Vào thứ Bảy, tám ngày sau khi tới đó, Theresa trở lại Boston.
Cô vừa mở cửa căn hộ, Harvey đã lao ra từ phòng ngủ phía sau. Nó dụi dụi vào chân cô, kêu ư ử, Theresa bế nó lên, đưa tới chỗ tủ lạnh. Cô xoa xoa đầu Harvey, lấy một mẩu pho mát cho nó, cảm kích vì bà Ella hàng xóm đã đồng ý chăm sóc nó trong khi cô đi vắng. Xơi gọn chỗ pho mát xong, nó nhảy ra khỏi vòng tay cô và thong thả bước về phía cái cửa kính trượt dẫn ra hiên sau. Căn hộ ngột ngạt vì bị đóng kín, cô bèn mở cửa ra để lấy không khí vào.
Sau khi tháo dỡ đồ và lấy chìa khóa cùng đống thư từ bà Ella, cô rót cho mình một ly rượu vang, tới chỗ dàn stereo, và nhét cái đĩa John Coltrane mà cô đã mua vào. Khi tiếng nhạc jazz tràn ngập căn phòng, cô xem qua đống thư. Như mọi khi, chủ yếu là các hóa đơn, cô bèn đặt chúng qua một bên để lúc khác xem.
Cô kiểm tra thì thấy có tám tin nhắn trong hộp thư thoại. Hai từ những người đàn ông cô từng hẹn hò, đề nghị cô gọi lại nếu có thể. Cô thoáng nghĩ về điều đó, rồi quyết định thôi. Không ai trong số họ hấp dẫn cô chút nào, và cô không cảm thấy muốn đi chơi chỉ bởi vì trong kế hoạch cô bỗng có thời gian nghỉ. Cô cũng nhận được những cuộc gọi từ mẹ và chị gái, nên cô ghi vào giấy nhớ là sẽ gọi lại cho họ vào lúc nào đó trong tuần này. Không có cuộc gọi nào từ Kevin. Lúc này thằng bé đang lái mảng và đi cắm trại cùng bố ở đâu đó trên sông Azirona.
Không có Kevin, căn nhà có vẻ im ắng đến kỳ lạ. Nhưng đồng thời cũng trở nên gọn gàng, và điều này không hiểu sao lại khiến nó trở nên dễ chịu hơn một chút. Thật thích thú khi về tới nhà mà chỉ thỉnh thoảng mới phải dọn dẹp cho mình.
Cô nghĩ về hai tuần nghỉ phép vẫn còn trong năm nay. Cô và Kevin sẽ đi chơi biển một thời gian vì cô đã hứa với nó. Nhưng thế thì vẫn còn một tuần nữa. Cô có thể dành cho dịp Giáng sinh, nhưng năm nay Kevin sẽ tới chỗ bố nó, nên xem ra cái đó cũng chẳng để làm gì. Cô ghét phải đón Giáng sinh một mình – nó vẫn luôn là dịp nghỉ lễ yêu thích nhất của cô – nhưng chẳng còn sự lựa chọn nào khác, và cô quyết định rằng cứ nghĩ ngợi mãi về chuyện đó cũng chẳng ích gì. Có lẽ cô có thể tới Bermuda hoặc Jamaica hoặc nơi nào khác ở Carribbe – nhưng thật lòng cô không muốn đi một mình, mà lại chẳng biết ai khác có thể cùng đi. Janet may ra có thể, nhưng cô không chắc. Ba đứa con đủ khiến em cô bận tối mắt, còn Edward hầu như chẳng có thời gian nghỉ. Có lẽ cô có thể sử dụng tuần đó làm những việc nhà mà cô vẫn định làm… nhưng xem ra thế có vẻ uổng quá. Ai lại muốn dành thời gian nghỉ lễ đi sơn nhà và dán tường chứ?
Cuối cùng cô từ bỏ và quyết định rằng nếu không có ý tưởng gì hay ho xuất hiện trong đầu thì cô sẽ dành lại cho năm sau. Có lẽ cô và Kevin sẽ tới Hawaii hai tuần.
Cô lên giường đi ngủ và vớ lấy một trong số mấy cuốn tiểu thuyết đang đọc dở từ lúc ở Cape Cod. Cô đọc nhanh, liền một mạch và được gần một trăm trang mới thấy mệt. Tới nửa đêm cô tắt đèn. Đêm đó, cô mơ thấy mình đi dạo trên một bãi biển hoang vắng, dù không hiểu tại sao.
Bàn làm việc của cô vào sáng thứ Hai tràn ngập thư. Khi cô tới, đã có gần hai trăm lá thư ở đó, và năm mươi cái khác được người đưa thư mang tới sau trong ngày hôm đó. Ngay khi cô bước vào văn phòng, Deanna đã chỉ vào đống thư đầy tự hào. “Thấy chưa, tôi đã bảo mà”, bà mỉm cười nói.
Theresa nhờ gác lại những cuộc gọi đến cho cô, đoạn bắt đầu bóc thư ngay lập tức. Không có ngoại lệ nào, tất cả đều là thư phản hồi về lá thư mà cô đã đăng trong chuyên mục của mình. Hầu hết là từ phụ nữ, tuy cũng có vài người đàn ông, và sự đồng nhất ý kiến của họ khiến cô ngạc nhiên. Cô đọc từng lá thư, thấy họ đã cảm động đến mức nào bởi lá thư giấu tên đó. Nhiều người còn hỏi xem, cô có biết người viết là ai không, và một số phụ nữ còn gợi ý rằng nếu người đàn ông đó còn độc thân thì họ muốn lấy anh ta làm chồng.
Cô phát hiện ra rằng hầu hết các số báo ngày Chủ nhật trên khắp cả nước đều đăng lại bài này, và có những thư đến từ tận Los Angeles. Sáu người đàn ông tuyên bố là chính họ đã viết lá thư đó, bốn người đòi tiền bản quyền – có một người thậm chí còn đe dọa sẽ nhờ đến pháp luật. Nhưng khi cô kiểm tra chữ viết tay của họ thì thậm chí không ai trong số đó viết chữ hơi từa tựa như trong lá thư.
Buổi trưa cô đi ăn tại nhà hàng Nhật ưa thích, và hai người đang ăn ở hai bàn khác nói rằng họ cũng đã đọc bài viết đó. “Vợ tôi đã dán nó lên cửa tủ lạnh,” một người nói vậy khiến Theresa cười ngất.
Tới cuối ngày, đọc được gần hết đống thư, cô đã thấm mệt. Cô chưa làm được gì cho bài viết sắp tới của mình cả, và cô cảm thấy áp lực cứ đè nặng lên gáy, như mọi lần khi sắp đến hạn chót. Đến năm rưỡi cô bắt đầu viết một bài về việc Kevin đi xa và cảm giác của cô trước chuyện đó. Công việc diễn ra suôn sẻ hơn cô tưởng và khi điện thoại reo thì cô cũng viết gần xong.
Đó là nhân viên tiếp tân của tòa soạn.
“Chào Theresa, tôi biết là cô đã bảo tôi hoãn các cuộc gọi dành cho cô lại, và tôi đã làm vậy,” cô ta mào đầu. “Cơ mà không dễ chút nào – hôm nay cô có sáu mươi cuộc gọi. Điện thoại reo không ngớt.”
“Vậy có chuyện gì?”
“Người phụ nữ này cứ gọi cho tôi mãi. Đây là lần thứ năm cô ta gọi hôm nay, và cô ta đã gọi hai lần từ tuần trước. Cô ta không cho biết tên, nhưng giờ thì tôi nhận ra ngay. Cô ta bảo phải nói chuyện với cô.”
“Cô không thể nhận lời nhắn được sao?”
“Tôi đã cố nhưng cô ta không chịu. Cô ta cứ đề nghị chờ đến khi nào cô rảnh một chút. Cô ta nói đang gọi đường dài, nhưng cô ta phải nói chuyện với cô cho kỳ được.”
Theresa nghĩ một giây trong lúc nhìn chằm chằm vào màn hình trước mặt. Bài chuyên mục của cô đã gần xong – chỉ còn hai đoạn nữa thôi.
“Cô không thể hỏi xin số điện thoại của cô ta để tôi có thể gọi lại sao?”
“Không, cô ta sẽ không cho tôi đâu. Cô ta có vẻ lảng tránh lắm.”
“Cô có biết cô ta muốn gì không?”
“Tôi không biết gì cả. Nhưng cô ta nói chuyện đâu ra đấy lắm – không giống nhiều người đã gọi tới ngày hôm nay. Có gã còn hỏi cưới tôi nữa kia.”
Theresa bật cười. “Thôi được, bảo cô ta chờ máy. Mấy phút nữa tôi sẽ xuống đó.”
“Được.”
“Cô ta ở đường dây nào?”
“Số năm.”
“Cảm ơn cô.”
Theresa nhanh chóng kết thúc bài viết. Cô sẽ xem lại ngay khi nói chuyện điện thoại xong. Cô nhấc ống nghe lên và bấm đường dây số năm.
“Xin chào.”
Đường dây im lặng một lát. Rồi, bằng một giọng nhẹ nhàng, du dương, người gọi hỏi, “Có phải là Theresa Orborne đó không?”
“Vâng, là tôi đây.” Theresa ngả người ra ghế và bắt đầu xoắn tóc.
“Cô có phải là người đã viết bài về lá thư trong chai không?”
“Vâng. Tôi giúp gì được cô?”
Người gọi lại ngừng. Theresa có thể nghe thấy tiếng cô ta thở, như thể cô ta đang nghĩ xem phải nói gì tiếp theo. Lát sau, người gọi hỏi:
“Cô có thể cho tôi biết những cái tên trong lá thư đó không?”
Theresa nhắm mắt lại và dừng xoắn tóc. Lại một kẻ hiếu kỳ khác, cô nghĩ. Mắt cô quay lại với màn hình và cô bắt đầu duyệt lại bài viết.
“Không, tôi xin lỗi, tôi không thể. Tôi không muốn thông tin đó lan ra ngoài.”
Người gọi im lặng, và Theresa bắt đầu trở nên sốt ruột. Cô bắt đầu đọc đoạn thứ nhất trên màn hình. Rồi, người gọi làm cô ngạc nhiên.
“Làm ơn đi mà,” cô ta nói,“tôi phải biết.”
Theresa ngước mắt lên khỏi màn hình. Cô có thể nghe thấy một sự tha thiết tuyệt đối trong giọng người gọi. Cũng có cả thứ gì đó khác nữa nhưng cô không thể xác định.
“Tôi xin lỗi,” cuối cùng Theresa nói, “thật sự là tôi không thể.”
“Vậy cô có thể trả lời một câu hỏi được không?”
“Có lẽ.”
“Có phải lá thư đó gửi cho Catherine và ký tên một người đàn ông là Garret không?”
Người gọi đã thu hút toàn bộ sự chú ý của Theresa, cô liền ngồi thẳng lại trên ghế.
“Ai thế?” cô hỏi với một sự cấp bách đột ngột, và khi câu nói vuột ra cũng là lúc cô hiểu rằng người gọi biết được sự thật.
“Đúng là thế, phải không?”
“Ai thế?” Theresa hỏi lại, lần này nhẹ nhàng hơn. Cô nghe thấy người gọi hít một hơi sâu trước khi trả lời.
“Tôi là Michelle Turner và tôi sống ở Norfolk, Virginia.”
“Làm sao cô biết về lá thư đó?”
“Chồng tôi làm trong hải quân và anh ấy đóng quân ở đây. Ba năm trước, tôi đang đi dạo trên bãi biển ở đây thì nhặt được một lá thư giống như lá thư cô đã tìm thấy khi đi nghỉ. Sau khi đọc chuyên mục của cô, tôi biết là cùng một người viết. Những chữ cái đầu tên cũng y như thế.”
Theresa ngừng lại một lát. Không thể như thế được, cô nghĩ. Ba năm trước ư?
“Loại giấy được dùng để viết là gì?”
“Tờ giấy màu be, có một hình con tàu đang ra khơi ở góc trên bên phải.”
Theresa cảm thấy tim mình đập nhanh hơn. Cô dường như vẫn chưa tin nổi.
“Lá thư của cô cũng có hình một con tàu đúng không?”
“Đúng.” Theresa thì thào.
“Tôi biết mà. Tôi biết ngay khi đọc chuyên mục của cô.” Michelle nói nghe như thể trút được gánh nặng trên vai.
“Cô vẫn có bản sao của nó chứ?” Theresa hỏi.
“Có. Chồng tôi chưa bao giờ xem, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn lôi nó ra để đọc lại. Nó hơi khác với lá thư cô đăng lại trên chuyên mục của cô, nhưng những cảm xúc thì y hệt.”
“Cô có thể gửi fax cho tôi không?”
“Được.” Cô ta nói rồi ngừng lại. “Thật kinh ngạc phải không? Ý tôi là, đầu tiên tôi nhặt được nó từ trước đó rất lâu, và giờ thì cô tìm được một lá.”
“Vâng,” Theresa thì thào, “đúng thế.”
Sau khi cho Michelle số máy fax, Theresa gần như không thể đọc duyệt bài viết của mình được nữa. Michelle phải tới một cửa hàng photo để gửi fax lá thư, và Theresa thấy mình cứ năm phút lại bước từ bàn làm việc tới chỗ máy fax trong lúc chờ bản fax của lá thư gửi tới. Bốn mươi sáu phút sau cô nghe thấy tiếng máy fax kêu. Trang đầu tiên hiện ra là một lá thư thông báo từ Dịch vụ Sao chép Quốc gia, gửi cho Theresa Orborne tại Thời báo Boston.
Cô nhìn thấy bản fax rơi xuống cái khay bên dưới và nghe thấy tiếng máy fax kêu khi sao chép lại từng dòng của lá thư. Chuyện đó diễn ra rất nhanh – chỉ mất mười giây để sao lại mỗi trang – dù vậy, thời gian chờ đợi đó vẫn là quá lâu. Rồi trang thứ ba bắt đầu được in ra, và cô nhận thấy rằng, giống như lá thư cô đã tìm thấy, lá thư này chắc cũng kín cả hai mặt.
Cô nhặt lấy mấy bản sao đó trong lúc máy fax kêu bíp, báo hiệu cuộc truyền tín hiệu đã kết thúc. Cô mang thẳng tới bàn mà không đọc và đặt úp xuống hai phút, cố gắng thở chậm lại. Chỉ một lá thư thôi mà, cô tự nhủ.
Hít một hơi sâu, cô nhấc trang ngoài cùng lên. Liếc nhanh biểu tượng con tàu, cô biết rằng người viết thật sự là một. Cô đặt trang giấy ra chỗ sáng hơn và bắt đầu đọc.
6 tháng 3, 1994
Catherine thân yêu của anh,
Em đang ở đâu rồi? Ngồi một mình trong ngôi nhà tối om, anh đang tự hỏi tại sao chúng ta phải chia lìa kia chứ?
Anh không biết câu trả lời cho những câu hỏi đó, dù anh có cố gắng đến mấy để hiểu. Lý do thật rõ ràng, nhưng tâm trí anh cứ bắt anh phủ nhận và anh bị nỗi lo âu vò xé suốt những giờ không ngủ. Anh lạc lối khi không có em. Anh không còn linh hồn, chỉ là một kẻ trôi dạt không nhà cửa, một con chim cô độc trong chuyến bay tới nơi vô định. Anh là tất cả những thứ đó, và anh cũng chẳng là gì cả. Em yêu, đó là cuộc đời anh khi thiếu vắng em. Anh khao khát em một lần nữa chỉ cho anh thấy thế nào là sống.
Anh cố nhớ lại chúng ta từng như thế nào, trên sàn con thuyền Happenstance hiu hiu gió thổi. Em có nhớ chúng ta đã cùng làm việc bên con thuyền như thế nào không? Chúng ta trở thành một phần của đại dương khi chúng ta khôi phục nó, vì cả hai ta đều biết chính đại dương đã đưa chúng ta đến với nhau. Chính những lúc như vậy anh mới hiểu ý nghĩa của hạnh phúc đích thực. Đêm đến, chúng ta lái thuyền đi trên dòng nước đen thẫm, anh ngắm nhìn ánh trăng phản chiếu vẻ đẹp của em. Anh ngắm em với lòng tôn thờ và, từ trong tim, anh biết rằng chúng ta sẽ bên nhau mãi mãi. Phải chăng, anh tự hỏi, khi hai người yêu nhau vẫn luôn như vậy? Anh cũng không biết nữa, nhưng nếu cuộc đời anh đã sống kể từ khi em bị cướp khỏi tay anh có thể là dấu hiệu, thì anh nghĩ anh biết câu trả lời. Kể từ giờ trở đi, anh biết là anh sẽ đơn độc.
Anh nghĩ về em, anh mơ về em, anh mường tượng ra em khi anh cần em nhất. Đó là tất cả những gì anh có thể làm, nhưng với anh thế là chưa đủ. Sẽ chẳng bao giờ là đủ, điều này thì anh hiểu, nhưng anh biết làm gì khác nữa? Nếu em ở đây, em sẽ bảo anh, nhưng ngay cả chuyện đó anh cũng đã bị lấy mất. Em luôn biết cách nói để làm dịu đi nỗi đau mà anh cảm thấy. Em vẫn luôn biết cách làm anh cảm thấy dễ chịu trong lòng.
Liệu em có biết được anh cảm thấy ra sao khi không có em? Khi anh mơ về em, anh thích nghĩ rằng em biết được. Trước khi chúng ta đến với nhau, anh xê dịch giữa dòng đời chẳng có ý nghĩa, chẳng có lý do. Anh biết rằng vì sao đó mà mỗi bước chân anh kể từ lúc biết đi là một bước tiến lên để tìm thấy em. Số phận đã sắp đặt cho chúng ta bên nhau.
Nhưng giờ đây, một mình trong căn nhà của mình, anh đã nhận ra rằng số phận có thể làm người ta đau đớn y như nó có thể làm người ta hạnh phúc, và anh thấy mình tự hỏi tại sao – giữa tất cả những người trên cõi đời này mà anh từng có thể yêu – anh lại yêu một người sẽ bị cướp đi khỏi anh.
Garrett
Đọc xong lá thư, cô ngả người lên ghế và đặt mấy ngón tay lên môi. Tiếng động từ phòng biên tập tin tức dường như vẳng tới từ một nơi nào đó xa lắc. Cô với tay lấy túi, tìm thấy lá thư đầu tiên, và đặt cả hai cạnh nhau trên bàn. Cô đọc lá thư đầu tiên, rồi đến lá thư thứ hai, rồi đọc theo trình tự ngược lại, cảm thấy mình như một kẻ nhìn trộm vậy, như thể cô đang nghe lén một khoảnh khắc riêng tư, chứa đầy bí mật.
Cô đứng dậy khỏi bàn, cảm thấy rã rời một cách kỳ lạ. Đến chỗ máy bán hàng tự động, cô mua cho mình một lon nước táo, cố gắng hiểu những cảm xúc trong lòng. Tuy nhiên, khi quay trở lại, chân cô đột nhiên trở nên loạng choạng, cô liền ngồi phịch xuống ghế. Nếu không phải đang đứng ngay chỗ đó thì cô có cảm giác hẳn mình sẽ ngã ngay xuống sàn.
Hy vọng làm cho đầu óc tỉnh táo trở lại, cô bắt đầu lơ đãng dọn dẹp đống bừa bộn trên bàn. Bút bi cất vào ngăn kéo, các bài báo cô đã dùng để nghiên cứu cất vào các tập hồ sơ, dập ghim được nạp lại, bút chì được gọt sắc và cắm vào cái cốc cà phê trên bàn. Khi cô làm xong, chẳng còn gì nằm lạc chỗ ngoại trừ hai lá thư mà xem ra cô chưa đụng chạm gì đến cả.
Hơn một tuần trước cô nhặt được lá thư thứ nhất, và lời lẽ trong đó đã để lại ấn tượng sâu sắc, dù con người thực tế bên trong bắt cô phải vượt qua nó. Nhưng giờ đây điều đó dường như là không thể nữa. Không thể nữa sau khi tìm ra lá thư thứ hai, chắc hẳn là được viết bởi cùng một người. Còn lá thư nào nữa không? cô tự hỏi. Và cái người gửi chúng đi trong những cái chai là kiểu người gì? Việc một người khác, ba năm trước, vô tình bắt được một lá thư và giữ kín nó trong ngăn kéo của mình vì nó khiến cô ta xúc động dường như thật là kỳ diệu. Thế mà chuyện đó đã xảy ra. Nhưng tất cả chuyện này có ý nghĩa gì?
Cô biết mình không việc gì phải để ý đến nó quá, nhưng đột nhiên lại thành như thế. Cô vuốt tóc và nhìn khắp phòng. Ở chỗ nào cũng thấy mọi người đang hối hả. Cô mở lon nước táo và nhấp một ngụm, cố gắng hiểu chuyện gì đang diễn ra trong đầu. Cô vẫn chưa biết chắc đó chính xác là chuyện gì, và ước muốn duy nhất của cô là không ai đi tới bàn mình trong vòng hai phút tới cho đến khi cô hiểu rõ hơn mấy chuyện đó. Cô đút hai lá thư vào lại túi trong lúc dòng mở đầu của lá thư thứ hai lướt qua đầu.
Em đang ở đâu?
Cô thoát khỏi chương trình máy tính đang chạy để viết bài cho chuyên mục, và tuy vẫn còn nghi ngại, cô chọn một chương trình cho phép truy cập Internet.
Sau một lúc lưỡng lự, cô đánh dòng chữ
BÃI BIỂN WRIGHTSVILLE
vào chương trình tìm kiếm và nhấn phím Enter. Cô biết hẳn sẽ có thứ gì đó được liệt kê ra, và chưa đến năm giây sau cô đã có rất nhiều chủ đề khác nhau để lựa chọn.
Tìm thấy 3 kết quả phù hợp chứa cụm từ Bãi biển Wrightsville.
Hiển thị kết quả 1 – 3.
Các loại bản đồ xác định ranh giới – Các trang xác định ranh giới – Các trang Web ở Mariposa
Các loại bản đồ xác định ranh giới
Khu vực: Hoa kỳ: Bắc California: Thành phố: Bãi biển Wrightsville
Các trang xác định ranh giới
Khu vực: Hoa kỳ: Bắc California: Thành phố: Bãi biển Wrightsville: Bất động sản – Công ty bất động sản Ticar – còn có trụ sở tại bãi biển Wrightsville và bãi biển Carolina
Khu vực: Hoa kỳ: Bắc California: Thành phố: Bãi biển Wrightsville: phòng cho thuê
- Resort Bãi biển Cascade
Trong lúc nhìn chằm chằm vào màn hình, cô chợt cảm thấy mình thật nực cười. Dù cho Deanna có nói đúng và Garrett sống đâu đó ở khu vực bãi biển Wrightsville thì cũng sẽ gần như không thể xác định được nơi ở của anh ta. Thế thì tại sao cô cứ cố làm như vậy?
Đương nhiên là cô biết lý do. Những lá thư được viết bởi một người đàn ông yêu sâu sắc một người phụ nữ, một người đàn ông đang cô độc. Khi còn bé, cô đã từng tin là có người đàn ông lý tưởng – chàng hoàng tử hay hiệp sĩ trong những câu chuyện thời thơ ấu. Tuy nhiên, trong đời thực, những người đàn ông như vậy không hề tồn tại. Những con người thật có những vấn đề thật, những nhu cầu thật, những kỳ vọng thật với cách xử sự của người khác. Thật ra thì ngoài kia cũng có những người đàn ông tử tế - những người yêu bằng cả trái tim mình và kiên định khi phải đối mặt với những trở ngại – kiểu người mà cô muốn gặp từ khi cô và David ly hôn. Nhưng làm thế nào để tìm được người đàn ông như thế?
Ngay bây giờ và ngay tại đây, cô biết có một người đàn ông như thế tồn tại – một người đàn ông hiện đang cô độc – và việc biết được điều ấy khiến thứ gì đó bên trong cô thắt lại. Rõ ràng Catherine – dù là ai đi nữa – đã chết, hoặc ít ra là mất tích không một lời giải thích. Nhưng Garrett vẫn yêu cô ấy tới mức gửi cho cô ấy những bức thư tình trong suốt ba năm. Nếu không chứng tỏ được điều gì khác nữa thì anh ta cũng cho thấy rằng mình có thể yêu ai đó sâu đậm và, quan trọng hơn, vẫn hoàn toàn chung thủy cả khi người anh ta yêu đã ra đi rất lâu.
Em đang ở đâu?
Nó cứ vang lên trong đầu cô, như một bài hát mà cô đã nghe trên kênh phát thanh vào buổi sáng sớm rồi cứ lặp đi lặp lại suốt cả buổi chiều vậy.
Em đang ở đâu?
Cô không biết chính xác, nhưng anh ta có thật, và một trong những điều mà cô đã học được trong đời từ ngày trước là nếu khám phá ra một chuyện khiến cho có cái gì đó trong lòng người ta thắt lại thì tốt hơn hết là hãy cố tìm hiểu về nó nhiều hơn. Nếu cứ lờ tịt đi cảm giác đó, bạn sẽ chẳng bao giờ biết được chuyện gì có thể xảy ra, và ở nhiều mặt thì chuyện đó còn tệ hơn là phát hiện ra mình sai lầm ngay từ đầu. Vì nếu bạn sai lầm, bạn có thể cứ sống tiếp cuộc đời mình mà không hề ngoái nhìn lại và tự hỏi điều gì đã có thể xảy ra.
Nhưng tất cả những chuyện này sẽ dẫn tới đâu? Và nó có ý nghĩa gì? Việc khám phá ra bức thư có phải chính là định mệnh, hay đơn giản là một sự ngẫu nhiên? Hoặc có lẽ, cô nghĩ, nó chỉ là sự gợi nhắc tới cái mà cô đang thiếu trong đời. Cô lơ đãng xoắn tóc trong lúc suy ngẫm về câu hỏi cuối cùng. Được thôi, cô quyết định. Rồi sẽ quen thôi.
Nhưng cô vẫn tò mò về người viết bí ẩn kia, và phủ nhận điều đó cũng chẳng ích gì – ít ra là với bản thân cô. Và vì chẳng có ai khác hiểu (làm sao họ hiểu được, nếu đến cô cũng không hiểu?), cô quyết tâm ngay tại chỗ là sẽ không hé răng với ai về cảm giác của mình.
Em đang ở đâu?
Từ sâu thẳm cô biết những kết quả tìm kiếm của máy tính và việc bị hút vào anh chàng Garrett này chẳng dẫn tới đâu cả. Nó sẽ dần dần trở thành một câu chuyện khác thường mà cô sẽ kể đi kể lại. Cô sẽ tiếp tục sống cuộc đời của mình – viết bài cho chuyên mục, dành thời gian cho Kevin, làm tất cả những việc mà một bà mẹ đơn thân phải làm.
Và suýt nữa thì cô đã đúng. Cuộc đời cô hẳn sẽ diễn ra chính xác như cô hình dung. Nhưng chuyện xảy ra ba ngày sau đó đã khiến cô dấn thân tìm hiểu một việc chưa biết chỉ với một va li nhét đầy quần áo và một xấp giấy tờ có hoặc chẳng có ý nghĩa gì.
Cô phát hiện ra lá thư thứ ba của Garrett.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...