Khu chữ Thiên trong thiên lao là phòng giam được canh gác nghiêm ngặt nhất, nhưng canh gác nghiêm ngặt không có nghĩa là điều kiện trong này cũng khắc nghiệt nhất, ngược lại phòng giam này còn có thể coi là rộng rãi, sạch sẽ, chỉ là tường dày hơn những phòng giam khác, lưới sắt cũng nhiều hơn mấy lớp mà thôi.
Hạ Giang ngồi dựa vào một góc phòng giam, nhắm mắt hồi tưởng lại cả quá trình thất bại của mình.
Hắn lăn lộn hàng chục năm trong quan trường, dựa vào suy nghĩ chu toàn và phong cách làm việc cay độc, hắn tha hồ ngang ngược, hống hách mà chưa bao giờ gặp thảm cảnh như thế.
Lúc đầu, hắn chỉ bất ngờ vì bị đồ đệ phản bội, nhưng bây giờ, Hoàng đế Đại Lương không tin tưởng vào sự phản bội này, hắn lại cho rằng đây là mưu kế của một cao nhân.
Sự tín nhiệm của Hoàng đế Đại Lương đối với Huyền Kính ti lúc này đã hoàn toàn biến mất, trong cơn tức giận khó nguôi, ông ta thậm chí còn không muốn nhìn thấy Hạ Giang, chỉ sai Mông Chí phụng chỉ tới, hỏi vị nguyên thủ tôn nhân này có chịu nhận tội hay không.
Mặc dù lần nào tới cũng là câu hỏi này, nhưng dù Hạ Giang có chịu nhận tội thì hắn cũng không thể nhận được, bởi vì hắn hoàn toàn không thể giao Vệ Tranh ra.
Huống hồ còn cả tội danh mưu hại hoàng tử, có nhận tội cũng chỉ có đường chết.
Một khi dính dáng đến sự uy nghiêm của vương quyền, thủ đoạn của Hoàng đế Đại Lương tàn nhẫn thế nào, người khác có thể không rõ nhưng hắn thì cực kì rõ ràng.
Trong bầu không khí ẩm ướt của phòng giam, Hạ Giang cắn răng nghĩ đến gã thanh niên trông thì yếu ớt đến mức chỉ khẽ chạm vào là vỡ nhưng thực ra lại mạnh mẽ đến mức khiến người ta phải sợ hãi kia.
Lần đầu tiên nghe thấy cái tên Tô Triết, hắn không hề chú ý, cho rằng đó chẳng qua chỉ là một kẻ có dã tâm, hi vọng có thể chuyển chiến từ giang hồ vào triều đình, chưa chắc đã có bao nhiêu sức mạnh. Quan trọng hơn là khi đó hắn quả thật không có bao nhiêu hứng thú với cuộc đấu đá giành quyền kế vị, Thái tử và Dự vương ai thắng ai thua hắn đều không quan tâm, Huyền Kính ti vĩnh viễn là Huyền Kính ti, hắn vốn không cần lo lắng.
Nhưng cục diện sau đó lại đột ngột thay đổi. Tĩnh vương đột nhiên trỗi dậy, ngày càng mạnh, Hạ Giang có cảm giác bị đe dọa, từ đó hắn mới bắt đầu nghiêm túc ứng phó với cục diện hỗn loạn này.
Nhưng điều hắn tuyệt đối không nghĩ tới là, chỉ vì coi thường một người giang hồ ẩn thân sau màn mà hắn đã thua ngay từ chiêu đầu, đánh mất thắng lợi tưởng như vẫn nắm chắc trong lòng bàn tay, suy bại đến cục diện thê thảm thế này.
Bây giờ Hạ Giang không còn nghĩ đến việc làm thế nào để đạp đổ Tĩnh vương nữa. Hắn đang nghĩ làm thế nào để sống, đặc biệt là làm thế nào để sống sau khi hắn đã dâng hai bản sớ lên mà không nhận được chút thông tin hồi âm.
Lúc này tiếng khóa sắt bên ngoài phòng giam vang lên. Cửa phòng giam được mở ra, có điều Hạ Giang không hề có ý nghĩ thừa cơ chạy trốn, bởi vì người dám mở cửa tùy tiện như vậy nhất định chỉ có Mông Chí.
Mông Chí, người xếp hạng thứ hai bảng cao thủ Lang Gia, đệ nhất cao thủ Đại Lương.
Đại thống lĩnh cấm quân cầm giấy và bút, mực mới đến, hiển nhiên điều này có nghĩa Hoàng đế hoàn toàn không hài lòng với lời khai của nghi phạm.
"Hạ Giang, sự kiên nhẫn của bệ hạ là có hạn, nếu như đến bây giờ ngươi còn không khai nhận tội lỗi thì bệ hạ chỉ có thể xử phạt nặng." Hai tay khoanh trước ngực, Mông Chí lạnh lùng nói.
"Đã là tội chết thì còn có thể nặng đến đâu nữa?" Hạ Giang chống tay vào tường đá, đứng lên. "Mông đại thống lĩnh, những nội dung trong sớ đều là sự thật, vì sao bệ hạ lại không tin?"
Mông Chí nói, mặt không biểu cảm: "Ngươi tố cáo Mai Trường Tô là người cũ của Kỳ vương, có căn cứ gì không?"
"Chính hắn thừa nhận..."
"Nếu ngươi là người cũ của Kỳ vương thì ngươi có tự thừa nhận không? Hơn nữa vô duyên vô cớ, vì sao hắn phải chủ động thừa nhận với ngươi rằng hắn là người cũ của Kỳ vương? Mai Trường Tô có giống một kẻ ngu ngốc tự tìm tội chết không?" Mông Chí cười lạnh, nói. "Muốn bệ hạ tin tưởng thì không được nói lung tung, ngươi hãy nói sự thật đi, chẳng hạn như giao Vệ Tranh ra đây."
"Vệ Tranh không ở trong tay ta, ta giao ra thế nào được?'
"Không giao nghĩa là không nhận tội?"
Cuộc thẩm vấn lại rơi vào vòng luẩn quẩn như mấy lần trước, Hạ Giang cảm thấy như sắp phát điên, cố gắng hít sâu mấy hơi, điều hòa lại nhịp thở, nói: "Mông đại nhân, ta thừa nhận đã chuyển Vệ Tranh qua Đại lý tự giam giữ, hơn nữa cố ý để phản tặc vào Huyền Kính ti là có ý đồ không tốt, nhưng tất cả những gì Hạ Đông nói như ta sai khiến nó thì đều là vu khống, hãm hại, bệ hạ không thể chỉ nghe từ một phía được."
Mông Chí yên lặng nhìn hắn rất lâu, ánh mắt lạnh như băng. "Hạ Giang, vậy mà Hạ Đông còn gỡ tội cho ngươi... Chuyện đến nước này, ngươi dám làm không dám nhận cũng thôi, sao lại đổ tội cho đồ nhi của mình? Bệ hạ cho ngươi cơ hội dâng sớ giải thích, làm sao có thể nói là chỉ nghe từ một phía? Hạ Đông chính là ái đồ của ngươi, vì sao ả phải vu khống, hãm hại ngươi?"
Cơ mặt Hạ Giang không kiểm soát được khẽ co giật. Câu hỏi của Mông Chí chính là điểm hắn khó giải thích nhất. Mọi người đều biết quan hệ giữa Hạ Đông và hắn, trước kia chưa từng nghe nói thầy trò bất hòa, sau khi xảy ra chuyện mới nói hai người đã trở mặt thì dù là ai cũng không khỏi sinh nghi trong lòng, hơn nữa nguyên nhân trở mặt lại khó có thể nói ra.
"Ngươi thà chết không nhận tội, muốn kéo dài thêm chút thời gian cũng không sao." Mông Chí tiếp tục nói. "Hai tên thiếu chưởng sứ của ngươi cũng đã khai nhận, ngươi từng lệnh cho bọn chúng để phản tặc đi vào trong Huyền Kính ti, không cần thực sự chống cự."
"Ta làm thế là để tiêu diệt toàn bộ bọn phản tặc. Ta đã cài thuốc nổ trong địa lao, chính là để diệt hết đám giặc cướp này, chẳng lẽ bọn chúng không nói sao?"
"Xem trong lời khai của bọn chúng thì không có." Giọng nói không hề dao động của Mông Chí càng làm người ta tuyệt vọng. "Sau khi ta niêm phong Huyền Kính ti cũng không phát hiện dấu vết của thuốc nổ trong địa lao. Trong lời khai của Hạ Xuân và Hạ Thu cũng không nhắc tới chuyện này. Ngươi còn có bằng chứng khác để chứng minh mình vô tội không?"
Sắc mặt Hạ Giang lập tức trắng bệch. Trong ngày xảy ra chuyện, để khuyến khích Tĩnh vương lớn mật ra tay, hắn cố ý để Hạ Xuân và Hạ Thu bị dẫn ra ngoài, không cần bọn họ phối hợp hành động. Đương nhiên hắn cũng không nói với bọn họ về việc đặt bẫy thuốc nổ vì khi thuốc nổ được kích hoạt thì cả Hạ Đông cũng sẽ bị nổ chết. Hạ Thu thì không cần phải nói, còn Hạ Xuân dù không có quan hệ huyết thống với Hạ Đông nhưng cũng đã ở bên cạnh nàng ta từ khi còn nhỏ, hắn không nói với bọn họ là sợ có chuyện rắc rối xảy ra, vì thế bây giờ bọn họ không thể làm chứng... Nhưng còn hai tên thiếu chưởng sứ đó...
"Xin Mông đại nhân hồi bẩm bệ hạ, lời khai của hai thiếu chưởng sứ có vấn đề. Bọn chúng biết rất rõ ràng việc có gài thuổc nổ, bọn chúng biết ta đã chuẩn bị tiêu diệt đám giặc cướp đó..."
"Muộn rồi." Mông Chí nói, giọng lạnh như băng, dập tắt hi vọng cuối cùng của Hạ Giang. "Hai thiếu chưởng sứ này chỉ biết lệnh của thủ tôn là ngươi mà quên mất bọn chúng đang giữ chức quan của triều đình, lúc bị thẩm vấn luôn miệng nói bọn chúng chỉ phụng mệnh làm việc nên vô tội. Dực vương điện hạ bẩm báo bệ hạ về sự điên cuồng của chúng, bệ hạ nổi cơn thịnh nộ, lệnh cho nội giám đánh bốn mươi trượng, bọn chúng không chịu nổi, chết rồi."
"Chết rồi..." Những giọt mồ hôi lăn xuống từ trên trán Hạ Giang. Hắn ngỡ ngàng bước tới mấy bước, hỏi: "Tại sao lại là Dực vương điện hạ thẩm án?"
"Vụ án này, bệ hạ không muốn để quan lại tham dự. Dực vương điện hạ tuy không quan tâm đến việc triều chính nhưng dù sao cũng là hoàng tử, sai Dực vương điện hạ xét xử thì có gì khó hiểu?"
Hạ Giang nhắm mắt lại, cảm thấy tứ chi dường như đã bị xích chặt, không thể giãy giụa được. Không lâu trước, vì việc tranh tiểu thiếp, Dực vương đã bị Dự vương ức hiếp. Nếu Dực vương muốn nhân cơ hội này trút giận thì cũng là việc rất bình thường. Chuyện trên đời chính là như vậy, có lẽ một ngày nào đó, người mà ngươi hoàn toàn không để vào mắt lúc có quyền có thế sẽ giáng cho ngươi một đòn nặng nề nhất, nghĩ cũng không nghĩ ra, tránh cũng tránh không thoát.
Ánh mắt Mông Chí sáng quắc nhìn Hạ Giang đã bị ép tới tuyệt cảnh này, vẻ mặt không hề dịu đi. "Hạ Giang, ngươi có ngày hôm nay thật sự là gieo gió có ngày gặt bão. Một Huyền Kính sứ đã không còn được Hoàng thượng tín nhiệm thì có là gì, điều này ngươi cũng hiểu rất rõ ràng. Bây giờ bệ hạ không muốn nghe đến những chuyện về ngươi, sau này ngay cả ta có thể cũng không quay lại đây. Ngươi chết chắc rồi, nhưng bao giờ chết thì lại chưa biết, có điều chậm nhất cũng không qua nổi thu quyết. Trước đó ngươi phải ở trong thiên lao này một thời gian, ta nghĩ trên người ngươi chắc cũng không chỉ có một món nợ này, nhân lúc rảnh rang trước khi chết, ở đây có giấy có mực, ngươi chậm rãi hồi tưởng, rồi viết ra, đừng mang vào quan tài để trở thành tội nghiệp kiếp sau."
Nói xong những lời này, đại thống lĩnh cấm quân không thèm nhìn Hạ Giang nữa, xoay người rời khỏi phòng giam, khóa kĩ cửa, để lại một không gian tối tăm, yên tĩnh đến mức làm người ta ngạt thở trong phòng.
Rời khỏi khu chữ Thiên, Mông Chí không ra ngoài ngay mà đi dọc hành lang đến nữ lao thăm Hạ Đông.
Nữ lao nằm ở tầng trên cùng, ánh sáng và không khí lưu thông tốt hơn rất nhiều. Lúc Mông Chí đi vào, Hạ Đông đang đứng ở chính giữa phòng giam, ngẩng đầu nhìn một tia sáng yếu ớt chiếu vào từ ô cửa sổ trên cao, nghe thấy tiếng mở cửa cũng không quay lại.
"Hạ đại nhân, có người nhờ ta đến thăm đại nhân. Đại nhân có khỏe không?"
Hạ Đông không tiếp lời.
Ánh sáng mặt trời chiếu lên mặt nàng ta, nước da như trong suốt, những nếp nhăn hiện lên rõ ràng. Nàng ta nheo mắt, dường như đang đếm những hạt bụi trong tia sáng.
Trạng thái bình tĩnh tuyệt đối này thực ra cũng là một thứ cảm giác tuyệt vọng.
Mông Chí đột nhiên không biết nên nói gì.
Ông ta có thể an ủi nữ nhân này thế nào? Nói có người sẽ cầu xin cho nàng ta? Nói tính mạng nàng ta không có gì đáng lo? Sau khi đã trải qua đủ mọi đau khổ trong đời, Hạ Đông sao còn để ý đến sự sống chết của chính mình...
Sau khi yên lặng hồi lâu, Mông Chí cũng chỉ có thể bất đắc dĩ hỏi một câu: "Hạ đại nhân, đại nhân còn có lời gì muốn ta chuyển cho người nào không?"
Cuối cùng Hạ Đông cũng chậm rãi đưa ánh mắt tới, hai mắt long lanh khẽ động: "Xuân huynh và Thu huynh bây giờ thế nào?"
"À, trong ngày xảy ra chuyện, cả hai người họ đều không có mặt, không thể cho rằng bọn họ cũng là đồng mưu, cho nên chắc sẽ bị cách chức, nếu có hình phạt gì khác thì cũng không nặng..."
"Vậy... còn hắn?''
"Hắn chính là thủ phạm, không còn đường sống." Mông Chí cảm thấy không cần phải nói khéo. "Đây là trừng phạt đúng tội, Hạ đại nhân không cần áy náy."
Hạ Đông cúi đầu cười thảm. "Ta không áy náy. Trái tim ta sớm đã chết rồi, làm sao còn có thể áy náy nữa?"
"Hạ đại nhân, tướng quân Niếp Phong chết không nhắm mắt, trước khi chân tướng được làm rõ, xin đại nhân cố gắng bảo trọng."
Nhắc tới Niếp Phong, một thoáng đau đớn hiện lên trong mắt Hạ Đông. Nàng ta bất giác đưa một tay lên, khẽ vân vê lọn tóc bạc bên trán.
Cứ thế sụp đổ có lẽ là việc nhẹ nhàng nhất. Khóc thảm, trốn tránh, tê liệt, thậm chí là chết, tất cả đều thoải mái hơn là cắn răng kiên trì. Nhưng nàng ta biết mình vĩnh viễn không thể lựa chọn những cách làm thoải mái đó, bởi vì nàng ta là thê tử của Niếp Phong, ngay cả khi không còn lưu luyến sự sống thì cũng muốn để người chết được an ủi. Nàng ta phải tìm ra chân tướng của vụ thảm sát năm đó để đến tế trước mộ phần vong phu.
"Mông đại nhân, xin chuyển cáo tiên sinh, Hạ Đông tin rằng tiên sinh không phải người nóng vội, Hạ Đông cũng tin rằng tiên sinh có thể trả lại sự công bằng cho người đã khuất. Trước đó, dù có bị đi lưu đày ta cũng có thể gắng gượng, tiên sinh không cần phân tâm vì ta."
Mông Chí trịnh trọng khom mình hành lễ với nàng ta, cách xưng hô cũng thay đổi: "Ta nhất định sẽ chuyển lời này của Niếp phu nhân cho tiên sinh. Không chỉ tiên sinh sẽ không để bản án cũ năm đó bị chôn vùi mà Tĩnh vương điện hạ cũng đã thề phải truy tra đến cùng. Mặc dù trên người Niếp tướng quân không có ô danh, nhưng dù sao Niếp tướng quân cũng là căn nguyên của vụ án Xích Diễm. Nếu không thể bố cáo chân tướng vụ án này trước bách tính trong thiên hạ thì anh linh Niếp tướng quân cũng không được an nghỉ. Có điều, lúc nào có thể hoàn thành tâm nguyện này thì thật sự rất khó nói, xin Niếp phu nhân cố gắng nhẫn nại."
Hạ Đông quay người lại, ánh sáng chiếu vào bên mặt, in những đường nét bên má nàng ta lên một bên cánh mũi. Nàng ta không mở miệng trả lời, nhưng sự trầm tĩnh và kiên nhẫn trong mắt đã nói rõ hết thảy.
Mông Chí cũng không nhiều lời, chắp tay thi lễ rồi rời khỏi phòng giam.
Ngoài u minh đạo, một lão ngục tốt vẫn trốn ở chỗ khuất lén nhìn về phía bên này, hoặc nói, ông ta cho rằng mình đang trốn.
Khu phòng giam chữ Hàn vẫn trống không, vắng lạnh mà cô quạnh.
Mông Chí chỉ liếc một ánh mắt vội vã về phía đó rồi sải những bước dài rời đi.
Bên đó còn giữ lại dấu chân cuối cùng của Kỳ vương, bên đó từng là nơi chấm dứt hi vọng của rất nhiều người, nhưng thống lĩnh cấm quân hiểu còn rất lâu nữa mới có thể xót thương, tưởng nhớ.
Tháng Hai năm nay có hội thi mùa xuân ba năm tổ chức một lần, theo quy định sẽ do bộ Lễ chủ trì, Hoàng đế phái một quan chủ khảo, mười tám phó chủ khảo tuyển chọn sĩ tử trong thiên hạ.
Những năm trước, mỗi khi đến dịp hội thi, để giúp người của mình tranh đoạt vị trí giám khảo, Thái tử và Dự vương đều sử dụng hết mưu mẹo, vừa công khai vừa ngấm ngầm đấu đá đến tối mắt tối mũi. Mà các giám khảo được chọn bằng cách này đương nhiên phải suy nghĩ đến lợi ích của chủ nhân, vì vậy các tệ nạn thi cử cũng hoành hành.
Một số ngự sử và triều thần trung trực đã can gián vô số lần nhưng không những không có hiệu quả mà kết cục còn rất thê thảm.
Những tệ nạn trong tuyển chọn sĩ tử đã trở thành một căn bệnh kinh niên của triều đình, những người có chút kiến thức đều hiểu rõ điều này.
Có điều người ta cũng biết rõ tình hình năm nay nhất định sẽ thay đổi, còn thay đổi thế nào thì rất nhiều người đều đang trông ngóng.
Khoa cử là con đường duy nhất của đa số những người đi theo con đường làm quan, chỉ trừ con trưởng của các gia tộc thế tập, trong đó dính dáng tới rất nhiều vấn đề phức tạp. Địa phương, xuất thân, nhân thân, bằng hữu, sư môn... rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng chứ không chỉ là vấn đề đấu đá phe cánh. Muốn không khuất phục trước những thứ này, muốn ngăn chặn tất cả mọi hoạt động tiêu cực thì sẽ phải chịu đựng áp lực đến từ nhiều phía, đồng thời chính mình cũng phải bảo đảm tuyệt đối công bằng, chính trực để tránh bị người khác chỉ trích.
Lúc này Thái tử đã đổ, Dự vương bị giam lỏng, người có thể gây ảnh hưởng đến việc lựa chọn giám khảo năm nay hình như chỉ có một mình Tĩnh vương. Nếu hắn có ý định sử dụng tầm ảnh hưởng của mình trong việc này thì chẳng ai dám đứng ra chống đối.
Cuối tháng Giêng, bộ Lễ tuyên bố ngày tốt tổ chức kì thi mùa xuân năm nay theo tử vi, Hoàng đế Đại Lương thăm dò ý kiến của Tĩnh vương về chuyện lựa chọn giám khảo và nhận được câu trả lời: "Sự tình quan trọng, không dám đáp ngay, xin cho nhi thần suy nghĩ kĩ mấy ngày."
Mặc dù không có câu trả lời rõ ràng nhưng có thể thấy Tĩnh vương không hề định đặt thân ngoài chuyện.
Nhưng thay đổi thói xấu chắc chắn không phải một chuyện dễ dàng, làm không tốt sẽ phản tác dụng, cho nên mọi người đều đang chờ đợi danh sách cuối cùng được đưa ra, trên thực tế cũng là đang chờ xem quyết sách cuối cùng của vị thân vương này có đắc tội với người khác hay không. Tĩnh vương sẽ cố gắng đề cử những nhân sĩ chính trực được hắn tán thưởng hay sẽ khuất phục trước thông lệ hằng năm, chọn một quan chủ khảo biết điều, để lại một khe hở để tấn thân cho một số người.
Mùng Bốn tháng Hai, danh sách cuối cùng cũng được Trung Thư lệnh kí phát, do ti lễ quan tuyên đọc trước triều đình.
Nếu người ta có thể rơi cằm thật thì hôm đó trong triều đình nhất định có thể nhặt được cằm rơi ở khắp nơi.
Tất cả các phó chủ khảo đều là những thị lang trẻ tuổi, hăng hái nhất trong sáu bộ, nhưng quan chủ khảo lại là Trình Tri Kỵ, nguyên là các lão của Phượng các đã bảy mươi ba tuổi.
Trình lão đại nhân đã ở nhà nghỉ ngơi nhiều năm, không bước chân vào cung, mặc dù các lão là quan chức danh dự mọi người đều biết nhưng theo chế độ, ông ta vẫn có chức vụ chính nhất phẩm, thuộc phạm vi có thể được chọn làm quan chủ khảo.
Chỉ là trước kia chưa từng có người như ông ta được đề bạt, lúc mọi người suy đoán những người có thể được lựa chọn cũng không có ai nghĩ đến ông ta.
Có điều người ta nhanh chóng nhận ra hiệu quả của sự phối hợp già trẻ trong cách làm của Tĩnh vương. Trình Tri Kỵ không phải một lão thần quá cứng rắn, ông ta hiền hậu, nhu hòa, không bao giờ từ chối khách đến thăm, không làm người khác mất thể diện.
Bởi vì ông ta đã nhiều năm không vào triều nên không hiểu rõ các mối quan hệ trong triều, một chuyện chỉ cần thoáng nhắc tới là người khác sẽ hiểu rõ nhưng đến chỗ ông ta lại phải giải thích cặn kẽ đầu đuôi. Mấu chốt là nếu không phải quan hệ cực kì vững chắc thì ai dám tùy tiện nói rõ mình là con ai cháu ai, đặc biệt là nói với một lão thần bị mọi người quên lãng rất nhiều năm, không còn ai biết rõ nông sâu thế nào.
Dù sao thì mạo hiểm cũng vẫn là chuyện đầu tiên cần suy nghĩ, không thể còn chưa quen đường đã nghênh ngang khiêng một hòm vàng bạc châu báu tới nhà nhờ vả người ta, mấy ngự sử mới thượng nhậm lại không phải đồ bỏ.
Nhưng từ khi xác định giám khảo đến lúc vào trường thi chỉ có thời gian mười ngày.
Các con đường tiếp xúc với Trình Tri Kỵ còn chưa được làm rõ thì vị lão đại nhân này đã thu xếp hành lý vào trường thi.
Không còn ảnh hưởng của ngoại giới và tư tâm của từng người, việc tranh luận và dị nghị cũng trở nên đơn giản hơn nhiều.
Thực ra khuyết điểm lớn nhất trong sự phối hợp già trẻ chính là người già bảo thủ, không tiếp nhận quan điểm mới. Người trẻ tự phụ, không tôn trọng kinh nghiệm của tiền bối.
Trong "mấy ngày suy nghĩ" để quyết định chọn ai, vấn đề lớn nhất Tĩnh vương suy nghĩ chính là chuyện này.
Mặc dù trong danh sách cuối cùng không phải toàn bộ đều là những người hắn đề nghị, chính Hoàng đế Đại Lương cũng thay mấy người, nhưng cục diện cơ bản thì không thay đổi, cuối cùng cũng đạt được hiệu quả Tĩnh vương muốn.
Trình Tri Kỵ quả thật là một lựa chọn thích hợp. Mặc dù ông ta đã già nhưng tính tình không hề cố chấp, rất thích nghe người khác tranh luận. Đồng thời ông ta lại là đại học sĩ đời trước, các lão của Phượng các, kinh nghiệm cực kì phong phú, chỉ sau ngày đầu tiên chấm thi, mười tám vị phó chủ khảo đã bội phục vị lão tiên sinh này, không có ai dám không tôn trọng ông ta.
Một khi quan chủ khảo không phản cảm trước những cách làm cấp tiến của những người trẻ tuổi, các phó chủ khảo lại thừa nhận quyền uy của quan chủ khảo, việc trói buộc lẫn nhau đương nhiên có thể biến thành bù đắp cho nhau, không hề sinh ra mâu thuẫn gì lớn.
Thực ra kì thi năm nay còn xa mới có thể đạt đến mức độ không bỏ sót bất cứ nhân tài nào, bởi vì điều đó là không thể, nhưng tối thiểu đây tuyệt đối là kì thi sạch sẽ nhất, công bằng nhất trong nhiều năm nay.
Mục tiêu của Tĩnh vương là "không cầu lập công, không được mắc lỗi". Hắn không hi vọng có thể nhanh chóng xử lý được hết những tệ nạn đã kéo dài bao năm nay, cũng không áp dụng cách thức cứng rắn, lạnh lùng, dễ gây ra bất mãn và phản đối để bảo đảm liêm khiết. Điều đầu tiên hắn cần thay đổi chính là quan niệm "không có tệ nạn không phải trường thi" vẫn tồn tại từ trước đến nay, chặt đứt rất nhiều cái gọi là thông lệ đã tiếp diễn nhiều năm, bước một bước đầu tiên trên con đường chỉnh lí quá trình tuyển chọn quan lại.
Kì thi xuân kết thúc thuận lợi, không có sóng gió lớn, điều này làm cho Hoàng đế Đại Lương rất vui vẻ.
Điều ông ta lo lắng nhất vốn là Tĩnh vương không hiểu thời thế, một mực làm theo những suy nghĩ của mình khiến triều chính gặp cơn sóng gió, bây giờ xem ra hắn cũng đã dần khôn khéo hơn, đương nhiên trong lòng rất vui mừng.
Chớp mắt đã cỏ xanh oanh lượn, tháng Ba đã tới, Nội đình ti bắt đầu bận rộn chuẩn bị cho cuộc đi săn mùa xuân của hoàng tộc và việc chuyển giá qua hành cung ở núi Cửu An.
Ngoài Dự vương còn đang bị giam lỏng không được tùy giá, các hoàng tử còn lại đương nhiên đều phải đi theo, cộng với tôn thất trọng thần hộ tống là hai trăm người, mỗi người đều có một đám tùy tùng, quy mô của cuộc đi săn mùa xuân xem như lớn nhất trong mấy năm nay.
Hoàng hậu vẫn phụng chiếu lưu thủ trong cung như những năm trước, nhưng phi tần tùy giá đã không phải Việt quý phi từng được sủng ái nhất sáu cung mà là Tĩnh phi.
Hai ngày trước khi nghi giá rời kinh, Mục Thanh lại ngồi trên vương kiệu tám người khiêng tiến về Tô trạch, hơn nữa vào thẳng đến hậu viện mới hạ kiệu, mà từ trên kiệu bước xuống, ngoài vị tiểu vương gia này còn có một thanh niên dường như vừa mới khỏi bệnh nặng.
Lê Cương lẳng lặng bước tới thi lễ rồi đưa hai người vào chính phòng của Mai Trường Tô.
Mục Thanh vui mừng hớn hở, vừa vào cửa đã quay về hướng chủ nhà, chắp tay nói: "Ta đưa người đến rồi, trên đường hết thảy bình an, không xảy ra chuyện gì." Nói xong hắn dịch người qua bên cạnh, để thanh niên sau lưng hiện thân.
"Đa tạ Mục vương gia." Mai Trường Tô cười đáp lễ, rồi lại nhìn thanh niên đó. "Tại hạ Mai Trường Tô, may mắn được gặp Vệ tướng quân, xin hỏi thương thế đã khỏi chưa?"
Vệ Tranh kiềm chế sự kích động trong lòng, run giọng nói: "Ơn cứu giúp của Tô tiên sinh, tại hạ không bao giờ quên..." Hắn vừa nói vừa định quỳ gối tham bái, nhưng bị ánh mắt nhu hòa của đối phương ngăn lại, đành cúi người vái thật sâu.
Mục Thanh cho rằng nhiệm vụ đã hoàn thành, thoải mái vung tay, hỏi: "Phi Lưu đâu?"
"Hắn không có nhà." Mai Trường Tô hiểu ý vị tiểu vương gia này, chỉ có điều bây giờ có người đang chờ trong mật thất, đương nhiên phải nghĩ cách trục khách trước. "Hôm khác ta sẽ dẫn hắn đến phủ, còn hôm nay e rằng không thể gặp được. Ta phải an trí Vệ tướng quân một chút đã."
"Nhớ phải đến đấy." Mục Thanh là một người hào sảng, không hề chấp nhặt, chỉ dặn một câu rồi xoay người dứt khoát bước đi.
Bóng dáng hắn vừa biến mất, Vệ Tranh đã quỳ rạp xuống đất, rưng rưng nói: "Thiếu soái... Đều do Vệ Tranh nhất thời sơ sảy..."
"Được rồi. Ngươi và ta còn phải khách khí như thế làm gì?" Mai Trường Tô cũng không đỡ hắn lên mà chính mình ngồi xuống, nắm vai hắn, nói. "Ngươi bình tĩnh một chút, đừng quá kích động. Ta phải dẫn ngươi đi gặp Tĩnh vương, trước mặt hắn không được lỡ miệng gọi ta."
"Vâng..."
"Đứng lên đi."
Vệ Tranh hít sâu, đưa tay đỡ Mai Trường Tô cùng đứng lên. Hai người sánh vai đi vào phòng trong, mở cửa mật đạo, một trước một sau đi vào.
"Tĩnh vương điện hạ, Vệ tướng quân đến rồi." Sau khi nói một câu đơn giản như vậy, Mai Trường Tô cũng tránh sang một bên như Mục Thanh lúc nãy, lẳng lặng lùi vào trong góc.
"Vệ Tranh... tham kiến Tĩnh vương điện hạ..."
Nhìn cố nhân tưởng rằng sẽ không bao giờ gặp lại, Tiêu Cảnh Diễm vô cùng xúc động, vội ổn định tâm trạng, bước tới đỡ Vệ Tranh đứng thẳng dậy.
Liệt Chiến Anh đứng sau lưng hắn cũng không kìm được bước tới một bước, quan sát kĩ Vệ Tranh một lượt từ trên xuống dưới, một lúc sau hai mắt đã đỏ lên.
"Điện hạ, mọi người đều ngồi xuống rồi nói chuyện. Ta nghĩ tối nay sẽ có rất nhiều chuyện cần nói." Vì đã gặp Vệ Tranh nhiều lần nên tâm tình Mông Chí ổn định nhất, ông ta đi tới sắp xếp chỗ ngồi.
Liệt Chiến Anh nhất quyết đứng hầu bên cạnh theo đúng quân quy. Vệ Tranh thì lặng lẽ thoáng nhìn Mai Trường Tô, hiển nhiên cũng rất muốn đứng ra phía sau chàng, đáng tiếc chàng đang tựa vào cạnh bàn nghịch chiếc lò sưởi, không ngước mắt lên.
"Vệ Tranh, gặp nhau trong mật thất, ngươi không cần giữ lễ tiết. Ta có rất nhiều lời muốn hỏi ngươi, ngươi ngồi xuống đi." Tĩnh vương chỉ một chỗ ngồi gần hắn nhất. "Rất nhiều nghi hoặc ta giấu trong lòng nhiều năm, vốn tưởng rằng không thể giải đáp, may mà ông trời phù hộ, có thể gặp lại người cũ, ngươi nhất nhất phải giải đáp cho ta."
"Vâng." Vệ Tranh thi lễ rồi mới chậm rãi ngồi xuống. "Xin điện hạ cứ hỏi, Vệ Tranh nhất định biết gì nói đó, nói là nói hết."
Tĩnh vương chăm chú nhìn vào mắt hắn, câu đầu tiên đã hỏi: "Còn có người nào khác sống sót không?"
Vấn đề này Vệ Tranh đã có chuẩn bị, cho nên lập tức đáp: "Có. Chỉ là không nhiều, người có chức vụ càng ít hơn. Vì bị tuyên bố là phản quân, phải phục khổ dịch, cho nên dù chỉ là binh lính cũng không dám về quê, chỉ có thể phiêu bạt nơi đất khách."
"Những người ta biết còn có những ai?"
"Dưới hiệu úy thì e là điện hạ không quen. Còn trên hiệu úy chỉ có Niếp Đạc..."
Tĩnh vương không kìm được kinh ngạc. "Niếp Đạc còn sống?"
"Vâng. Nhưng hiện hắn ở nơi nào, ta không rõ lắm. Tóm lại đều đã giấu tên ẩn nấp."
"Niếp Đạc cũng là người của chủ doanh... Vậy còn phía bắc khe núi? Những người ở đó thật sự không còn ai sống sót?"
Vệ Tranh cúi đầu, không biết là không nỡ trả lời hay là không muốn trả lời.
"Sao lại như vậy..." Tĩnh vương cố gắng ổn định giọng nói run rẩy. "Người khác không biết nhưng ta biết rõ nhất, Xích Vũ doanh là chiến đội mạnh nhất, chỉ dựa vào trăm ngàn binh mã Tạ Ngọc và Hạ Giang đưa từ biên giới phía tây đến, làm sao có thể tiêu diệt được Xích Vũ doanh?"
Vệ Tranh đột nhiên ngẩng đầu, ánh mắt như lửa. "Chẳng lẽ ngay cả điện hạ cũng cho rằng bọn ta chém giết với Tạ Ngọc thành như vậy sao? Chẳng lẽ Xích Diễm quân bọn ta thật sự là phản quân sẽ đánh nhau với quân đội triều đình thành kết cục thê thảm như vậy sao?"
Tĩnh vương tóm chặt cánh tay Vệ Tranh, mạnh đến mức gần như có thể bóp nát xương hắn. "Ý ngươi là các ngươi không phản kháng, Tạ Ngọc vẫn hạ độc thủ? Nhưng với tính tình của Tiểu Thù thì cho dù lúc đầu hắn không muốn phản kháng, chỉ cần dao đồ tể giơ lên thì hắn tuyệt đối sẽ không ngồi chờ chết!"
"Điện hạ nói đúng, nhưng..." Vệ Tranh nghiến răng, cơ hàm căng cứng tạo thành đường nét góc cạnh. "Khi dao đồ tể giơ lên, bọn ta vừa trải qua ác chiến, đã không còn sức mạnh nữa..."
"Ác chiến..." Tĩnh vương cũng tương đối hiểu tình thế bắc cương năm đó, chỉ thoáng suy nghĩ đã tỏ ra hết sức kinh sợ. "Chẳng lẽ Tạ Ngọc báo là đánh lui hai trăm ngàn đại quân Đại Du, bảo vệ phòng tuyến bắc cương thực ra là các ngươi... Hắn... hắn còn là một võ tướng không? Tham công cướp công giành được tước hầu ấn soái, hắn thật sự không cảm thấy đỏ mặt sao?"
"Đánh lui?" Vệ Tranh cười lạnh, nói. "Đại Du dùng võ lập quốc, nếu chỉ là đánh lui thì mười mấy năm qua Đại Lương sao có thể yên bình như vậy? Nếu không phải quân tướng trên dưới Xích Diễm bọn ta dùng máu thịt trung hồn tiêu diệt hai trăm ngàn chủ lực quân đội hoàng gia của bọn chúng thì bắc cương của Đại Lương có thể có mười ba năm thái bình này sao?"
"Nhưng phía Đại Du chưa từng..." Tĩnh vương chỉ run giọng nói được nửa câu, trong lòng đã rõ ràng.
“Đại Du bị diệt hai trăm ngàn đại quân chủ lực, đương nhiên sẽ không chủ động bẩm báo với triều đình Đại Lương rằng: "Bọn ta không phải bị Tạ Ngọc đánh lui, bọn ta thực ra đã bị Xích Diễm tiêu diệt." Chỉ sợ sau khi biết được kết cục của Xích Diễm tại Mai Lĩnh, Hoàng đế Đại Du đã vui mừng nhảy múa không thôi.
Nếu không phải đã mất quân chủ lực thì rất có khả năng gã Hoàng đế hiếu chiến này đã nhân cơ hội điểm binh tấn công xuống nam từ lâu rồi.
Mà đối với Hoàng đế Đại Lương ở xa tận đế đô Kim Lăng thì ông ta đâu biết tình hình thực sự ở bắc cương, chỉ xem tấu sớ của bộ Binh và Huyền Kính ti, hơn nữa trong thâm tâm sớm đã có lòng nghi ngờ và kiêng kỵ rất sâu nên mới quyết đoán tự hủy Trường Thành như vậy.
"Xem ra quá nửa những gì chúng ta biết về tình hình năm đó đều là giả." Liệt Chiến Anh giận dữ nói. "Vệ Tranh, ngươi chậm rãi kể cho điện hạ nghe từ đầu, chỉ cần chân tướng vẫn còn thì một ngày nào đó sẽ đòi lại được công bằng!"
Vệ Tranh gật đầu, ổn định lại tâm tình, nói: "Ban đầu bọn ta đóng quân ở bắc tuyến Cam Châu. Lúc đó nhận được sắc chỉ của Hoàng đế, yêu cầu toàn quân Xích Diễm bó giáp không động. Không ngờ sắc chỉ vừa đến một ngày, chiến báo từ tiền tuyến đã truyền về, Đại Du đưa hai trăm ngàn quân đội hoàng gia, đã đoạt Túc Đài, đánh thẳng đến Mai Lĩnh. Nếu chúng ta phụng chỉ không động, một khi quân Đại Du đột phá Mai Lĩnh, gần mười châu tiếp theo đều là đồng bằng, không có chỗ hiểm yếu để phòng thủ. Xưa nay Xích Diễm lấy bảo cảnh an dân làm trách nhiệm của mình, sao có thể ngồi nhìn ngàn vạn con dân gặp cảnh tai ương ngập đầu, huống hồ quân tình khẩn cấp, tướng ở ngoài có thể không nhận lệnh vua, cho nên Lâm soái vừa phái người cấp báo vừa hạ lệnh nhổ trại nghênh địch. Sau đó hành động này cũng được xếp vào tội lớn. Tấu báo của Lâm soái hoàn toàn không về đến kinh thành, nhất định là đã bị chặn trên đường."
Tĩnh vương khó kiềm chế cơn giận dữ, cố gắng nhắm mắt một lát. "Ngươi nói tiếp đi!"
"Bọn ta hành quân ngày đêm, gần như đến Mai Lĩnh cùng lúc với quân Đại Du. Điện hạ biết đấy, bởi vì đầu năm bị cắt giảm, khi đó binh lực của bọn ta chỉ có bảy mươi ngàn, không thể cứng đấu cứng, cho nên Lâm soái lệnh tướng quân Niếp Phong đi vòng đến Tuyệt Hồn cốc ở phía bắc gần đó để tiếp ứng, Xích Vũ doanh làm tiên phong cường công cửa núi phía bắc, chủ lực cắt đứt quân địch, chia ra để tiêu diệt từng phần.
Đêm đó gió tuyết dữ dội, Niếp Chân đại nhân đi theo Xích Vũ doanh, đội tuyết dùng dầu mỡ hỏa công... Trận ác chiến đó, bảy mươi ngàn nam nhân bọn ta tắm máu ba ngày ba đêm, dùng hết sức mạnh, cuối cùng chém hết binh lính hoàng gia mà Đại Du vẫn lấy làm tự hào, chỉ có ít tàn binh bại tướng chạy thoát." Trên mặt Vệ Tranh tỏa ra ánh sáng tự hào, nhưng chỉ trong nháy mắt lại trở nên ảm đạm. "Nhưng khi đó chính bọn ta cũng thương vong thảm trọng, quân lực đã rơi vào trạng thái kiệt sức, không thể không nghỉ ngơi tại chỗ. Lúc này thiếu soái đã phát hiện có gì đó không đúng, bởi vì cánh quân của Niếp Phong đi tiếp ứng từ đầu đến cuối không hề xuất hiện.
Tuyệt Hồn cốc và Bắc cốc chỉ cách nhau một vách đá, mặc dù địa thế hiểm trở nhưng với danh Tật Phong tướng quân của Niếp Phong thì trừ khi có chuyện bất ngờ, nếu không sẽ không chậm chạp như vậy.
Thế là thiếu soái lệnh ta tiến về Nam cốc liên lạc chủ doanh hỏi nguyên do. Ai ngờ ta vừa tới, còn chưa tiến vào soái trướng, trăm ngàn binh mã của Tạ Ngọc và Hạ Giang đã chạy tới..."
Tĩnh vương đập tay một cái, một góc bàn bằng gỗ lê cứng rắn gãy rời rồi rơi xuống.
Đây cũng là lần đầu tiên nghe thấy những chuyện này, trong lòng kích động, Mông Chí cắn răng quay lại thoáng nhìn Mai Trường Tô, lại chỉ thấy chàng ngồi trong góc, mặt không biểu cảm, hơi ngẩng đầu nhưng không hề nhúc nhích, hình như đã đông cứng thành một bức tượng đá.
"Ban đầu nhìn thấy bọn chứng, bọn ta còn tưởng rằng... bon ta lại cho rằng... bọn chúng là viện quân..." Sự bi phẫn và thê lương trong giọng nói của Vệ Tranh đủ để bóp nát lòng dạ những người cứng rắn nhất trên đời. Hắn ngẩng đầu, nhìn thẳng về phía Tĩnh vương. "Kết cục... Điện hạ đã biết, Nam cốc trở thành địa ngục Tu La, còn Bắc cốc... bị đốt cháy thành một mảnh đất khô cằn. Các huynh đệ lúc chém giết với binh lính hoàng gia dũng mãnh nhất của Đại Du cũng vượt qua được, cuối cùng lại ngã xuống dưới tay chính quân mình. Rất nhiều người đến lúc chết vẫn không rõ rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Ta liều chết chạy tới bên cạnh Lâm soái, nhưng Lâm soái đã bị thương nặng, lâm nguy. Câu cuối cùng của Lâm soái là lệnh cho bọn ta chạy trốn, có thể sống được người nào hay người ấy. Ta nghĩ khi đó trong lòng Lâm soái hẳn phải lạnh lắm, hẳn phải đau lắm, may mắn là Lâm soái còn chưa nhìn thấy khói đen bốc lên từ Bắc cốc thì đã đi rồi... Thuộc cấp của ngài, thân binh của ngài không có ai rời khỏi ngài, cho dù cuối cùng bọn họ chỉ còn bảo vệ một thi thể. Nhưng ta không thể, chủ tướng của ta là Lâm Thù, ta muốn chạy về Bắc cốc, nhưng dao đổ tể chém xuống thật sự quá nhiều, ta chỉ chạy được nửa đường đã ngã xuống. Lúc tỉnh lại, ta đã được Tố cốc chủ, người sau này là cha nuôi của ta cứu thoát..."
Tĩnh vương nghiến răng cố gắng chịu đựng, cuối cùng vẫn không kìm được vùi đầu vào hai lòng bàn tay. Mông Chí cũng quay đầu đi, dùng ngón tay lau lệ nóng nơi khóe mắt. Liệt Chiến Anh thì sớm đã nước mắt như mưa.
Chỉ có Mai Trường Tô vẫn duy trì tư thế trước đó, ánh mắt thăm thẳm nhìn bức tường đá thô ráp.
"Tố cốc chủ... khi ấy tại sao lại ở đó?" Một lúc lâu sau, Tĩnh vương hít sâu một hơi, ổn định tinh thần, lại hỏi.
"Mai Lĩnh có một loại dược liệu quý hiếm, rất hiếm gặp. Khi đó cha nuôi và một bằng hữu của ông đến đó hái thuốc và gặp tình hình thảm thiết như thế. Trong lúc đại loạn, họ không thể làm việc gì, chỉ có thể cải trang lẫn vào khi Tạ Ngọc thu dọn chiến trường, nghĩ cách cứu một vài người ra."
"Vậy Niếp Đạc..."
"Niếp Đạc khi đó được Lâm soái phái đi thám thính tình hình của Niếp Phong, sau đó trên đường phát giác có chuyện bất thường nên đã tìm cách trốn được.
Tĩnh vương gục đầu xuống, yên lặng rất lâu, sau đó lại hỏi một câu đã hỏi trước đó: "Vệ Tranh, Bắc cốc... thật sự không còn người sống sót sao?"
Vệ Tranh né tránh ánh mắt hắn, nói nhỏ: "Ta không hề nghe nói có ai..."
Mặc dù trong lòng sớm đã biết không còn hi vọng, nhưng sau khi nghe thấy câu trả lời này, Tiêu Cảnh Diễm vẫn không kìm được đau đớn trong lòng.
Bằng hữu của hắn, bằng hữu từ nhỏ cùng nhau lăn lộn, cùng nhau tập văn luyện võ của hắn, bằng hữu luôn vênh váo tự đắc, huênh hoang hết sức nhưng thực ra lại cực kì quan tâm giúp đỡ hắn, bằng hữu cùng hắn giao tính mạng cho nhau trên sa trường, bằng hữu còn cười đùa dặn hắn mang ngọc trai về lúc hắn sắp đi... Bằng hữu đó đã không thể về được nữa...
Viên minh châu mang về từ thái ấp ở Đông hải vẫn được hắn để trong hòm ở đầu giường, lạnh lẽo, cô quạnh. Nhưng vị tướng quân thiếu niên lẽ ra sẽ trở thành chủ nhân của nó thì ngay cả hài cốt cũng không biết đang vùi nơi đâu.
Mười ba năm đã qua, vong hồn chưa yên, ô danh chưa rửa. Bây giờ hắn đã là thân vương thất châu, vinh quang vạn trượng, rốt cuộc cũng có ý nghĩa gì?
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...