chuyện này,” anh nói, không chờ phản ứng của cô.
Mất hai cuộc điện thoại để tìm ra nơi Adrian Melton đang ở. Trong vòng vài phút, xe của anh phanh kít lại trước nhà Melton. Ngón tay nhấn liên hồi trên chuông cửa đưa tay bác sĩ ra cửa trước. Melton hầu như còn chưa kịp ghi nhận cơn bối rối của chính mình khi nắm đấm của Travis đã giáng thẳng vào quai hàm gã. Người phụ nữ mà Travis đoán là vợ của Melton xuất hiện đúng tích tắc Melton ngã xuống sàn, tiếng thét của bà ta lập tức vang vọng trong hành lang.
Khi cảnh sát đến nhà, Travis bị bắt giữ lần đầu tiên và duy nhất trong đời. Anh bị giải tới đồn, ở đó hầu hết các sĩ quan đều đối xử với anh bằng vẻ kính cẩn rất hài hước. Tất cả đều đã từng mang thú nuôi tới phòng khám, và rõ ràng hoài nghi trước lời khẳng định của bà Melton rằng “thằng điên nào đó đã tấn công chồng tôi!”
Khi Travis gọi cho em gái anh, Stephanie xuất hiện trông có vẻ ít lo lắng hơn là buồn cười. Cô tìm thấy Travis đang ngồi trong một xà lim đơn, chuyện trò mê mải với ông cảnh sát trưởng; khi tới gần, cô nhận ra họ đang nói về con mèo của cảnh sát trưởng, có vẻ như nó đang bị một chứng bệnh dạng như phát ban, và không thể ngừng gãi sột soạt.
“Chán ghê cơ,” cô nói.
“Chán gì?”
“Em cứ nghĩ sẽ thấy anh trong bộ quần áo màu cam(15).”
“Xin lỗi vì đã khiến em thất vọng.”
“Có lẽ vẫn còn thời gian. Ông nghĩ sao, ngài cảnh sát trưởng?”
Ngài cảnh sát trưởng chẳng biết nghĩ sao, một lúc sau, ông đành để họ lại một mình.
“Cảm ơn về điều đó,” Travis nói khi ông cảnh sát trưởng đi khỏi. “Rõ ràng ông ấy đang cân nhắc gợi ý của em.”
“Đừng trách em. Em đâu phải kẻ tấn công các bác sĩ trên ngưỡng cửa.”
“Hắn ta đáng bị như vậy.”
“Em chắc chắn là hắn đáng như vậy lắm.”
Travis mỉm cười. “Cảm ơn em vì đã đến.”
“Em sẽ không để lỡ dịp này đâu, Rocky ạ. Hay anh thích em gọi anh là Apollo Creed hơn?(16)“
“Em giải quyết việc đưa anh ra khỏi đây thay vì cố nghĩ ra mấy cái biệt danh đó được không?”
“Nghĩ ra biệt danh vui hơn mà.”
“Lẽ ra anh nên gọi cho bố.”
“Nhưng anh đã không gọi. Anh gọi cho em. Tin em đi, anh đã lựa chọn đúng đắn. Giờ hãy để em đi nói chuyện với ông cảnh sát trưởng, được chứ?”
Một lát sau, khi Stephanie đang nói chuyện với cảnh sát trưởng, Adrian Melton vào thăm Travis. Gã chưa từng gặp bác sĩ thú y vùng này và muốn biết lý do cuộc hành hung của Travis. Mặc dù anh chưa bao giờ kể với Gabby anh đã nói gì, Adrian Melton ngay lập tức rút lại lời buộc tội, bất chấp sự phản đối của bà vợ Melton. Trong vòng một vài ngày sau, Travis nghe thiên hạ đồn thổi rằng bác sĩ Melton và vợ đang phải gặp người tư vấn hôn nhân. Dẫu vậy, căng thẳng nơi làm việc vẫn còn nguyên đó với Gabby, rồi vài tuần sau, bác sĩ Furman đã gọi Gabby vào văn phòng, gợi ý cô nên cân nhắc tìm một nơi làm việc khác.
“Tôi biết điều đó không công bằng,” ông nói. “Và nếu cô ở lại, dù thế nào chúng tôi cũng sẽ thu xếp ổn thỏa. Nhưng tôi đã sáu mươi tư tuổi rồi, và tôi định sẽ nghỉ hưu vào năm sau. Bác sĩ Melton đã đồng ý mua cổ phần của tôi, nên dù thế nào, tôi nghi ngờ chuyện ông ta sẽ muốn giữ cô lại, hoặc cô muốn làm việc cho ông ta. Tôi nghĩ sẽ dễ dàng hơn và thuận lợi hơn cho cô nếu cô dành thời gian tìm một chỗ cô cảm thấy thoải mái và bỏ lại đằng sau chuyện khủng khiếp này.” Ông nhún vai. “Tôi không nói hành vi của ông ta không đáng bị chỉ trích: rõ ràng là đáng. Nhưng ngay cả khi ông ta là một kẻ chẳng ra gì, ông ta vẫn là bác sĩ nhi giỏi nhất tôi từng phỏng vấn, và là người duy nhất sẵn sàng làm việc ở một thị trấn nhỏ thế này. Nếu cô tự nguyện ra đi, tôi sẽ viết một bức thư giới thiệu tốt đẹp nhất cô có thể tưởng tượng. Cô sẽ có thể kiếm được việc ở bất kỳ đâu. Tôi đảm bảo như vậy.”
Cô nhận ra bản chất chuyện này là một mánh khóe thao túng, trong khi những cảm xúc của cô đang gào thét đòi báo thù nhân danh cô, và nhân danh các phụ nữ bị quấy rối tình dục ở khắp mọi nơi, thì phần thực tế trong cô còn lên tiếng mạnh mẽ hơn thê. Cuối cùng, cô đã chuyển đi nhận việc tại khoa cấp cứu bệnh viện.
Chỉ còn một vấn đề duy nhất: Khi Gabby phát hiện điều Travis làm, cô đã nổi cơn tam bành. Đó là cuộc tranh cãi đầu tiên kể từ khi họ là một đôi, Travis vẫn còn nhớ cơn giận dữ của cô khi cô gặng hỏi liệu anh có tin cô đã “đủ trưởng thành để tự giải quyết những rắc rối của mình” và sao anh lại hành động “như thể cô là con ngốc nào đó trong cảnh cùng quẫn.” Travis không buồn cố tự thanh minh. Trong tâm can, anh biết nếu làm lại anh cũng sẽ làm y hệt như vậy ngay tức khắc, nhưng anh khôn ngoan chẳng hé răng nửa lời.
Bất kể tất cả những giận dữ của Gabby, Travis nghi ngờ phần nào trong cô cảm phục những gì anh làm. Logic hành động đơn giản - Hắn ta làm phiền em? Để đó anh xử lý - đã làm cô thích thú, dù cho cô có vẻ giận dữ đến đâu, bởi dường như chuyện chăn gối đêm đó của họ mặn nồng hơn thường lệ.
Hoặc ít nhất, đó là những gì Travis nhớ về nó. Buổi tối có chính xác mở ra như vậy? Anh không dám chắc. Đến giờ này, dường như điều duy nhất anh biết chắc, đó là anh sẽ không đánh đổi những năm tháng của mình với Gabby vì bất cứ thứ gì. Không có cô, cuộc sống của anh chẳng còn mấy ý nghĩa. Anh là một anh chồng tỉnh lẻ với một công việc tỉnh lẻ, những mối quan tâm của anh cũng chẳng khác gì người khác. Anh không phải lãnh đạo, cũng không phải cấp dưới, anh cũng không phải người nào đó được người ta tưởng nhớ sau khi anh qua đời. Anh là một người đàn ông rất đỗi bình thường chỉ với một ngoại lệ: Anh đã yêu một người phụ nữ tên Gabby, tình yêu của anh càng trở nên sâu đậm trong những năm tháng vợ chồng. Nhưng định mệnh đã âm mưu phá hoại tất cả, và giờ anh mất hàng chuỗi ngày dài tự hỏi liệu có thể sửa chữa mọi chuyện giữa họ chỉ bằng khả năng của một con người hay không.
Chương 16
“Travis à,” một giọng nói cất lên từ cửa ra vào. “Tôi biết là sẽ tìm thấy anh ở đây mà.”
Bác sĩ Stallings đã ngoài ba mươi tuổi và thường đáo qua mỗi buổi sáng. Nhiều năm qua, anh và vợ đã trở thành những người bạn tốt của Travis và Gabby, mùa hè năm ngoái cả bốn người họ đã tới Orlando cùng lũ trẻ. “Thêm hoa nữa à?”
Travis gật đầu, cảm thấy lưng mình cứng đờ.
Stallings do dự bên ngưỡng cửa căn phòng. “Tôi cho là anh vẫn chưa gặp cô ấy.”
“Gần như vậy. Tôi thấy cô ấy trước đó, nhưng...”
Khi anh nói khẽ dần rồi bặt hẳn, Stallings nói nốt giùm anh. “Anh cần chút thời gian ở một mình?” Anh bước vào và ngồi xuống bên Travis. “Tôi đoán điều đó sẽ giúp anh bình thường trở lại.”
“Tôi không thấy bình thường. Không thấy có gì trong chuyện này bình thường hết cả.”
“Ừ, tôi cũng đoán vậy.”
Travis với tay chạm vào những bông hoa lần nữa, cố gắng né tránh những suy nghĩ của mình, biết rằng có những điều anh không muốn nói tới.
“Tôi không biết phải làm sao,” sau cùng anh thừa nhận.
Stallings đặt tay lên vai Travis. “Tôi ước mình biết phải nói gì với anh.”
Travis quay về phía anh. “Nếu là anh anh sẽ làm gì?”
Stallings lặng thinh một lúc lâu. “Nếu tôi ở vị trí của anh ư?” Anh mím môi lại, nghĩ ngợi câu hỏi, trông anh già đi trước tuổi. “Thú thật, tôi cũng không biết nữa.”
Travis gật đầu. Anh không trông chờ Stallings trả lời. “Tôi chỉ muốn làm điều đúng.”
Stallings chắp tay. “Chẳng phải chúng ta đều vậy sao.”
Khi Stallings đi khỏi, Travis chuyển tư thế, ý thức rõ về những giấy tờ trong túi mình. Anh từng giữ chúng ở bàn làm việc, nhưng giờ anh cảm thấy không thể bắt đầu cuộc sống hàng ngày mà không có chúng bên cạnh, dẫu cho chúng cảnh báo sự kết thúc của tất cả những gì anh yêu quý.
Vị luật sư lớn tuổi đã phác thảo chúng dường như không thấy có gì bất thường trong yêu cầu của họ. Văn phòng luật sư gia đình nhỏ bé của ông nằm ở thành phố Morehead, đủ gần bệnh viện nơi Gabby làm việc để có thể trông thấy từ cửa sổ trên những bức tường ốp ván của phòng hội nghị. Cuộc gặp không kéo dài lâu; vị luật sư giải thích những điều luật thích hợp và đưa ra một số kinh nghiệm vặt; lát sau, Travis chỉ còn nhớ được cái cách bắt tay hờ hững, gần như yếu ớt ông ta trên lối anh ra cửa.
Có vẻ lạ khi những giấy tờ này có thể báo hiệu hồi kết chính thức cho cuộc hôn nhân của họ. Chúng là những câu từ đã được soạn thành luật, không hơn, nhưng quyền hạn được ban cho chúng lúc này có vẻ gần như tàn ác. Anh tự hỏi, đâu là tính nhân văn trong những cụm từ ấy? Đâu là cảm xúc chi phối trong những điều luật này? Đâu là sự thừa nhận một cuộc sống họ đã cùng trải qua, cho đến khi mọi chuyện trở nên tồi tệ. Và nhân danh Chúa, tại sao ngay từ đầu Gabby lại muốn thảo sẵn những giấy tờ này?
Mọi chuyện không nên kết thúc thế này, và đó chắc chắn không phải kết cục mà anh lường trước khi ngỏ lời cầu hôn Gabby. Anh còn nhớ chuyến đi của họ tới New York vào mùa thu; trong khi Gabby đang ở spa của khách sạn để mát xa cơ thể và chăm sóc bàn chân, anh đã lẻn tới phố West 47, tại đó anh mua một chiếc nhẫn đính hôn. Sau bữa tối tại nhà hàng Tavern on the Green, họ bắt một chuyến xe ngựa qua Công viên Trung tâm. Và dưới bầu trời mây phủ, mặt trăng tròn đầy, anh đã hỏi cưới cô làm vợ, rồi choáng ngợp trong hạnh phúc bởi cách cô nồng nàn quấn tay quanh người anh, thì thầm lặp đi lặp lại rằng cô đồng ý.
Và rồi? Cuộc sống, anh cho là vậy. Giữa những ca trực ở bệnh viện, cô đã lên kế hoạch cho đám cưới: Bất chấp những cảnh báo của bạn bè rằng anh chỉ nên bảo gì nghe nấy, Travis vẫn thích thú tham gia vào quá trình chuẩn bị. Anh giúp cô lựa chọn thiếp mời, hoa và bánh cưới; anh ngồi bên cạnh khi cô giở qua những quyển album tại cách ảnh viện trên phố, hy vọng tìm ra một thợ chụp ảnh thích hợp để ghi lại những kỷ niệm về ngày này. Cuối cùng, họ đã mời tám mươi người tới một nhà thờ nhỏ, dãi dầu mưa nắng ở đảo Cumberland vào mùa xuân năm 1997; họ hưởng tuần trăng mật tại Cancún, một lựa chọn cuối cùng đã thỏa mãn cả hai. Gabby muốn một nơi thư giãn, nên họ đã dành hàng giờ nằm dưới ánh mặt trời và ăn uống ngon lành; anh thì muốn một nơi phiêu lưu hơn một chút, thế là cô học cách lặn với bình dưỡng khí và cùng anh đi du ngoạn một ngày, tới thăm khu phế tích Aztec gần đó.
Sự nhường nhịn lẫn nhau trong tuần trăng mật đã tạo âm hưởng cho đám cưới của họ. Ngôi nhà mơ ước được xây dựng không mấy khó khăn và hoàn thành vào kỷ niệm ngày cưới đầu tiên; khi Gabby lướt ngón tay trên miệng cốc sâm banh và băn khoăn thành tiếng rằng họ có nên bắt đầu có con, anh chợt thấy ý kiến đó không chỉ hợp lý, mà còn là điều anh rất đỗi mong muốn. Vài tháng sau cô có mang, quá trình mang thai không có gì rắc rối, ngay cả khó chịu cũng không. Sau khi Christine ra đời, Gabby đã giảm bớt giờ làm việc ở bệnh viện và họ vạch ra một thời gian biểu để đảm bảo luôn có một trong hai người ở nhà với em bé. Khi Lisa ra đời kế tiếp hai năm sau đó, hai người chẳng ai nhận ra nhiều thay đổi ngoại trừ có thêm những niềm hân hoan và hứng khởi dưới mái nhà.
Các dịp lễ Giáng sinh và sinh nhật đến rồi qua, bọn trẻ mặc chật bộ quần áo này chỉ để được mua bộ khác thay thế. Họ đi nghỉ như một gia đình, nhưng Travis và Gabby vẫn dành những khoảng thời gian chỉ hai người với nhau, giữ cho ngọn lửa lãng mạn không tàn lụi. Max cuối cùng đã nghỉ hưu, để Travis tiếp quản phòng khám; Gabby giảm thêm giờ làm để có đủ thời gian làm tình nguyện ở trường các con. Vào ngày kỷ niệm năm thứ tư, họ đi Ý và Hy Lạp; năm thứ sáu, họ du lịch một tuần trên thảo nguyên hoang dã ở châu Phi. Năm thứ bảy, Travis xây cho Gabby một vọng lâu ở sân sau, ở đó cô có thể ngồi đọc sách và ngắm nhìn trò chơi của ánh sáng phản chiếu trên mặt nước. Anh dạy các con chơi lướt ván và trượt tuyết khi chúng lên năm tuổi; mùa thu, anh huấn luyện đội bóng đá của chúng. Vào một số dịp hiếm hoi khi anh ngừng lại để suy ngẫm về cuộc đời, anh tự hỏi liệu có ai trên thế giới này may mắn được như anh.
Nhưng không phải mọi chuyện lúc nào cũng hoàn hảo. Nhiều năm trước, anh và Gabby đã trải qua một biến cố lớn. Lý do thì giờ đã mờ nhạt, phai dần theo những bước đi của thời gian, nhưng dẫu vậy, chưa một thời điểm nào anh thực sự nghĩ cuộc hôn nhân của họ đã đến bên bờ vực. Về phần cô, anh đoán, cũng vậy. Hôn nhân, cả hai đều nhìn nhận một cách đầy bản năng, là hứa hẹn và vị tha. Là sự cân bằng, khi một người bổ sung cho người còn lại. Anh và Gabby đã từng có điều đó trong nhiều năm, vì thế anh hy vọng họ sẽ lại có thể có nó. Nhưng ngay lúc này đây, họ không có, nhận thức này khiến anh ao ước mình có thể làm được một điều gì đó, bất cứ điều gì, để khôi phục lại sự cân bằng tinh tế giữa hai người.
Travis biết anh không thể trì hoãn gặp cô thêm nữa, và anh đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Cầm bó hoa, anh bắt đầu đi dọc hành lang, cảm giác như hồn lìa khỏi xác. Anh trông thấy một vài y tá liếc nhìn mình và dù rằng đôi lúc anh tự hỏi họ đang nghĩ gì, nhưng anh không bao giờ dừng lại để hỏi họ. Thay vào đó, anh tập trung tinh thần. Đôi chân anh lảo đảo, anh có thể cảm thấy cơn nhức dầu đang tới, một cơn đau âm ỉ ở sau đầu. Nếu anh cho phép mình nhắm mắt lại, anh có cảm giác chắc chắn mình sẽ phải ngủ đến hàng giờ. Anh đang suy sụp, điều đó cũng lố bịch chẳng kém gì một quả bóng golf hình vuông. Anh đã bốn mươi ba, không phải hai mươi hai, và mặc dù gần đây anh chẳng ăn uống gì nhiều, song anh vẫn ép mình tới phòng tập. “Con vẫn phải tập thể dục,” bố anh giục giã. “Ít nhất là vì sự minh mẫn của con.” Anh đã sụt tám cân trong mười hai tuần qua, khi soi gương anh có thể thấy hai má mình hóp lại. Anh với đến cánh cửa và đẩy vào, gượng cười khi nhìn thấy cô.
“Chào em yêu.”
Anh chờ cô động đậy, chờ bất cứ phản ứng nào cho anh biết mọi chuyện bằng các nào đó đang trở lại bình thường. Nhưng chẳng có gì xảy ra, và trong sự yên lặng lê thê, trống rỗng sau đó, Travis cảm thấy tim mình đau đớn cũng như nỗi đau thể xác anh đang cảm thấy. Lần nào cũng thế này. Bước vào căn phòng, anh tiếp tục chằm chằm nhìn Gabby như để cố khắc ghi từng đường nét của cô, dẫu rằng anh biết đó là một hành động vô nghĩa. Anh biết rõ khuôn mặt cô hơn khuôn mặt của chính mình.
Ở cửa sổ, anh mở tấm màn che, để ánh sáng mặt trời tràn xuống sàn nhà. Khung cảnh ở đây chẳng có gì; căn phòng nhìn xuống đường cao tốc nhỏ cắt đôi thị trấn. Hàng xe chậm chạp trôi qua những cửa hàng ăn nhanh, và anh có thể tưởng tượng ra các tài xế đang nghe nhạc trên radio, đang trò chuyện trên điện thoại, hoặc tới chỗ làm, hoặc đi giao hàng, hoặc chạy việc lặt vặt, hoặc đi thăm bạn bè. Người bận rộn với cuộc sống thường nhật, kẻ lạc đi trong những lo toan riêng, tất cả đều không hay biết chuyện gì đang xảy ra trong bệnh viện. Anh từng là một người trong số họ, nhưng anh cảm thấy cuộc sống trước kia của anh giờ đã chẳng còn.
Anh đặt bó hoa lên bậu cửa sổ, ước gì mình đã nhớ mang theo một lọ hoa. Anh đã chọn một bó mùa đông, màu tím và cam rực rỡ dường như câm lặng, gần như thê lương. Người bán hoa tự coi mình gần như một kiểu nghệ sĩ, và trong suốt ngần ấy năm mua hoa ở chỗ ông, anh chưa bao giờ phải thất vọng. Người bán hoa là một người tốt, một người đàn ông tử tế, và đôi lúc Travis tự hỏi ông biết bao nhiêu điều về cuộc hôn nhân giữa họ. Nhiều năm qua, ngày kỷ niệm và sinh nhật nào Travis cũng mua hoa, anh mua hoa khi muốn nói lời xin lỗi hoặc chỉ đột nhiên muốn mua, như một điều bất ngờ lãng mạn. Và lần nào anh cũng đọc cho người bán hoa những gì anh muốn viết trong tấm thiệp. Đôi khi anh trích lời một bài thơ tìm thấy trong cuốn sách, hoặc do chính anh viết; những lần khác, anh đi thẳng vào vấn đề, đơn giản là nói lên những gì trong tâm trí anh. Gabby giữ những tấm thiệp đó thành một bó nhỏ buộc bằng dây cao su. Chúng tựa như lịch sử về cuộc sống bên nhau của hai người, được diễn tả trong những mẩu chuyện nho nhỏ.
Anh ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường và chạm vào tay cô. Da cô tái nhợt, gần như sáp, người cô dường như nhỏ lại, và anh nhận thấy những nếp nhăn chằng chịt đã bắt đầu hình thành nơi đuôi mắt cô. Dẫu vậy, với anh cô vẫn thật nổi bật như lần đầu anh gặp. Anh kinh ngạc khi đã biết cô được gần mười một năm. Không phải vì khoảng thời gian ấy dài một cách lạ thường, mà bởi những năm tháng đó dường như chứa đựng nhiều... sự sống hơn ba mươi hai năm đầu đời không có cô. Đó là lý do anh đến bệnh viện hôm nay; đó là lý do anh đến đây mỗi ngày. Anh không có lựa chọn nào khác. Không phải vì đó là điều được mong đợi - mặc dù đúng là vậy - mà bởi anh không tưởng tượng được mình lại ở một nơi nào khác. Họ dành nhiều giờ bên nhau, nhưng ban đêm họ buộc phải xa cách. Trớ trêu thay, cũng chẳng còn lựa chọn nào khác, bởi anh không thể bỏ các con một mình. Những ngày này, định mệnh đã thay anh quyết định tất cả.
Ngoại trừ một điều.
Tám mươi tư ngày đã trôi qua kể từ vụ tai nạn, và giờ anh phải đưa ra lựa chọn. Anh vẫn chẳng có chút khái niệm phải làm gì. Gần đây, anh đã tìm câu trả lời trong Kinh Thánh, trong những cuốn sách của Thánh Aquinas và Thánh Augustine. Thỉnh thoảng anh tìm thấy một đoạn ấn tượng, song cũng chẳng có gì hơn; thường thì anh sẽ gấp cuốn sách lại và thấy mình đăm đăm nhìn ra cửa sổ, đầu óc trống rỗng, tựa như anh hy vọng sẽ tìm thấy lời giải ở đâu đó trên bầu trời.
Hiếm khi anh lái xe thẳng từ bệnh viện về nhà. Thay vì thế, anh sẽ lái xe qua cầu và đi bộ trên những dải cát của thị trấn Atlantic Beach. Anh thường cởi giày, lắng nghe sóng xô dọc bờ biển. Anh biết các con cũng buồn như mình, và sau những lúc thăm nom ở bệnh viện, anh cần có thời gian để trấn tĩnh lại. Thật bất công khi bắt chúng chịu đựng nỗi đau khổ của anh. Anh cần các con vì chúng mang đến cho anh một lối thoát. Khi chú tâm tới chúng, anh quên đi bản thân mình, niềm vui của chúng vẫn hoàn toàn giữ được sự trong trẻo thuần khiết. Chúng vẫn có khả năng đắm chìm trong những trò chơi, những tiếng cười rúc rích khiến anh vừa muốn cười mà lại vừa muốn khóc. Đôi khi quan sát chúng anh ngạc nhiên khi thấy chúng giống mẹ chúng biết bao.
Lúc nào chúng cũng hỏi về mẹ, nhưng thường thì anh không biết phải kể cho chúng thế nào. Chúng cũng đã đủ khôn lớn để hiểu rằng mẹ không khỏe nên phải nằm trong viện; chúng hiểu rằng khi chúng đến thăm, mẹ dường như đang ngủ. Nhưng anh không thể bắt mình kể cho chúng sự thật về tình trạng của cô. Thay vào đó, anh sẽ thu mình trên chiếc sofa cùng chúng và kể lại cho hai đứa nghe Gabby đã sung sướng thế nào khi cô mang thai chúng, hoặc nhắc chúng về khoảng thời gian cả gia đình chơi đùa dưới cơn mưa lắc rắc suốt buổi chiều. Chúng sẽ giở qua những trang album mà Gabby đã sắp xếp cẩn thận. Cô rất cổ điển trong chuyện này, những bức ảnh luôn mang đến những nụ cười trên khuôn mặt họ. Travis sẽ kể những câu chuyện liên quan đến từng bức, và khi đắm đuối nhìn khuôn mặt rạng rỡ của Gabby trong những bức ảnh đó, cổ họng anh thắt lại khi biết rằng anh chưa từng gặp ai xinh đẹp hơn cô.
Để thoát khỏi cơn buồn bã tràn ngập tâm hồn trong những giây phút ấy, đôi khi anh sẽ ngước mắt nhìn lên khỏi quyển album và chú tâm vào tấm ảnh lớn lồng trong khung kính chụp cả gia đình bên bờ biển mùa hè trước. Cả bốn người đều mặc quần kaki màu be và sơ mi cài cúc màu trắng, và họ được xếp ngồi vào giữa một đụn cỏ. Đó là kiểu chụp chân dung gia đình phổ biến ở Beaufort, nhưng không hiểu sao đối với anh nó hoàn toàn đặc biệt. Không phải vì đó là gia đình của anh, mà vì anh chắc chắn ngay cả một người lạ cũng sẽ thấy chứa chan hy vọng và lạc quan khi nhìn hình ảnh đó, bởi những người trong ảnh có vẻ điển hình cho một gia đình hạnh phúc.
Lát sau, khi các con đã lên giường đi ngủ, anh sẽ cất những cuốn album đi. Cùng các con xem ảnh và kể những câu chuyện để cố gắng giữ tinh thần cho chúng là một chuyện, nhưng chăm chăm nhìn vào đó một mình, lại là một chuyện khác. Anh không thể làm vậy. Thay vào đó, anh thường ngồi một mình trên chiếc sofa, để nỗi buồn anh cảm thấy trong mình đè nặng. Thỉnh thoảng Stephanie gọi điện. Cuộc đối thoại giữa họ vẫn đầy ắp những lời bông đùa như thường lệ, song cùng lúc ấy, câu chuyện dù thế nào vẫn thật gò bó, vì anh biết cô muốn anh hãy tự tha thứ cho mình. Bất chấp những lời nhận xét suồng sã và chọc ghẹo đôi lúc của cô, anh biết cô đang thực sự muốn nói gì: rằng không ai trách cứ anh, rằng đó không phải lỗi của anh. Rằng cô và những người khác lo lắng cho anh. Để chặn đầu những lời an ủi của cô, anh luôn nói anh vẫn ổn cả, ngay cả khi không phải vậy, vì sự thật là điều gì đó anh biết cô sẽ không muốn nghe: rằng anh không chỉ nghi ngờ mình có thể bình thường trở lại, mà thậm chí còn không biết chắc mình cofnms được lại như trước nữa không.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...