Lá Thư Trong Chai

Bốn ngày sau khi Theresa đi khỏi Wilmington, Garrett có một giấc mơ nữa, chỉ có điều lần này là về Catherine. Trong giấc mơ, họ ở trên đồng cỏ xanh rì được chắn bởi một vách đá trông ra biển. Họ đang bước đi bên nhau, tay trong tay và trò chuyện, Garrett nói điều gì đó khiến cô bật cười. Đột nhiên cô dứt khỏi Garrett. Ngoái nhìn lại và cười vang, cô kêu Garrett đuổi theo mình. Anh đuổi theo cô, cũng cười vang, cảm giác gần giống như trong ngày cưới của họ.
Nhìn cô chạy, anh nhận thấy cô mới đẹp nhường nào. Mái tóc bay phấp phới của cô phản chiếu ánh sáng của vầng mặt trời vàng rực đang lên cao, đôi chân cô không chút mỡ thừa và chuyển động nhịp nhàng, dễ dàng. Cô mỉm cười, dù đang chạy, trông cô thật thoải mái và thư thái, như thể đang đứng yên vậy.
“Đuổi theo em đi, Garrett. Bắt được em không?” cô gọi.
Tiếng cười sau câu nói của cô cứ bồng bềnh trong bầu không khí xung quanh anh, nghe thật du dương.
Anh đang từ từ bắt kịp thì nhận ra rằng cô đang tiến về phía vách đá. Trong nỗi phấn khích và hứng thú, có vẻ như cô không nhận ra là mình đang đi đâu.
Nhưng điều đó thật phi lý, anh nghĩ. Cô ấy phải biết chứ.
Garrett gọi cô dừng lại, nhưng thay vì thế cô lại càng chạy nhanh hơn.
Cô đang tiến tới gần mép vách đá.
Cảm thấy sợ hãi điều gì đó, anh thấy mình vẫn còn cách quá xa để có thể tóm được cô.
Anh chạy nhanh hết sức mình, hét gọi cô quay lại. Dường như cô không nghe thấy tiếng anh. Anh cảm thấy adrenaline chạy khắp cơ thể, được duy trì bởi nỗi sợ hãi đến tê liệt. “Dừng lại, Catherine!” anh hét lên, phổi cạn kiệt không khí. “Vách đá đấy - em không thấy là em đang đi đâu à!” Anh càng hét giọng anh càng yếu đi, cho đến lúc chỉ còn là tiếng thì thào.
Catherine vẫn chạy, không hề hay biết gì. Vách đá chỉ còn cách có vài bước chân.
Anh sắp kiệt sức.
Nhưng anh vẫn còn ở quá xa phía sau.
“Dừng lại!” anh lại hét lên, mặc dù lần này anh biết cô không nghe thấy. Giọng anh nhỏ dần đến lúc chẳng còn nghe thấy gì. Nỗi hoảng sợ anh cảm thấy vì thế lại lớn hơn bất cứ điều gì anh từng biết tới. Gắng hết sức, anh bắt đôi chân của mình chạy nhanh hơn, nhưng chúng lại bắt đầu rã rời, trở nên nặng nề hơn theo từng bước chạy.
Không kịp mất, anh nghĩ, kinh hoàng.
Rồi, cũng đột ngột như lúc dứt tay anh ra, cô dừng lại. Quay về phía anh, cô dường như chẳng hề biết gì về mối nguy hiểm.
Cô đứng cách mép vực chỉ có vài phân.
“Đừng cử động,” anh hét lên, nhưng âm thanh lại thoát ra thành một tiếng thì thào. Anh dừng lại cách cô vài bước và đưa tay ra, thở khó nhọc.
“Lại đây với anh,” anh nài nỉ. “Em đang đứng ngay trên mép vực kìa.”
Cô mỉm cười và liếc lại phía sau. Nhận thấy mình sắp ngã đến nơi, cô quay lại chỗ anh.
“Anh có nghĩ là anh sắp mất em không?”
“Có,” anh đáp khẽ, “nhưng anh hứa sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra nữa.”
Garrett tỉnh giấc và ngồi dậy trên giường, thức mãi suốt mấy tiếng sau đó. Cuối cùng, khi ngủ lại được thì cũng chỉ chập chờn, và sáng hôm sau lúc anh có thể dậy được thì đã gần mười giờ. Vẫn kiệt sức và cảm thấy chán nản, anh thấy khó có thể nghĩ về bất cứ thứ gì khác ngoài giấc mơ. Không biết phải làm gì, anh gọi cho bố, ông tới ăn sáng cùng anh ở quán quen của họ.
“Con không hiểu vì sao mình lại cảm thấy như vậy,” anh nói với ông sau vài phút chuyện trò linh tinh. “Con không hiểu nổi.”
Bố anh không trả lời. Thay vì thế ông quan sát con trai qua tách cà phê, vẫn im lặng trong lúc anh nói tiếp.
“Không phải cô ấy đã làm chuyện gì khiến con buồn bực,” anh nói tiếp. “Chỉ là bọn con có một kỳ nghỉ cuối tuần dài bên nhau, và con thật sự quan tâm đến cô ấy. Con cũng đã gặp con trai cô ấy, và thằng bé rất tuyệt. Chỉ có thế thôi… Con không hiểu. Con không biết liệu con có thể duy trì chuyện này được không nữa.”
Garrett ngừng lại. Chỉ còn tiếng từ các bàn xung quanh họ.
“Duy trì cái gì?” Cuối cùng Jeb Blake cũng lên tiếng.
Garrett lơ đãng khuấy tách cà phê. “Con không biết liệu con có nên gặp lại cô ấy không.”
Bố anh nhếch một bên lông mày lên nhưng không trả lời. Garrett nói tiếp.
“Có lẽ bọn con không phải sinh ra để dành cho nhau. Ý con là, thậm chí cô ấy còn chẳng sống ở đây. Cô ấy sống cách đây hàng nghìn cây số, cô ấy có cuộc sống riêng và có những mối quan tâm riêng. Còn con thì ở đây, sống tận dưới này và có một cuộc sống hoàn toàn khác. Có lẽ cô ấy sẽ hợp với ai đó khác, ai đó cô ấy có thể gặp thường xuyên.”
Anh nghĩ về những điều vừa nói, biết rằng chính mình cũng chẳng tin lắm. Nhưng anh vẫn không muốn kể với bố về giấc mơ.
“Ý con là, làm sao chúng ta có thể xây dựng một mối quan hệ nếu chúng ta không gặp gỡ nhau thường xuyên đúng không?”
Bố anh lại không nói gì. Garrett vẫn tiếp tục, như thể đang độc thoại.
“Nếu cô ấy sống ở đây và con có thể gặp cô ấy hằng ngày, con nghĩ con sẽ thấy khác. Nhưng khi cô ấy đi rồi…”
Anh nói nhỏ dần, cố hiểu những suy nghĩ của chính mình. Lát sau anh lại nói.
“Con chỉ không biết bọn con sẽ phải làm thế nào để duy trì quan hệ. Con đã nghĩ về chuyện đó rất nhiều, và con không thấy có cách nào để làm được. Con không muốn chuyển tới Boston, và con chắc chắn là cô ấy cũng không muốn về đây, thế thì chuyện này sẽ dẫn bọn con tới đâu chứ?”
Garrett dừng lại và đợi cho bố anh nói gì đó - bất cứ điều gì - để đáp lại những lời anh nói cho đến lúc đó. Nhưng một lúc sau, ông vẫn không nói một lời nào. Cuối cùng ông thở dài và nhìn đi chỗ khác.
“Bố nghe như thể con đang bao biện vậy,” Jeb nói nhỏ. “Con đang cố thuyết phục bản thân, và dùng bố làm cớ lắng nghe chính mình nói.”
“Không, bố, con đâu có thế. Con chỉ đang cố gắng hiểu toàn bộ chuyện này.”
“Con nghĩ mình đang nói chuyện với ai, Garrett?” Jeb Blake lắc đầu. “Nhiều lúc, bố thề là con nghĩ bố khù khờ và chẳng biết gì về sự đời. Nhưng bố biết chính xác cái mà con đang trải qua. Con đã quen ở một mình đến mức con sợ những gì có thể xảy đến nếu thật sự tìm được người có thể dứt con ra tình trạng đó.”
“Con không sợ,” Garrett phản đối.
Bố anh gay gắt ngắt lời anh. “Con thậm chí không thể thừa nhận điều đó với chính mình phải không?”
Vẻ thất vọng trong giọng nói của ông không lẫn đi đâu được. “Con biết không, Garrett, khi mẹ con mất, bố cũng đã viện cớ nọ cớ kia. Qua nhiều năm, bố tự nhủ đủ điều. Và con có muốn biết điều đó đã đưa bố đến đâu không?”
Ông nhìn con trai chằm chằm. “Bố già nua, mệt mỏi, và trên hết bố cô đơn. Nếu có thể quay ngược lại thời gian thì bố sẽ thay đổi nhiều điều ở bản thân, và bố đáng bị nguyền rủa nếu bố để cho con lặp lại cái việc y như bố đã làm.”
Jeb ngừng lời trước khi nói tiếp, giọng ông dịu lại. “Bố đã sai, Garrett ạ. Bố đã sai khi không cố tìm kiếm một người nào khác. Bố đã sai khi cảm thấy có lỗi với mẹ con. Bố đã sai khi cứ sống cuộc đời như đã sống, trong lòng luôn dằn vặt và tự hỏi liệu bà ấy sẽ nghĩ gì. Vì con biết sao không? Bố nghĩ mẹ con hẳn sẽ muốn bố tìm một người khác. Mẹ con hẳn sẽ muốn bố được hạnh phúc. Và con biết tại sao không?”
Garrett không trả lời.
“Vì mẹ con yêu bố. Và nếu con nghĩ rằng con đang thể hiện tình yêu với Catherine bằng cái cách đau khổ như con đang làm thì hẳn là bố đã sai lầm ở đâu đó trong quãng đời nuôi dạy con lớn lên.”
“Bố không sai lầm…”
“Hẳn là có. Vì khi nhìn con, bố thấy chính mình, và nói thật, bố thà nhìn ai đó khác còn hơn. Bố muốn nhìn thấy một người hiểu được rằng việc sống tiếp là bình thường, rằng tìm kiếm ai đó làm cho mình hạnh phúc là chuyện bình thường. Nhưng ngay lúc này đây, cứ như thể bố đang nhìn vào gương mà thấy chính mình hai mươi năm trước vậy.”
Suốt phần buổi chiều còn lại Garrett ở một mình, đi bộ trên bãi biển, nghĩ về những gì bố anh đã nói. Nhớ lại, anh biết mình đã không thành thật ngay từ đầu cuộc nói chuyện và không ngạc nhiên là bố anh đã đoán ra. Thế thì tại sao anh lại muốn nói chuyện với ông? Phải chăng anh muốn ông chất vấn anh như ông đã làm?
Khi buổi chiều dần trôi qua, nỗi chán nản trong anh nhường chỗ cho sự bối rối, rồi tới một dạng tê liệt. Tới lúc anh gọi cho Theresa vào buổi tối, những cảm giác về sự phản bội mà anh cảm thấy, vốn là hệ quả của giấc mơ, đã lắng xuống đủ để anh có thể nói chuyện với cô. Chúng vẫn ở đó, dù không còn mạnh như trước, và khi cô bắt máy, anh cảm thấy chúng giảm xuống hơn nửa. Giọng nói của cô nhắc anh nhớ tới cảm xúc của anh khi họ ở bên nhau.
“Em mừng là anh đã gọi,” cô nói vui vẻ, “hôm nay em đã nghĩ tới anh rất nhiều.”
“Anh cũng nghĩ về em,” anh nói. “Anh ước gì lúc này em đang ở đây.”
“Anh ổn chứ? Nghe giọng anh có vẻ hơi buồn?”
“Anh ổn… Chỉ cô đơn thôi. Hôm nay em thế nào?”
“Như mọi khi. Quá nhiều việc phải làm ở cơ quan, quá nhiều việc phải làm ở nhà. Nhưng giờ nghe anh gọi thì đỡ hơn rồi.”
Garrett mỉm cười. “Kevin có ở đó không?”
“Nó đang trong phòng riêng, đọc một cuốn sách về môn lặn có bình dưỡng khí. Nó bảo em là khi lớn lên nó muốn trở thành huấn luyện viên dạy lặn.”
“Nó lấy đâu ra ý tưởng đó vậy?”
“Em cũng chịu,” cô nói, giọng có vẻ thích thú. “Thế còn anh? Hôm nay anh đã làm gì?”
“Thật ra cũng không có gì nhiều lắm. Anh không tới cửa hàng - gần như là trốn một ngày làm mà đi lang thang ngoài bãi biển.”
“Mơ về em, em hy vọng là thế.”
Tính mỉa mai của câu nói ấy không lọt khỏi tâm trí anh. Anh không trả lời thẳng.
“Hôm nay anh thật sự nhớ em.”
“Em mới đi có vài ngày thôi mà,” cô nói nhẹ nhàng.
“Anh biết. Mà này, nhân nói về chuyện đó, khi nào thì chúng ta lại được gặp nhau?”
Đang ngồi bên bàn ăn, Theresa liền liếc cuốn sổ ghi lịch làm việc của cô.
“Ừm… ba tuần nữa thì sao? Em đang nghĩ là lần này anh có thể tới đây. Kevin sẽ tham gia hội trại bóng đá kéo dài một tuần, và có thể chúng ta sẽ có chút thời gian riêng tư.”
“Thay vì thế em có muốn về đây không?”
“Anh lên đây thì hay hơn, nếu được. Em hết thời gian nghỉ phép rồi, và em nghĩ là chúng ta có thể sắp xếp theo lịch làm việc của em. Mà hơn nữa, em nghĩ cũng đến lúc anh rời khỏi Bắc Carolina rồi, có thế anh mới thấy những nơi còn lại của đất nước có thể đem đến những gì chứ.”
Trong lúc cô nói, anh thấy mình nhìn vào tấm ảnh Catherine đặt trên chiếc kệ đầu giường. Vài giây sau anh mới trả lời. “Được… Anh nghĩ anh có thể đi.”
“Nghe anh nói có vẻ không chắc lắm.”
“Chắc mà.”
“Có chuyện gì khác nữa không?”
“Không.”
Cô ngừng lại vẻ hoài nghi. “Thật sự là anh không sao chứ, Garrett?”
Phải mất mấy ngày và mấy cuộc gọi nữa cho Theresa, anh mới cảm thấy tương đối bình thường trở lại. Hơn một lần anh gọi điện vào lúc khuya chỉ để nghe thấy giọng nói của cô.
“Chào em,” anh nói, “lại là anh đây.”
“Chào anh, Garrett, có chuyện gì thế?” cô hỏi giọng ngái ngủ.
“Không có gì quan trọng đâu. Anh chỉ muốn chúc em ngủ ngon trước khi em lên giường thôi mà.”
“Em lên giường rồi.”
“Mấy giờ rồi?”
Cô liếc đồng hồ. “Gần nửa đêm.”
“Sao em vẫn còn thức? Em phải đi ngủ rồi chứ,” anh trêu cô, đoạn để cô cúp máy cho cô có thể nghỉ ngơi.
Đôi khi, nếu không ngủ được, anh sẽ nghĩ về tuần đầu tiên ở bên Theresa, nhớ xem cảm giác da thịt cô khi anh chạm vào tuyệt vời ra sao, khao khát lại được ôm cô đến khó cưỡng.
Rồi, đi vào phòng ngủ, anh lại thấy bức ảnh Catherine cạnh giường. Và lúc đó giấc mơ kia lại hiện lên rõ mồn một.
Anh biết là mình vẫn bị giấc mơ đó làm cho rối loạn. Trong quá khứ hẳn là anh đã viết một lá thư cho Catherine để giúp mình nhận thức được toàn cục. Rồi sau đó, lái con thuyền Happenstance đi theo đúng lộ trình mà anh và Catherine đã đi lần đầu tiên sau khi nó được sửa chữa, anh sẽ nhốt giấc mơ ấy lại và ném nó ra giữa biển.
Lạ thay, lần này anh không thể làm thế. Khi anh ngồi xuống viết, lời lẽ cứ đi đâu hết. Cuối cùng, khi đã nản, thay vì viết anh bắt mình phải nhớ lại.
“Ngạc nhiên chưa này,” Garrett vừa nói vừa chỉ vào cái đĩa của Catherine. Trên đó, cô chất đầy xa lát rau chân vịt từ cái quầy giải khát trước mặt.
Catherine nhún vai vẻ không thèm chấp. “Muốn ăn xa lát thì có gì sai?”
“Chẳng có gì sai cả,” anh vội nói. “Có điều tuần này em ăn tới ba lần rồi.”
“Em biết. Tại em cứ thấy thèm. Em không biết tại sao.”
“Cứ tiếp tục ăn như thế này, em sẽ biến thành thỏ đấy.”
Cô bật cười và rưới nước xốt. “Nếu vậy,” Cô nói, nhìn vào đĩa của anh, “anh cứ ăn hải sản như thế thì anh sẽ biến thành cá mập.”
“Anh là cá mập rồi,” anh nói, trợn mắt lên.
“Có thể anh là cá mập, nhưng nếu anh cứ chọc em, anh sẽ không bao giờ có cơ hội chứng minh điều đó với em đâu.”
Anh mỉm cười. “Sao anh không chứng minh điều đó vào cuối tuần này nhỉ?”
“Khi nào? Cuối tuần này anh phải làm việc mà.”
“Không phải cuối tuần này. Em có tin được không, anh đã dẹp hết lịch làm việc lại để chúng ta có thể ở bên nhau một chút. Chúng ta đã không ở riêng với nhau suốt kỳ nghỉ cuối tuần từ lúc nào anh cũng không nhớ nữa.”
“Anh có kế hoạch gì rồi?”
“Anh không biết. Có lẽ là đi thuyền, có lẽ là việc gì khác. Bất cứ việc gì em muốn làm.”
Cô bật cười. “Ừm, em đã có vài kế hoạch lớn - đi tới Paris để mua sắm một chút, một hoặc hai chuyến săn thú rừng châu Phi chóng vánh… nhưng em đoán là em có thể sắp xếp lại.”
“Thế thì ta sẽ hẹn hò rồi.”
Nhiều ngày trôi qua, hình ảnh giấc mơ bắt đầu phai nhạt. Mỗi lần nói chuyện với Theresa, Garrett lại nhận thấy mình hồi phục lại một chút. Anh cũng nói chuyện với Kevin đôi lần, và sự háo hức của thằng bé về việc Garrett sẽ hiện diện trong cuộc sống hai mẹ con cũng giúp anh lấy lại thăng bằng. Mặc dù cái nóng ẩm tháng Tám dường như khiến thời gian trôi đi chậm hơn bình thường, anh vẫn cố gắng giữ cho bản thân càng bận càng tốt, cố hết sức không nghĩ tới sự phức tạp trong hoàn cảnh mới của anh.
Hai tuần sau - vài ngày trước khi đi Boston - Garrett đang nấu ăn trong bếp thì điện thoại reo.
“Hây, người xa lạ,” cô nói. “Rảnh mấy phút không anh?”
“Với em thì lúc nào anh cũng có mấy phút rảnh để nói chuyện.”
“Em chỉ gọi tới để xem mấy giờ thì chuyến bay của anh tới. Lần trước nói chuyện anh chưa chắc lắm.”
“Chờ chút nhé,” anh nói, lục lọi khắp ngăn kéo tủ bếp để tìm giấy ghi hành trình của mình. “Đây rồi - anh sẽ tới Boston lúc hơn một giờ.”
“Thế thì quá ổn. Em phải đưa Kevin tới nơi vài tiếng trước đó, và như thế sẽ cho em thời gian để sắp xếp lại căn hộ.”
“Lau dọn vì anh à?”
“Anh sẽ được tiếp đãi tử tế. Thậm chí em sẽ lau chùi cả bàn ghế.”
“Anh thấy thật vinh hạnh.”
“Anh nên thế. Chỉ có anh và bố mẹ em mới được săn sóc như thế thôi đấy.”
“Anh có nên đeo một đôi găng tay trắng để đảm bảo là em làm tốt công việc đó không?”
“Nếu làm thế thì anh sẽ không còn sống sót để nhìn thấy buổi tối đâu.”
Anh bật cười và đổi chủ đề. “Anh đang nóng lòng được gặp em đây,” anh nói tha thiết. “Ba tuần vừa rồi khó khăn hơn nhiều so với hai tuần đầu.”
“Em biết. Em có thể nghe ra điều đó trong giọng nói của anh. Anh đã buồn bã mất mấy ngày, và… ừm, em đã bắt đầu thấy lo lắng về anh.”
Anh tự hỏi liệu cô có nghi ngờ về nguyên cớ nỗi buồn của anh không. Trấn tĩnh lại, anh nói tiếp. “Đúng thế, nhưng giờ thì anh đã vượt qua. Anh đóng gói hành lý rồi.”
“Em mong là anh không dành chỗ cho những thứ không cần thiết.”
“Như là gì?”
“Như là… em không biết nữa. Pijama chẳng hạn.”
Anh bật cười. “Anh không có bộ pijama nào cả.”
“Thế thì tốt. Vì nếu có thì anh cũng sẽ không cần dùng đến đâu.”
Ba ngày sau, Garrett Blake tới Boston.
Sau khi đón anh ở sân bay, Theresa đưa anh đi thăm thành phố. Họ ăn trưa ở Faneuil Hall, xem những người chèo thuyền lướt đi trên sông Charles và đi dạo một vòng quanh khu trường sở của Harvard. Như mọi lần, họ nắm tay nhau hầu như suốt cả ngày, thích thú khi được đi cùng nhau.
Có đến hơn một lần, Garrett tự hỏi ba tuần qua sao lại khó khăn với anh đến thế. Anh biết rằng một phần nỗi lo lắng của mình là do giấc mơ kia gây ra, nhưng thời gian ở bên Theresa khiến cho cảm giác bất an về giấc mơ đó dường như trở nên xa xăm và không có thực. Mỗi lần Theresa cười hoặc siết tay anh là cô lại xác nhận những cảm giác của anh khi cô ở Wilmington lần trước, xua đuổi những ý nghĩ u ám đã quấy rầy anh khi cô vắng mặt.
Khi ngày mát dần và mặt trời lặn xuống dưới rặng cây, Theresa và Garrett dừng lại để mua một chút đồ ăn Mexico về nhà cô. Ngồi trên sàn phòng khách dưới ánh nến, Garrett nhìn khắp căn phòng.
“Nhà em đẹp thật,” anh nói, xúc ít đậu bằng miếng bánh bắp giòn. “Không hiểu sao, anh cứ ngỡ nó nhỏ hơn thế này cơ. Nó to hơn cả nhà anh.”
“Chỉ hơn chút thôi, nhưng cảm ơn anh. Nó vừa với mẹ con em. Nó thật sự tiện lợi cho mọi việc.”
“Như là gần các nhà hàng!”
“Chính xác. Em không nói đùa đâu, em đã bảo với anh là em không thích nấu nướng mà. Em không hẳn là một Martha Stewart đâu.”
“Ai cơ?”
“Không có gì,” cô nói.
Bên ngoài căn hộ của cô, tiếng xe cộ nghe vẫn rõ rệt. Một chiếc xe rít lên dưới phố, một tiếng còi vang lên om sòm, và đột nhiên bầu không khí tràn ngập tiếng ồn khi những chiếc xe khác cũng tham gia vào bản đồng ca.
“Nó vẫn luôn yên tĩnh thế này à?” anh hỏi.
Cô hất cằm về phía mấy cái cửa sổ. “Tối thứ Sáu và thứ Bảy là tệ nhất, chứ thường thì nó không đến nỗi thế. Nhưng sống ở đây đủ lâu thì anh sẽ quen thôi.”
Những âm thanh của cuộc sống đô thị vẫn tiếp nối. Một tiếng còi báo động vang lên ở đằng xa, dần dần trở nên to hơn khi tiến lại gần.
“Em có muốn bật nhạc lên chút không?” Garrett hỏi.
“Có. Anh thích loại nhạc nào?”
“Anh thích cả hai loại,” anh nói, ngừng lại một cách rất kịch. “Nhạc đồng quê và nhạc cao bồi.”
Cô bật cười. “Em chẳng có thứ gì như vậy ở đây cả.”
Anh lắc đầu, thưởng thức trò đùa của chính mình. “Anh đùa đấy. Trò này xưa rồi. Không buồn cười lắm, nhưng anh chờ bao năm mới có cơ hội để nói đấy.”
“Hẳn là hồi còn bé anh đã xem quá nhiều phim Hee-Haw.”
Giờ thì đến lượt anh bật cười.
“Trở lại với câu hỏi đầu tiên - anh thích loại nhạc nào?” cô gặng hỏi.
“Bất cứ loại gì em có đều được.”
“Nhạc jazz được không?”
“Nghe hay đấy.”
Theresa đứng dậy chọn một cái đĩa mà cô nghĩ có lẽ anh sẽ thích và đẩy vào đầu CD. Giây lát sau, nhạc vang lên, đúng lúc sự ùn tắc ngoài đường có vẻ như đã thông.
“Vậy cho đến lúc này anh thấy Boston thế nào?” cô hỏi, trở lại chỗ ngồi của mình.
“Anh thích nó. Với một thành phố lớn, nó cũng không tệ lắm. Có vẻ như nó không vô cảm như anh tưởng, và cũng sạch sẽ nữa. Anh vốn hình dung nó khác cơ. Em biết đấy - những đám đông, nhựa đường, cao ốc, không một bóng cây, và ở góc phố nào cũng có bọn trấn lột. Nhưng nó không hề giống như vậy.”
Cô mỉm cười. “Nó đẹp phải không nào? Ý em là tuy không phải là miền duyên hải nhưng nó có nét hấp dẫn riêng đấy chứ. Nhất là, anh phải xem thành phố này đem đến những gì cơ. Anh có thể đi xem hòa nhạc, hoặc đi thăm viện bảo tàng, hoặc chỉ là đi dạo ở các công viên. Ở đây ai cũng đều tìm được thứ gì đó cho mình - người ta còn có cả một câu lạc bộ thuyền buồm nữa.”
“Anh có thể hiểu vì sao em lại thích ở đây,” anh nói, tự hỏi tại sao nghe như thể cô đang quảng cáo cho chỗ này vậy.
“Vâng. Cả Kevin cũng thích.”
Anh chuyển chủ đề. “Em bảo là nó đi hội trại bóng đá à?”
Cô gật đầu. “Vâng. Nó đang thi vào một đội tuyển bóng dành cho lứa tuổi mười hai trở xuống. Em không biết liệu nó có vào được không, nhưng nó nghĩ là nó sút khá tốt. Năm ngoái, nó đã vào tới vòng cuối với độ tuổi mười một.”
“Nghe có vẻ như nó chơi tốt.”
“Đúng thế,” cô nói, gật đầu. Cô đẩy hai cái đĩa giờ đã sạch nhẵn của họ sang bên và dịch sát lại. “Nhưng nói về Kevin thế là đủ rồi,” cô dịu dàng nói. “Chúng ta không nhất thiết lúc nào cũng nói về thằng bé. Chúng ta có thể nói về những chuyện khác nữa mà.”
“Như là gì?”
Cô hôn lên cổ anh. “Như là chuyện mà em muốn làm với anh ngay bây giờ, khi em đang có anh cho riêng mình.”
“Em có chắc là em chỉ muốn nói về chuyện đó không?”
“Anh nói đúng,” cô thì thầm. “Ai lại muốn nói chuyện vào lúc như thế này chứ?”
Ngày hôm sau, Theresa lại đưa Garrett đi thăm Boston, họ dành phần lớn buổi sáng trong khu người Ý ở North End, đi dạo qua những con phố hẹp, ngoắt ngoéo, thỉnh thoảng dừng lại để mua bánh cannoli và cà phê. Mặc dù biết là cô viết chuyên mục cho báo, Garrett vẫn chưa biết chính xác công việc của cô đòi hỏi điều gì khác nữa. Anh hỏi cô về chuyện đó trong lúc họ thong dong đi khắp thành phố.
“Em không viết bài ở nhà được à?”
“Trong tương lai, em nghĩ là em có thể. Nhưng ngay bây giờ thì không được.”
“Tại sao không?”
“Ừm. Trước hết là vì hợp đồng của em không phải như vậy. Hơn nữa, em phải làm nhiều việc hơn là ngồi trước máy tính và viết. Thường thì em phải phỏng vấn người ta, nên cũng phải có thời gian cho việc đó - có khi còn phải đi đi lại lại. Ngoài ra, em còn phải tiến hành nghiên cứu đủ loại, nhất là khi viết về những vấn đề y học hay tâm lý học, mà ở văn phòng thì em có thể tiếp cận được với nhiều nguồn thông tin hơn. Rồi thì thực tế là em cần một nơi mà người ta có thể tìm được em. Nhiều vấn đề em viết cũng là mối quan tâm của mọi người nên người ta gọi tới cho em suốt. Nếu làm việc tại nhà, em biết sẽ có nhiều người gọi tới vào buổi tối khi em đang ở cùng Kevin, mà em thì không muốn để mất thời gian ở bên con.”
“Bây giờ em có phải nhận điện thoại ở nhà không?”
“Thỉnh thoảng. Nhưng số điện thoại nhà riêng của em không bị đưa vào danh bạ, nên cũng không thường xuyên lắm.”
“Em có phải nhận những cuộc gọi điên rồ không?”
Cô gật đầu. “Em nghĩ là tất cả những người viết bài chuyên mục đều bị thế. Nhiều người gọi cho tòa báo với những câu chuyện mà họ muốn được đăng. Em nhận được cuộc gọi về những người đang bị giam trong tù không đáng, em nhận được cuộc gọi về các dịch vụ của thành phố và về chuyện rác không được thu dọn đúng giờ. Em nhận được cuộc gọi về tội ác ngoài đường phố. Có vẻ như em nhận được điện thoại về đủ thứ chuyện trên đời.”
“Anh tưởng em bảo em viết về việc làm cha mẹ thôi cơ mà.”
“Đúng thế.”
“Thế thì tại sao họ lại gọi cho em? Sao họ không gọi cho người khác?”
Cô nhún vai. “Em chắc là họ có làm thế, nhưng điều đó vẫn không ngăn được họ gọi cho em. Nhiều người bắt đầu cuộc điện thoại bằng câu, ‘Chẳng có ai chịu nghe tôi nói cả và cô là hy vọng cuối cùng của tôi.’ ” Cô liếc nhìn anh trước khi nói tiếp. “Em đoán là họ nghĩ em sẽ có thể làm được gì đó với những vấn đề của họ.”
“Tại sao?”
“Ừm, những người viết bài chuyên mục thì khác với những người viết báo khác. Hầu hết những gì được đăng trên báo đều vô cảm - số liệu và sự kiện, thông tin rõ ràng, kiểu như thế. Nhưng nếu người ta đọc chuyên mục của em hằng ngày, em đoán là họ nghĩ họ hiểu em. Họ bắt đầu xem em kiểu như một người bạn. Và người ta tìm tới bạn bè để giúp khi người ta cần.”
“Điều đó thỉnh thoảng hẳn khiến em khó xử nhỉ.”
Cô nhún vai. “Đúng thế, nhưng em cố không nghĩ tới nó. Hơn nữa, cũng có những phần tốt đẹp trong công việc của em - cung cấp thông tin mà người ta cần sử dụng, cập nhật thông tin y học mới nhất và giải thích bằng ngôn ngữ thông dụng, thậm chí chia sẻ những mẩu chuyện vui chỉ để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút.”
Garrett dừng lại ở một cửa hàng bán hoa quả tươi trên vỉa hè. Anh nhặt hai quả táo trong thùng lên đưa cho Theresa.
“Bài nổi tiếng nhất em từng viết trong chuyên mục của em là gì?” anh hỏi.
Theresa cảm thấy nghẹt thở. Bài nổi tiếng nhất? Dễ thôi - có lần em nhặt được một lá thư trong chai, và em đã nhận được mấy trăm thư.
Cô ép mình phải nghĩ về chuyện gì đó khác. “À… em đã nhận được rất nhiều thư khi em viết về việc dạy trẻ khuyết tật,” cuối cùng cô nói.

“Bài đó hẳn là đáng đọc lắm,” anh nói, trả tiền cho người bán hàng.
“Vâng.”
Trước khi cắn miếng táo đầu tiên, Garrett hỏi: “Em vẫn có thể viết chuyên mục của mình dù đổi tòa báo chứ?”
Cô suy ngẫm về câu hỏi đó. “Sẽ khó đấy, nhất là nếu em lại muốn tiếp tục cung cấp bài cho nhiều báo cùng đăng một lúc. Vì em còn là người mới và vẫn đang gây dựng tên tuổi, có tờ Thời báo Boston hỗ trợ phía sau sẽ giúp ích cho em nhiều. Nhưng sao?”
“Anh chỉ tò mò thôi,” anh hỏi khẽ.
Sáng hôm sau, Theresa đi làm vài tiếng nhưng tạt về nhà sau bữa trưa một lát. Buổi chiều họ đến công viên Boston, ăn bữa trưa kiểu picnic ở đó. Bữa trưa của họ bị ngắt quãng hai lần bởi những người nhận ra cô qua ảnh trên báo, và Garrett nhận ra rằng Theresa thật sự nổi tiếng hơn anh tưởng.
“Anh không biết rằng em là một ngôi sao cơ đấy,” anh nói vẻ chế giễu sau khi người thứ hai đi khỏi.
“Em không hẳn là một ngôi sao. Chỉ là ảnh của em đăng ở trên chuyên mục, vì thế người ta mới biết mặt em.”
“Chuyện như thế này có hay xảy ra không?”
“Không nhiều lắm. Có lẽ vài lần một tuần.”
“Thế là nhiều rồi,” anh nói, vẻ kinh ngạc.
Cô lắc đầu. “Không nhiều nếu anh để ý so sánh với những ngôi sao thực thụ. Họ thậm chí còn không thể tới cửa hàng mà không bị ai đó chụp ảnh. Em còn có một cuộc sống khá là bình thường rồi đấy.”
“Nhưng có những người hoàn toàn xa lạ đến gần em thì vẫn kỳ kỳ thế nào ấy.”
“Thật ra thì cũng khá thích đấy. Hầu hết mọi người đều cư xử khá dễ chịu.”
“Dù thế nào thì anh cũng mừng là anh không biết em nổi tiếng đến thế ngay từ đầu.”
“Tại sao?”
“Có lẽ anh đã sợ đến mức chẳng dám mời em đi thuyền cùng.”
Cô đưa tay ra nắm lấy tay anh. “Em không thể tưởng tượng nổi là anh có thể sợ bất cứ thứ gì.”
“Thế thì em chưa hiểu anh lắm rồi.”
Cô im lặng một lát. “Thật sự là anh sẽ sợ hãi à?” cô hỏi bẽn lẽn.
“Có lẽ.”
“Tại sao?”
“Anh đoán là anh sẽ tự hỏi một người như em thì thấy gì ở anh chứ?”
Cô ngả qua hôn anh. “Em sẽ nói cho anh biết điều mà em thấy nhé. Em thấy người đàn ông em yêu, người đàn ông làm cho em hạnh phúc…. Người mà em cứ muốn nhìn thấy mãi thôi.”
“Sao em lại luôn biết phải nói gì thế nhỉ?”
“Vì,” cô nói khẽ, “em hiểu anh nhiều hơn là anh có thể ngờ tới.”
“Ví dụ?”
Một nụ cười uể oải thoảng qua môi cô. “Ví dụ như, em biết anh lại đang muốn em hôn anh.”
“Thật à?”
“Đương nhiên.”
Và cô đoán đúng.
Tới buổi tối, Garrett nói, “Em biết không, Theresa, anh không tìm ra được khuyết điểm nào ở em cả.”
Họ đang nằm trong bồn tắm cùng nhau, giữa đống bọt khổng lồ, Theresa ngả vào ngực anh. Anh vừa nói vừa dùng một miếng bọt biển để kỳ cọ cho cô.
“Câu đó phải được hiểu như thế nào?” cô hỏi vẻ tò mò, quay đầu lại nhìn anh.
“Như anh vừa nói thôi. Anh không tìm ra được khuyết điểm nào ở em cả. Ý anh là, em thật hoản hảo.”
“Em không hoàn hảo đâu, Garrett,” cô nói, nhưng vẫn thấy hài lòng.
“Nhưng đúng là thế mà. Em đẹp, em tử tế, em khiến anh cười, em thông minh, và em cũng một người mẹ tốt nữa. Thêm cả việc em nổi tiếng nữa thì anh không nghĩ là có ai sánh nổi em.”
Cô vuốt ve cánh tay anh, tựa vào anh nghỉ ngơi. “Em nghĩ là anh nhìn em qua lăng kính màu hồng mất rồi. Nhưng em thích thế…”
“Em định bảo là anh thiên vị à?”
“Không - nhưng tới giờ anh chỉ thấy mặt tốt của em thôi.”
“Anh không biết là em còn có mặt khác nữa kia,” anh nói, cùng lúc siết chặt hai cánh tay cô. “Ngay lúc này thì có cảm giác là cả hai mặt đều tốt cả.”
Cô bật cười. “Anh hiểu ý em muốn nói gì mà. Anh vẫn chưa thấy mảng tối trong con người em đâu.”
“Em chẳng có mảng tối nào cả.”
“Chắc chắn là em có chứ. Ai chẳng có. Chỉ là khi anh ở bên thì nó thích ẩn mình đi thôi.”
“Thế thì em mô tả mảng tối trong em xem nào?”
Cô nghĩ một lát. “Ừm, trước hết, em là người bướng bỉnh, và em có thể trở nên nhỏ nhen khi cáu giận. Lúc đó em thường mắng mỏ và nói ra điều đầu tiên nảy ra trong đầu, và tin em đi, nó chẳng đẹp đẽ chút nào đâu. Em cũng có xu hướng nói với người khác chính xác điều mà em đang nghĩ, ngay cả khi em biết tốt nhất là nên bỏ đi.”
“Thế nghe cũng đâu tệ lắm.”
“Chẳng qua anh chưa phải là người hứng chịu thôi.”
“Nghe vẫn chưa có gì là tệ lắm.”
“Ừm… để em diễn tả thế này nhé. Lần đầu tiên chất vấn David về chuyện ngoại tình, em đã gọi anh ta bằng một vài cái tên tệ hại nhất trong tiếng Anh.”
“Anh ta đáng bị thế mà.”
“Nhưng em không chắc là anh ta đáng bị hứng cả một cái lọ hoa ném vào người.”
“Em đã làm thế à?”
Cô gật đầu. “Anh phải nhìn thấy bộ mặt của anh ta cơ. Anh ta chưa từng thấy em như thế bao giờ.”
“Thế anh ta làm gì?”
“Chẳng làm gì cả - em nghĩ là anh ta sốc đến mức không làm được gì. Nhất là khi em bắt đầu xông vào đống đĩa. Đêm đó em đã ném gần như sạch sẽ cả cái tủ bát.”
Anh toét miệng cười ngưỡng mộ. “Anh không biết là em lại nóng tính đến thế đấy.”
“Là do em lớn lên ở miền Trung Tây mà. Đừng có chọc giận em, lãnh đủ đấy.”
“Anh sẽ không đâu.”
“Thế là tốt. Dạo này em càng lúc càng ném chính xác đấy.”
“Anh sẽ nhớ điều đó.”
--- ------ BỔ SUNG THÊM --- ------
Chương 11
Bốn ngày sau khi Theresa đi khỏi Wilmington, Garrett có một giấc mơ nữa, chỉ có điều lần này là về Catherine. Trong giấc mơ, họ ở trên đồng cỏ xanh rì được chắn bởi một vách đá trông ra biển. Họ đang bước đi bên nhau, tay trong tay và trò chuyện, Garrett nói điều gì đó khiến cô bật cười. Đột nhiên cô dứt khỏi Garrett. Ngoái nhìn lại và cười vang, cô kêu Garrett đuổi theo mình. Anh đuổi theo cô, cũng cười vang, cảm giác gần giống như trong ngày cưới của họ.
Nhìn cô chạy, anh nhận thấy cô mới đẹp nhường nào. Mái tóc bay phấp phới của cô phản chiếu ánh sáng của vầng mặt trời vàng rực đang lên cao, đôi chân cô không chút mỡ thừa và chuyển động nhịp nhàng, dễ dàng. Cô mỉm cười, dù đang chạy, trông cô thật thoải mái và thư thái, như thể đang đứng yên vậy.
“Đuổi theo em đi, Garrett. Bắt được em không?” cô gọi.
Tiếng cười sau câu nói của cô cứ bồng bềnh trong bầu không khí xung quanh anh, nghe thật du dương.
Anh đang từ từ bắt kịp thì nhận ra rằng cô đang tiến về phía vách đá. Trong nỗi phấn khích và hứng thú, có vẻ như cô không nhận ra là mình đang đi đâu.
Nhưng điều đó thật phi lý, anh nghĩ. Cô ấy phải biết chứ.
Garrett gọi cô dừng lại, nhưng thay vì thế cô lại càng chạy nhanh hơn.
Cô đang tiến tới gần mép vách đá.
Cảm thấy sợ hãi điều gì đó, anh thấy mình vẫn còn cách quá xa để có thể tóm được cô.
Anh chạy nhanh hết sức mình, hét gọi cô quay lại. Dường như cô không nghe thấy tiếng anh. Anh cảm thấy adrenaline chạy khắp cơ thể, được duy trì bởi nỗi sợ hãi đến tê liệt. “Dừng lại, Catherine!” anh hét lên, phổi cạn kiệt không khí. “Vách đá đấy - em không thấy là em đang đi đâu à!” Anh càng hét giọng anh càng yếu đi, cho đến lúc chỉ còn là tiếng thì thào.
Catherine vẫn chạy, không hề hay biết gì. Vách đá chỉ còn cách có vài bước chân.
Anh sắp kiệt sức.
Nhưng anh vẫn còn ở quá xa phía sau.
“Dừng lại!” anh lại hét lên, mặc dù lần này anh biết cô không nghe thấy. Giọng anh nhỏ dần đến lúc chẳng còn nghe thấy gì. Nỗi hoảng sợ anh cảm thấy vì thế lại lớn hơn bất cứ điều gì anh từng biết tới. Gắng hết sức, anh bắt đôi chân của mình chạy nhanh hơn, nhưng chúng lại bắt đầu rã rời, trở nên nặng nề hơn theo từng bước chạy.
Không kịp mất, anh nghĩ, kinh hoàng.
Rồi, cũng đột ngột như lúc dứt tay anh ra, cô dừng lại. Quay về phía anh, cô dường như chẳng hề biết gì về mối nguy hiểm.
Cô đứng cách mép vực chỉ có vài phân.
“Đừng cử động,” anh hét lên, nhưng âm thanh lại thoát ra thành một tiếng thì thào. Anh dừng lại cách cô vài bước và đưa tay ra, thở khó nhọc.
“Lại đây với anh,” anh nài nỉ. “Em đang đứng ngay trên mép vực kìa.”
Cô mỉm cười và liếc lại phía sau. Nhận thấy mình sắp ngã đến nơi, cô quay lại chỗ anh.
“Anh có nghĩ là anh sắp mất em không?”
“Có,” anh đáp khẽ, “nhưng anh hứa sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra nữa.”
Garrett tỉnh giấc và ngồi dậy trên giường, thức mãi suốt mấy tiếng sau đó. Cuối cùng, khi ngủ lại được thì cũng chỉ chập chờn, và sáng hôm sau lúc anh có thể dậy được thì đã gần mười giờ. Vẫn kiệt sức và cảm thấy chán nản, anh thấy khó có thể nghĩ về bất cứ thứ gì khác ngoài giấc mơ. Không biết phải làm gì, anh gọi cho bố, ông tới ăn sáng cùng anh ở quán quen của họ.
“Con không hiểu vì sao mình lại cảm thấy như vậy,” anh nói với ông sau vài phút chuyện trò linh tinh. “Con không hiểu nổi.”
Bố anh không trả lời. Thay vì thế ông quan sát con trai qua tách cà phê, vẫn im lặng trong lúc anh nói tiếp.
“Không phải cô ấy đã làm chuyện gì khiến con buồn bực,” anh nói tiếp. “Chỉ là bọn con có một kỳ nghỉ cuối tuần dài bên nhau, và con thật sự quan tâm đến cô ấy. Con cũng đã gặp con trai cô ấy, và thằng bé rất tuyệt. Chỉ có thế thôi… Con không hiểu. Con không biết liệu con có thể duy trì chuyện này được không nữa.”
Garrett ngừng lại. Chỉ còn tiếng từ các bàn xung quanh họ.
“Duy trì cái gì?” Cuối cùng Jeb Blake cũng lên tiếng.
Garrett lơ đãng khuấy tách cà phê. “Con không biết liệu con có nên gặp lại cô ấy không.”
Bố anh nhếch một bên lông mày lên nhưng không trả lời. Garrett nói tiếp.
“Có lẽ bọn con không phải sinh ra để dành cho nhau. Ý con là, thậm chí cô ấy còn chẳng sống ở đây. Cô ấy sống cách đây hàng nghìn cây số, cô ấy có cuộc sống riêng và có những mối quan tâm riêng. Còn con thì ở đây, sống tận dưới này và có một cuộc sống hoàn toàn khác. Có lẽ cô ấy sẽ hợp với ai đó khác, ai đó cô ấy có thể gặp thường xuyên.”
Anh nghĩ về những điều vừa nói, biết rằng chính mình cũng chẳng tin lắm. Nhưng anh vẫn không muốn kể với bố về giấc mơ.
“Ý con là, làm sao chúng ta có thể xây dựng một mối quan hệ nếu chúng ta không gặp gỡ nhau thường xuyên đúng không?”
Bố anh lại không nói gì. Garrett vẫn tiếp tục, như thể đang độc thoại.
“Nếu cô ấy sống ở đây và con có thể gặp cô ấy hằng ngày, con nghĩ con sẽ thấy khác. Nhưng khi cô ấy đi rồi…”
Anh nói nhỏ dần, cố hiểu những suy nghĩ của chính mình. Lát sau anh lại nói.
“Con chỉ không biết bọn con sẽ phải làm thế nào để duy trì quan hệ. Con đã nghĩ về chuyện đó rất nhiều, và con không thấy có cách nào để làm được. Con không muốn chuyển tới Boston, và con chắc chắn là cô ấy cũng không muốn về đây, thế thì chuyện này sẽ dẫn bọn con tới đâu chứ?”
Garrett dừng lại và đợi cho bố anh nói gì đó - bất cứ điều gì - để đáp lại những lời anh nói cho đến lúc đó. Nhưng một lúc sau, ông vẫn không nói một lời nào. Cuối cùng ông thở dài và nhìn đi chỗ khác.
“Bố nghe như thể con đang bao biện vậy,” Jeb nói nhỏ. “Con đang cố thuyết phục bản thân, và dùng bố làm cớ lắng nghe chính mình nói.”
“Không, bố, con đâu có thế. Con chỉ đang cố gắng hiểu toàn bộ chuyện này.”
“Con nghĩ mình đang nói chuyện với ai, Garrett?” Jeb Blake lắc đầu. “Nhiều lúc, bố thề là con nghĩ bố khù khờ và chẳng biết gì về sự đời. Nhưng bố biết chính xác cái mà con đang trải qua. Con đã quen ở một mình đến mức con sợ những gì có thể xảy đến nếu thật sự tìm được người có thể dứt con ra tình trạng đó.”
“Con không sợ,” Garrett phản đối.
Bố anh gay gắt ngắt lời anh. “Con thậm chí không thể thừa nhận điều đó với chính mình phải không?”
Vẻ thất vọng trong giọng nói của ông không lẫn đi đâu được. “Con biết không, Garrett, khi mẹ con mất, bố cũng đã viện cớ nọ cớ kia. Qua nhiều năm, bố tự nhủ đủ điều. Và con có muốn biết điều đó đã đưa bố đến đâu không?”
Ông nhìn con trai chằm chằm. “Bố già nua, mệt mỏi, và trên hết bố cô đơn. Nếu có thể quay ngược lại thời gian thì bố sẽ thay đổi nhiều điều ở bản thân, và bố đáng bị nguyền rủa nếu bố để cho con lặp lại cái việc y như bố đã làm.”
Jeb ngừng lời trước khi nói tiếp, giọng ông dịu lại. “Bố đã sai, Garrett ạ. Bố đã sai khi không cố tìm kiếm một người nào khác. Bố đã sai khi cảm thấy có lỗi với mẹ con. Bố đã sai khi cứ sống cuộc đời như đã sống, trong lòng luôn dằn vặt và tự hỏi liệu bà ấy sẽ nghĩ gì. Vì con biết sao không? Bố nghĩ mẹ con hẳn sẽ muốn bố tìm một người khác. Mẹ con hẳn sẽ muốn bố được hạnh phúc. Và con biết tại sao không?”
Garrett không trả lời.
“Vì mẹ con yêu bố. Và nếu con nghĩ rằng con đang thể hiện tình yêu với Catherine bằng cái cách đau khổ như con đang làm thì hẳn là bố đã sai lầm ở đâu đó trong quãng đời nuôi dạy con lớn lên.”
“Bố không sai lầm…”
“Hẳn là có. Vì khi nhìn con, bố thấy chính mình, và nói thật, bố thà nhìn ai đó khác còn hơn. Bố muốn nhìn thấy một người hiểu được rằng việc sống tiếp là bình thường, rằng tìm kiếm ai đó làm cho mình hạnh phúc là chuyện bình thường. Nhưng ngay lúc này đây, cứ như thể bố đang nhìn vào gương mà thấy chính mình hai mươi năm trước vậy.”
Suốt phần buổi chiều còn lại Garrett ở một mình, đi bộ trên bãi biển, nghĩ về những gì bố anh đã nói. Nhớ lại, anh biết mình đã không thành thật ngay từ đầu cuộc nói chuyện và không ngạc nhiên là bố anh đã đoán ra. Thế thì tại sao anh lại muốn nói chuyện với ông? Phải chăng anh muốn ông chất vấn anh như ông đã làm?
Khi buổi chiều dần trôi qua, nỗi chán nản trong anh nhường chỗ cho sự bối rối, rồi tới một dạng tê liệt. Tới lúc anh gọi cho Theresa vào buổi tối, những cảm giác về sự phản bội mà anh cảm thấy, vốn là hệ quả của giấc mơ, đã lắng xuống đủ để anh có thể nói chuyện với cô. Chúng vẫn ở đó, dù không còn mạnh như trước, và khi cô bắt máy, anh cảm thấy chúng giảm xuống hơn nửa. Giọng nói của cô nhắc anh nhớ tới cảm xúc của anh khi họ ở bên nhau.
“Em mừng là anh đã gọi,” cô nói vui vẻ, “hôm nay em đã nghĩ tới anh rất nhiều.”
“Anh cũng nghĩ về em,” anh nói. “Anh ước gì lúc này em đang ở đây.”
“Anh ổn chứ? Nghe giọng anh có vẻ hơi buồn?”
“Anh ổn… Chỉ cô đơn thôi. Hôm nay em thế nào?”
“Như mọi khi. Quá nhiều việc phải làm ở cơ quan, quá nhiều việc phải làm ở nhà. Nhưng giờ nghe anh gọi thì đỡ hơn rồi.”
Garrett mỉm cười. “Kevin có ở đó không?”
“Nó đang trong phòng riêng, đọc một cuốn sách về môn lặn có bình dưỡng khí. Nó bảo em là khi lớn lên nó muốn trở thành huấn luyện viên dạy lặn.”
“Nó lấy đâu ra ý tưởng đó vậy?”
“Em cũng chịu,” cô nói, giọng có vẻ thích thú. “Thế còn anh? Hôm nay anh đã làm gì?”
“Thật ra cũng không có gì nhiều lắm. Anh không tới cửa hàng - gần như là trốn một ngày làm mà đi lang thang ngoài bãi biển.”
“Mơ về em, em hy vọng là thế.”
Tính mỉa mai của câu nói ấy không lọt khỏi tâm trí anh. Anh không trả lời thẳng.
“Hôm nay anh thật sự nhớ em.”
“Em mới đi có vài ngày thôi mà,” cô nói nhẹ nhàng.
“Anh biết. Mà này, nhân nói về chuyện đó, khi nào thì chúng ta lại được gặp nhau?”
Đang ngồi bên bàn ăn, Theresa liền liếc cuốn sổ ghi lịch làm việc của cô.
“Ừm… ba tuần nữa thì sao? Em đang nghĩ là lần này anh có thể tới đây. Kevin sẽ tham gia hội trại bóng đá kéo dài một tuần, và có thể chúng ta sẽ có chút thời gian riêng tư.”
“Thay vì thế em có muốn về đây không?”
“Anh lên đây thì hay hơn, nếu được. Em hết thời gian nghỉ phép rồi, và em nghĩ là chúng ta có thể sắp xếp theo lịch làm việc của em. Mà hơn nữa, em nghĩ cũng đến lúc anh rời khỏi Bắc Carolina rồi, có thế anh mới thấy những nơi còn lại của đất nước có thể đem đến những gì chứ.”
Trong lúc cô nói, anh thấy mình nhìn vào tấm ảnh Catherine đặt trên chiếc kệ đầu giường. Vài giây sau anh mới trả lời. “Được… Anh nghĩ anh có thể đi.”
“Nghe anh nói có vẻ không chắc lắm.”
“Chắc mà.”
“Có chuyện gì khác nữa không?”
“Không.”
Cô ngừng lại vẻ hoài nghi. “Thật sự là anh không sao chứ, Garrett?”
Phải mất mấy ngày và mấy cuộc gọi nữa cho Theresa, anh mới cảm thấy tương đối bình thường trở lại. Hơn một lần anh gọi điện vào lúc khuya chỉ để nghe thấy giọng nói của cô.
“Chào em,” anh nói, “lại là anh đây.”
“Chào anh, Garrett, có chuyện gì thế?” cô hỏi giọng ngái ngủ.
“Không có gì quan trọng đâu. Anh chỉ muốn chúc em ngủ ngon trước khi em lên giường thôi mà.”
“Em lên giường rồi.”
“Mấy giờ rồi?”
Cô liếc đồng hồ. “Gần nửa đêm.”
“Sao em vẫn còn thức? Em phải đi ngủ rồi chứ,” anh trêu cô, đoạn để cô cúp máy cho cô có thể nghỉ ngơi.
Đôi khi, nếu không ngủ được, anh sẽ nghĩ về tuần đầu tiên ở bên Theresa, nhớ xem cảm giác da thịt cô khi anh chạm vào tuyệt vời ra sao, khao khát lại được ôm cô đến khó cưỡng.
Rồi, đi vào phòng ngủ, anh lại thấy bức ảnh Catherine cạnh giường. Và lúc đó giấc mơ kia lại hiện lên rõ mồn một.
Anh biết là mình vẫn bị giấc mơ đó làm cho rối loạn. Trong quá khứ hẳn là anh đã viết một lá thư cho Catherine để giúp mình nhận thức được toàn cục. Rồi sau đó, lái con thuyền Happenstance đi theo đúng lộ trình mà anh và Catherine đã đi lần đầu tiên sau khi nó được sửa chữa, anh sẽ nhốt giấc mơ ấy lại và ném nó ra giữa biển.
Lạ thay, lần này anh không thể làm thế. Khi anh ngồi xuống viết, lời lẽ cứ đi đâu hết. Cuối cùng, khi đã nản, thay vì viết anh bắt mình phải nhớ lại.
“Ngạc nhiên chưa này,” Garrett vừa nói vừa chỉ vào cái đĩa của Catherine. Trên đó, cô chất đầy xa lát rau chân vịt từ cái quầy giải khát trước mặt.
Catherine nhún vai vẻ không thèm chấp. “Muốn ăn xa lát thì có gì sai?”
“Chẳng có gì sai cả,” anh vội nói. “Có điều tuần này em ăn tới ba lần rồi.”
“Em biết. Tại em cứ thấy thèm. Em không biết tại sao.”
“Cứ tiếp tục ăn như thế này, em sẽ biến thành thỏ đấy.”
Cô bật cười và rưới nước xốt. “Nếu vậy,” Cô nói, nhìn vào đĩa của anh, “anh cứ ăn hải sản như thế thì anh sẽ biến thành cá mập.”
“Anh là cá mập rồi,” anh nói, trợn mắt lên.
“Có thể anh là cá mập, nhưng nếu anh cứ chọc em, anh sẽ không bao giờ có cơ hội chứng minh điều đó với em đâu.”
Anh mỉm cười. “Sao anh không chứng minh điều đó vào cuối tuần này nhỉ?”
“Khi nào? Cuối tuần này anh phải làm việc mà.”
“Không phải cuối tuần này. Em có tin được không, anh đã dẹp hết lịch làm việc lại để chúng ta có thể ở bên nhau một chút. Chúng ta đã không ở riêng với nhau suốt kỳ nghỉ cuối tuần từ lúc nào anh cũng không nhớ nữa.”
“Anh có kế hoạch gì rồi?”
“Anh không biết. Có lẽ là đi thuyền, có lẽ là việc gì khác. Bất cứ việc gì em muốn làm.”
Cô bật cười. “Ừm, em đã có vài kế hoạch lớn - đi tới Paris để mua sắm một chút, một hoặc hai chuyến săn thú rừng châu Phi chóng vánh… nhưng em đoán là em có thể sắp xếp lại.”
“Thế thì ta sẽ hẹn hò rồi.”
Nhiều ngày trôi qua, hình ảnh giấc mơ bắt đầu phai nhạt. Mỗi lần nói chuyện với Theresa, Garrett lại nhận thấy mình hồi phục lại một chút. Anh cũng nói chuyện với Kevin đôi lần, và sự háo hức của thằng bé về việc Garrett sẽ hiện diện trong cuộc sống hai mẹ con cũng giúp anh lấy lại thăng bằng. Mặc dù cái nóng ẩm tháng Tám dường như khiến thời gian trôi đi chậm hơn bình thường, anh vẫn cố gắng giữ cho bản thân càng bận càng tốt, cố hết sức không nghĩ tới sự phức tạp trong hoàn cảnh mới của anh.
Hai tuần sau - vài ngày trước khi đi Boston - Garrett đang nấu ăn trong bếp thì điện thoại reo.
“Hây, người xa lạ,” cô nói. “Rảnh mấy phút không anh?”
“Với em thì lúc nào anh cũng có mấy phút rảnh để nói chuyện.”
“Em chỉ gọi tới để xem mấy giờ thì chuyến bay của anh tới. Lần trước nói chuyện anh chưa chắc lắm.”
“Chờ chút nhé,” anh nói, lục lọi khắp ngăn kéo tủ bếp để tìm giấy ghi hành trình của mình. “Đây rồi - anh sẽ tới Boston lúc hơn một giờ.”
“Thế thì quá ổn. Em phải đưa Kevin tới nơi vài tiếng trước đó, và như thế sẽ cho em thời gian để sắp xếp lại căn hộ.”
“Lau dọn vì anh à?”
“Anh sẽ được tiếp đãi tử tế. Thậm chí em sẽ lau chùi cả bàn ghế.”
“Anh thấy thật vinh hạnh.”
“Anh nên thế. Chỉ có anh và bố mẹ em mới được săn sóc như thế thôi đấy.”
“Anh có nên đeo một đôi găng tay trắng để đảm bảo là em làm tốt công việc đó không?”
“Nếu làm thế thì anh sẽ không còn sống sót để nhìn thấy buổi tối đâu.”
Anh bật cười và đổi chủ đề. “Anh đang nóng lòng được gặp em đây,” anh nói tha thiết. “Ba tuần vừa rồi khó khăn hơn nhiều so với hai tuần đầu.”
“Em biết. Em có thể nghe ra điều đó trong giọng nói của anh. Anh đã buồn bã mất mấy ngày, và… ừm, em đã bắt đầu thấy lo lắng về anh.”
Anh tự hỏi liệu cô có nghi ngờ về nguyên cớ nỗi buồn của anh không. Trấn tĩnh lại, anh nói tiếp. “Đúng thế, nhưng giờ thì anh đã vượt qua. Anh đóng gói hành lý rồi.”
“Em mong là anh không dành chỗ cho những thứ không cần thiết.”

“Như là gì?”
“Như là… em không biết nữa. Pijama chẳng hạn.”
Anh bật cười. “Anh không có bộ pijama nào cả.”
“Thế thì tốt. Vì nếu có thì anh cũng sẽ không cần dùng đến đâu.”
Ba ngày sau, Garrett Blake tới Boston.
Sau khi đón anh ở sân bay, Theresa đưa anh đi thăm thành phố. Họ ăn trưa ở Faneuil Hall, xem những người chèo thuyền lướt đi trên sông Charles và đi dạo một vòng quanh khu trường sở của Harvard. Như mọi lần, họ nắm tay nhau hầu như suốt cả ngày, thích thú khi được đi cùng nhau.
Có đến hơn một lần, Garrett tự hỏi ba tuần qua sao lại khó khăn với anh đến thế. Anh biết rằng một phần nỗi lo lắng của mình là do giấc mơ kia gây ra, nhưng thời gian ở bên Theresa khiến cho cảm giác bất an về giấc mơ đó dường như trở nên xa xăm và không có thực. Mỗi lần Theresa cười hoặc siết tay anh là cô lại xác nhận những cảm giác của anh khi cô ở Wilmington lần trước, xua đuổi những ý nghĩ u ám đã quấy rầy anh khi cô vắng mặt.
Khi ngày mát dần và mặt trời lặn xuống dưới rặng cây, Theresa và Garrett dừng lại để mua một chút đồ ăn Mexico về nhà cô. Ngồi trên sàn phòng khách dưới ánh nến, Garrett nhìn khắp căn phòng.
“Nhà em đẹp thật,” anh nói, xúc ít đậu bằng miếng bánh bắp giòn. “Không hiểu sao, anh cứ ngỡ nó nhỏ hơn thế này cơ. Nó to hơn cả nhà anh.”
“Chỉ hơn chút thôi, nhưng cảm ơn anh. Nó vừa với mẹ con em. Nó thật sự tiện lợi cho mọi việc.”
“Như là gần các nhà hàng!”
“Chính xác. Em không nói đùa đâu, em đã bảo với anh là em không thích nấu nướng mà. Em không hẳn là một Martha Stewart đâu.”
“Ai cơ?”
“Không có gì,” cô nói.
Bên ngoài căn hộ của cô, tiếng xe cộ nghe vẫn rõ rệt. Một chiếc xe rít lên dưới phố, một tiếng còi vang lên om sòm, và đột nhiên bầu không khí tràn ngập tiếng ồn khi những chiếc xe khác cũng tham gia vào bản đồng ca.
“Nó vẫn luôn yên tĩnh thế này à?” anh hỏi.
Cô hất cằm về phía mấy cái cửa sổ. “Tối thứ Sáu và thứ Bảy là tệ nhất, chứ thường thì nó không đến nỗi thế. Nhưng sống ở đây đủ lâu thì anh sẽ quen thôi.”
Những âm thanh của cuộc sống đô thị vẫn tiếp nối. Một tiếng còi báo động vang lên ở đằng xa, dần dần trở nên to hơn khi tiến lại gần.
“Em có muốn bật nhạc lên chút không?” Garrett hỏi.
“Có. Anh thích loại nhạc nào?”
“Anh thích cả hai loại,” anh nói, ngừng lại một cách rất kịch. “Nhạc đồng quê và nhạc cao bồi.”
Cô bật cười. “Em chẳng có thứ gì như vậy ở đây cả.”
Anh lắc đầu, thưởng thức trò đùa của chính mình. “Anh đùa đấy. Trò này xưa rồi. Không buồn cười lắm, nhưng anh chờ bao năm mới có cơ hội để nói đấy.”
“Hẳn là hồi còn bé anh đã xem quá nhiều phim Hee-Haw.”
Giờ thì đến lượt anh bật cười.
“Trở lại với câu hỏi đầu tiên - anh thích loại nhạc nào?” cô gặng hỏi.
“Bất cứ loại gì em có đều được.”
“Nhạc jazz được không?”
“Nghe hay đấy.”
Theresa đứng dậy chọn một cái đĩa mà cô nghĩ có lẽ anh sẽ thích và đẩy vào đầu CD. Giây lát sau, nhạc vang lên, đúng lúc sự ùn tắc ngoài đường có vẻ như đã thông.
“Vậy cho đến lúc này anh thấy Boston thế nào?” cô hỏi, trở lại chỗ ngồi của mình.
“Anh thích nó. Với một thành phố lớn, nó cũng không tệ lắm. Có vẻ như nó không vô cảm như anh tưởng, và cũng sạch sẽ nữa. Anh vốn hình dung nó khác cơ. Em biết đấy - những đám đông, nhựa đường, cao ốc, không một bóng cây, và ở góc phố nào cũng có bọn trấn lột. Nhưng nó không hề giống như vậy.”
Cô mỉm cười. “Nó đẹp phải không nào? Ý em là tuy không phải là miền duyên hải nhưng nó có nét hấp dẫn riêng đấy chứ. Nhất là, anh phải xem thành phố này đem đến những gì cơ. Anh có thể đi xem hòa nhạc, hoặc đi thăm viện bảo tàng, hoặc chỉ là đi dạo ở các công viên. Ở đây ai cũng đều tìm được thứ gì đó cho mình - người ta còn có cả một câu lạc bộ thuyền buồm nữa.”
“Anh có thể hiểu vì sao em lại thích ở đây,” anh nói, tự hỏi tại sao nghe như thể cô đang quảng cáo cho chỗ này vậy.
“Vâng. Cả Kevin cũng thích.”
Anh chuyển chủ đề. “Em bảo là nó đi hội trại bóng đá à?”
Cô gật đầu. “Vâng. Nó đang thi vào một đội tuyển bóng dành cho lứa tuổi mười hai trở xuống. Em không biết liệu nó có vào được không, nhưng nó nghĩ là nó sút khá tốt. Năm ngoái, nó đã vào tới vòng cuối với độ tuổi mười một.”
“Nghe có vẻ như nó chơi tốt.”
“Đúng thế,” cô nói, gật đầu. Cô đẩy hai cái đĩa giờ đã sạch nhẵn của họ sang bên và dịch sát lại. “Nhưng nói về Kevin thế là đủ rồi,” cô dịu dàng nói. “Chúng ta không nhất thiết lúc nào cũng nói về thằng bé. Chúng ta có thể nói về những chuyện khác nữa mà.”
“Như là gì?”
Cô hôn lên cổ anh. “Như là chuyện mà em muốn làm với anh ngay bây giờ, khi em đang có anh cho riêng mình.”
“Em có chắc là em chỉ muốn nói về chuyện đó không?”
“Anh nói đúng,” cô thì thầm. “Ai lại muốn nói chuyện vào lúc như thế này chứ?”
Ngày hôm sau, Theresa lại đưa Garrett đi thăm Boston, họ dành phần lớn buổi sáng trong khu người Ý ở North End, đi dạo qua những con phố hẹp, ngoắt ngoéo, thỉnh thoảng dừng lại để mua bánh cannoli và cà phê. Mặc dù biết là cô viết chuyên mục cho báo, Garrett vẫn chưa biết chính xác công việc của cô đòi hỏi điều gì khác nữa. Anh hỏi cô về chuyện đó trong lúc họ thong dong đi khắp thành phố.
“Em không viết bài ở nhà được à?”
“Trong tương lai, em nghĩ là em có thể. Nhưng ngay bây giờ thì không được.”
“Tại sao không?”
“Ừm. Trước hết là vì hợp đồng của em không phải như vậy. Hơn nữa, em phải làm nhiều việc hơn là ngồi trước máy tính và viết. Thường thì em phải phỏng vấn người ta, nên cũng phải có thời gian cho việc đó - có khi còn phải đi đi lại lại. Ngoài ra, em còn phải tiến hành nghiên cứu đủ loại, nhất là khi viết về những vấn đề y học hay tâm lý học, mà ở văn phòng thì em có thể tiếp cận được với nhiều nguồn thông tin hơn. Rồi thì thực tế là em cần một nơi mà người ta có thể tìm được em. Nhiều vấn đề em viết cũng là mối quan tâm của mọi người nên người ta gọi tới cho em suốt. Nếu làm việc tại nhà, em biết sẽ có nhiều người gọi tới vào buổi tối khi em đang ở cùng Kevin, mà em thì không muốn để mất thời gian ở bên con.”
“Bây giờ em có phải nhận điện thoại ở nhà không?”
“Thỉnh thoảng. Nhưng số điện thoại nhà riêng của em không bị đưa vào danh bạ, nên cũng không thường xuyên lắm.”
“Em có phải nhận những cuộc gọi điên rồ không?”
Cô gật đầu. “Em nghĩ là tất cả những người viết bài chuyên mục đều bị thế. Nhiều người gọi cho tòa báo với những câu chuyện mà họ muốn được đăng. Em nhận được cuộc gọi về những người đang bị giam trong tù không đáng, em nhận được cuộc gọi về các dịch vụ của thành phố và về chuyện rác không được thu dọn đúng giờ. Em nhận được cuộc gọi về tội ác ngoài đường phố. Có vẻ như em nhận được điện thoại về đủ thứ chuyện trên đời.”
“Anh tưởng em bảo em viết về việc làm cha mẹ thôi cơ mà.”
“Đúng thế.”
“Thế thì tại sao họ lại gọi cho em? Sao họ không gọi cho người khác?”
Cô nhún vai. “Em chắc là họ có làm thế, nhưng điều đó vẫn không ngăn được họ gọi cho em. Nhiều người bắt đầu cuộc điện thoại bằng câu, ‘Chẳng có ai chịu nghe tôi nói cả và cô là hy vọng cuối cùng của tôi.’ ” Cô liếc nhìn anh trước khi nói tiếp. “Em đoán là họ nghĩ em sẽ có thể làm được gì đó với những vấn đề của họ.”
“Tại sao?”
“Ừm, những người viết bài chuyên mục thì khác với những người viết báo khác. Hầu hết những gì được đăng trên báo đều vô cảm - số liệu và sự kiện, thông tin rõ ràng, kiểu như thế. Nhưng nếu người ta đọc chuyên mục của em hằng ngày, em đoán là họ nghĩ họ hiểu em. Họ bắt đầu xem em kiểu như một người bạn. Và người ta tìm tới bạn bè để giúp khi người ta cần.”
“Điều đó thỉnh thoảng hẳn khiến em khó xử nhỉ.”
Cô nhún vai. “Đúng thế, nhưng em cố không nghĩ tới nó. Hơn nữa, cũng có những phần tốt đẹp trong công việc của em - cung cấp thông tin mà người ta cần sử dụng, cập nhật thông tin y học mới nhất và giải thích bằng ngôn ngữ thông dụng, thậm chí chia sẻ những mẩu chuyện vui chỉ để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút.”
Garrett dừng lại ở một cửa hàng bán hoa quả tươi trên vỉa hè. Anh nhặt hai quả táo trong thùng lên đưa cho Theresa.
“Bài nổi tiếng nhất em từng viết trong chuyên mục của em là gì?” anh hỏi.
Theresa cảm thấy nghẹt thở. Bài nổi tiếng nhất? Dễ thôi - có lần em nhặt được một lá thư trong chai, và em đã nhận được mấy trăm thư.
Cô ép mình phải nghĩ về chuyện gì đó khác. “À… em đã nhận được rất nhiều thư khi em viết về việc dạy trẻ khuyết tật,” cuối cùng cô nói.
“Bài đó hẳn là đáng đọc lắm,” anh nói, trả tiền cho người bán hàng.
“Vâng.”
Trước khi cắn miếng táo đầu tiên, Garrett hỏi: “Em vẫn có thể viết chuyên mục của mình dù đổi tòa báo chứ?”
Cô suy ngẫm về câu hỏi đó. “Sẽ khó đấy, nhất là nếu em lại muốn tiếp tục cung cấp bài cho nhiều báo cùng đăng một lúc. Vì em còn là người mới và vẫn đang gây dựng tên tuổi, có tờ Thời báo Boston hỗ trợ phía sau sẽ giúp ích cho em nhiều. Nhưng sao?”
“Anh chỉ tò mò thôi,” anh hỏi khẽ.
Sáng hôm sau, Theresa đi làm vài tiếng nhưng tạt về nhà sau bữa trưa một lát. Buổi chiều họ đến công viên Boston, ăn bữa trưa kiểu picnic ở đó. Bữa trưa của họ bị ngắt quãng hai lần bởi những người nhận ra cô qua ảnh trên báo, và Garrett nhận ra rằng Theresa thật sự nổi tiếng hơn anh tưởng.
“Anh không biết rằng em là một ngôi sao cơ đấy,” anh nói vẻ chế giễu sau khi người thứ hai đi khỏi.
“Em không hẳn là một ngôi sao. Chỉ là ảnh của em đăng ở trên chuyên mục, vì thế người ta mới biết mặt em.”
“Chuyện như thế này có hay xảy ra không?”
“Không nhiều lắm. Có lẽ vài lần một tuần.”
“Thế là nhiều rồi,” anh nói, vẻ kinh ngạc.
Cô lắc đầu. “Không nhiều nếu anh để ý so sánh với những ngôi sao thực thụ. Họ thậm chí còn không thể tới cửa hàng mà không bị ai đó chụp ảnh. Em còn có một cuộc sống khá là bình thường rồi đấy.”
“Nhưng có những người hoàn toàn xa lạ đến gần em thì vẫn kỳ kỳ thế nào ấy.”
“Thật ra thì cũng khá thích đấy. Hầu hết mọi người đều cư xử khá dễ chịu.”
“Dù thế nào thì anh cũng mừng là anh không biết em nổi tiếng đến thế ngay từ đầu.”
“Tại sao?”
“Có lẽ anh đã sợ đến mức chẳng dám mời em đi thuyền cùng.”
Cô đưa tay ra nắm lấy tay anh. “Em không thể tưởng tượng nổi là anh có thể sợ bất cứ thứ gì.”
“Thế thì em chưa hiểu anh lắm rồi.”
Cô im lặng một lát. “Thật sự là anh sẽ sợ hãi à?” cô hỏi bẽn lẽn.
“Có lẽ.”
“Tại sao?”
“Anh đoán là anh sẽ tự hỏi một người như em thì thấy gì ở anh chứ?”
Cô ngả qua hôn anh. “Em sẽ nói cho anh biết điều mà em thấy nhé. Em thấy người đàn ông em yêu, người đàn ông làm cho em hạnh phúc…. Người mà em cứ muốn nhìn thấy mãi thôi.”
“Sao em lại luôn biết phải nói gì thế nhỉ?”
“Vì,” cô nói khẽ, “em hiểu anh nhiều hơn là anh có thể ngờ tới.”
“Ví dụ?”
Một nụ cười uể oải thoảng qua môi cô. “Ví dụ như, em biết anh lại đang muốn em hôn anh.”
“Thật à?”
“Đương nhiên.”
Và cô đoán đúng.
Tới buổi tối, Garrett nói, “Em biết không, Theresa, anh không tìm ra được khuyết điểm nào ở em cả.”
Họ đang nằm trong bồn tắm cùng nhau, giữa đống bọt khổng lồ, Theresa ngả vào ngực anh. Anh vừa nói vừa dùng một miếng bọt biển để kỳ cọ cho cô.
“Câu đó phải được hiểu như thế nào?” cô hỏi vẻ tò mò, quay đầu lại nhìn anh.
“Như anh vừa nói thôi. Anh không tìm ra được khuyết điểm nào ở em cả. Ý anh là, em thật hoản hảo.”
“Em không hoàn hảo đâu, Garrett,” cô nói, nhưng vẫn thấy hài lòng.
“Nhưng đúng là thế mà. Em đẹp, em tử tế, em khiến anh cười, em thông minh, và em cũng một người mẹ tốt nữa. Thêm cả việc em nổi tiếng nữa thì anh không nghĩ là có ai sánh nổi em.”
Cô vuốt ve cánh tay anh, tựa vào anh nghỉ ngơi. “Em nghĩ là anh nhìn em qua lăng kính màu hồng mất rồi. Nhưng em thích thế…”
“Em định bảo là anh thiên vị à?”
“Không - nhưng tới giờ anh chỉ thấy mặt tốt của em thôi.”
“Anh không biết là em còn có mặt khác nữa kia,” anh nói, cùng lúc siết chặt hai cánh tay cô. “Ngay lúc này thì có cảm giác là cả hai mặt đều tốt cả.”
Cô bật cười. “Anh hiểu ý em muốn nói gì mà. Anh vẫn chưa thấy mảng tối trong con người em đâu.”
“Em chẳng có mảng tối nào cả.”
“Chắc chắn là em có chứ. Ai chẳng có. Chỉ là khi anh ở bên thì nó thích ẩn mình đi thôi.”
“Thế thì em mô tả mảng tối trong em xem nào?”
Cô nghĩ một lát. “Ừm, trước hết, em là người bướng bỉnh, và em có thể trở nên nhỏ nhen khi cáu giận. Lúc đó em thường mắng mỏ và nói ra điều đầu tiên nảy ra trong đầu, và tin em đi, nó chẳng đẹp đẽ chút nào đâu. Em cũng có xu hướng nói với người khác chính xác điều mà em đang nghĩ, ngay cả khi em biết tốt nhất là nên bỏ đi.”
“Thế nghe cũng đâu tệ lắm.”
“Chẳng qua anh chưa phải là người hứng chịu thôi.”
“Nghe vẫn chưa có gì là tệ lắm.”
“Ừm… để em diễn tả thế này nhé. Lần đầu tiên chất vấn David về chuyện ngoại tình, em đã gọi anh ta bằng một vài cái tên tệ hại nhất trong tiếng Anh.”
“Anh ta đáng bị thế mà.”
“Nhưng em không chắc là anh ta đáng bị hứng cả một cái lọ hoa ném vào người.”
“Em đã làm thế à?”
Cô gật đầu. “Anh phải nhìn thấy bộ mặt của anh ta cơ. Anh ta chưa từng thấy em như thế bao giờ.”
“Thế anh ta làm gì?”
“Chẳng làm gì cả - em nghĩ là anh ta sốc đến mức không làm được gì. Nhất là khi em bắt đầu xông vào đống đĩa. Đêm đó em đã ném gần như sạch sẽ cả cái tủ bát.”
Anh toét miệng cười ngưỡng mộ. “Anh không biết là em lại nóng tính đến thế đấy.”
“Là do em lớn lên ở miền Trung Tây mà. Đừng có chọc giận em, lãnh đủ đấy.”
“Anh sẽ không đâu.”
“Thế là tốt. Dạo này em càng lúc càng ném chính xác đấy.”
“Anh sẽ nhớ điều đó.”
Họ chìm sâu hơn xuống làn nước ấm. Garrett vẫn tiếp tục chà miếng bọt biển khắp người cô.
“Anh vẫn nghĩ là em hoản hảo,” anh nói dịu dàng.
Cô nhắm mắt lại. “Kể cả có mảng tối trong con người em?” cô hỏi.
“Nhất là với mảng tối trong con người em. Nó tăng thêm một yếu tố kích thích.”
“Em rất vui, vì em nghĩ anh cũng khá là hoàn hảo.”
Quãng thời gian còn lại của kỳ nghỉ cứ thế trôi qua. Vào buổi sáng, Theresa sẽ đi làm vài tiếng rồi về nhà, dành buổi chiều và buổi tối ở bên Garrett. Buổi tối, họ sẽ gọi món gì đó về nhà ăn hoặc đi tới một trong số nhiều nhà hàng nhỏ gần căn hộ của cô. Đôi khi họ thuê một cuốn phim về nhà xem, nhưng thường thì họ thích dành khoảng thời gian đó bên nhau mà không bị những thứ khác làm mất tập trung.
Tối thứ Sáu khi Kevin gọi về từ hội trại bóng đá. Nó phấn khởi kể rằng nó đã được nhận vào đội tuyển. Dù như thế có nghĩa là sẽ có nhiều trận đấu diễn ra ở ngoài Boston hơn và họ sẽ phải đi xa hầu hết các kỳ nghỉ cuối tuần, Theresa vẫn thấy mừng cho con. Rồi Kevin đòi nói chuyện với Garrett làm Theresa sửng sốt. Garrett lắng nghe trong lúc thằng bé miêu tả những gì đang diễn ra trong tuần đó và chúc mừng nó. Sau khi cúp máy, Theresa mở một chai rượu vang và hai người cùng chúc mừng cho vận may của Kevin mãi tới tận lúc sáng sớm.
Vào sáng Chủ nhật - ngày anh về - họ ăn nhẹ với Deanna và Brian. Garrett thấy ngay điều đã khiến Theresa yêu quý Deanna. Bà vừa duyên dáng vừa vui vẻ, và Garrett cười suốt bữa ăn. Deanna hỏi anh về chuyện lặn và lái thuyền buồm, trong khi Brian suy ngẫm rằng nếu ông mà có một công ty riêng thì ông sẽ không bao giờ làm được trò trống gì vì việc đánh golf đã choán hết cả cuộc sống của ông rồi.
Theresa thấy hài lòng khi họ có vẻ khá hòa hợp. Sau khi ăn xong, Deanna và Theresa cáo lỗi cùng đi vào nhà vệ sinh để tám chuyện.
“Vậy, bà thấy sao?” Theresa khấp khởi hỏi.
“Anh ta tuyệt lắm,” Deanna thừa nhận. “Trông anh ta thậm chí còn ưa nhìn hơn cả trong những bức ảnh mà cô mang về.”
“Tôi biết. Mỗi lần nhìn anh ấy là tim tôi lại lỡ mất một nhịp đấy.”
Deanna vuốt tóc làm dáng, cố sức làm cho nó phồng lên một chút. “Tuần vừa rồi của cô có tốt như mong đợi không?”
“Còn tốt hơn ấy chứ.”
Deanna cười toe toét. “Qua cách anh ta nhìn cô, tôi có thể nhận thấy anh ta cũng thật sự quan tâm đến cô. Cách hai người hành xử làm tôi nhớ tới Brian và tôi. Hai người quả là đẹp đôi đấy.”
“Bà thấy thế thật à?”
“Tôi sẽ không nói thế nếu tôi không thật lòng nghĩ thế.”
Deanna lấy một thỏi son ra khỏi túi xách và bắt đầu tô. “Vậy, anh ta thấy Boston thế nào?” bà hỏi không khách sáo.
Theresa cũng lấy thỏi son của mình ra. “Anh ấy không quen với nó, nhưng có vẻ anh ấy cũng thấy thích. Chúng tôi đã tới rất nhiều địa điểm thú vị.”
“Anh ta có nói gì cụ thể không?”
“Không… mà tại sao cơ?” Cô nhìn Deanna tò mò.
“Vì,” Deanna điềm tĩnh trả lời, “tôi chỉ tự hỏi là liệu anh ta có nói gì khiến cô nghĩ anh ta sẽ chuyển tới đây sống nếu cô đề nghị không.”
Lời bình luận của Deanna khiến Theresa nghĩ tới vấn đề mà cô đang lảnh tránh.
“Chúng tôi vẫn chưa nói gì tới chuyện đó,” cuối cùng cô đáp.
“Cô có định làm thế không?”
Khoảng cách giữa chúng ta là một vấn đề, nhưng vẫn còn có thứ gì đó khác nữa, đúng không? Cô nghe thấy giọng nói bên trong thì thầm.
Không muốn nghĩ về chuyện đó, cô lắc đầu. “Tôi nghĩ giờ không phải là lúc - ít nhất là chưa.” Cô ngừng lại, trấn tĩnh. “Ý tôi là - tôi biết sẽ có lúc phải nói về chuyện này, nhưng tôi không nghĩ là chúng tôi đã hiểu nhau đủ lâu để bắt đầu có quyết định cho tương lai. Chúng tôi vẫn còn đang trong giai đoạn tìm hiểu mà.”
Deanna nhìn cô với ánh mắt ngờ vực của một bà mẹ. “Nhưng cô đã biết anh ta đủ lâu để yêu cơ mà, phải không?”
“Vâng,” Theresa thừa nhận.
“Thế thì cô phải biết rằng quyết định đó sẽ đến, dù cô có muốn đối diện với nó hay không.”
Một lúc sau cô mới trả lời. “Tôi biết.”
Deanna đặt tay lên vai Theresa. “Nếu như kết cuộc là phải chọn việc hoặc mất anh ta hoặc phải rời Boston thì sao?”
Theresa ngẫm nghĩ về câu hỏi đó và những hàm ý của nó. “Tôi không biết nữa,” cô nói khẽ và nhìn Deanna vẻ lưỡng lự.
“Tôi cho cô một lời khuyên nhé?” Deanna bảo.
Theresa gật đầu. Deanna nắm cánh tay cô dắt ra khỏi nhà vệ sinh, ghé sát tai cô để không ai nghe được.
“Dù quyết định làm gì thì hãy nhớ là cô phải tiến được lên trong cuộc đời mà không phải ngoái nhìn lại. Nếu cô chắc chắn rằng Garrett có thể đem lại cho cô thứ tình yêu mà cô cần và rằng cô sẽ hạnh phúc, thì cô phải làm bất cứ điều gì để giữ lấy anh ta. Tình yêu đích thực rất hiếm hoi, và đó là điều duy nhất đem lại ý nghĩa thật sự cho cuộc sống.”
“Nhưng điều tương tự không áp dụng với anh ấy sao? Anh ấy không nên sẵn sàng hy sinh ư?”
“Có chứ.”
“Thế thì điều đó sẽ dẫn tôi tới đâu?”
“Nó sẽ dẫn cô tới vấn đề mà cô đã có từ trước, Theresa ạ - một vấn đề mà dứt khoát là cô sẽ phải nghĩ tới.”
Hai tháng sau, tình yêu xa của họ bắt đầu tiến triển theo cách mà cả Theresa và Garrett đều không ngờ tới mặc dù cả hai lẽ ra đều phải thấy trước.
Điều chỉnh trên lịch làm việc của mỗi người, họ gặp được nhau thêm hai ba lần nữa, mỗi lần là một kỳ nghỉ cuối tuần. Một lần, Theresa bay xuống Wilmington để họ có thể ở riêng với nhau, và họ dành thời gian nằm lì ở nhà Garrett, ngoại trừ một buổi tối đi thuyền ra biển. Garrett đi tới Boston hai lần, phần lớn thời gian ở trên đường đi xem giải đấu loại bóng đá của Kevin, dù anh không hề thấy phiền. Đó là những trận đấu bóng đầu tiên mà anh được xem trực tiếp, và anh thấy mình say mê hơn vẫn tưởng.
“Sao em lại không phấn khích như anh nhỉ?” anh hỏi Theresa trong một phút điên cuồng trên sân thi đấu.
“Sao anh không đợi đến lúc xem xong mấy trăm trận hãy hỏi, tới lúc đó em chắc chắn là anh có thể trả lời câu hỏi của chính mình đấy,” cô đáp vẻ đùa bỡn.
Khi họ ở bên nhau trong suốt những kỳ nghỉ cuối tuần đó, dường như chẳng còn chuyện gì khác trên đời quan trọng nữa. Thường thì Kevin sẽ ở lại nhà một người bạn nào đó một đêm để họ có thể ở riêng với nhau, ít ra là một chút. Họ trò chuyện và cười cợt hàng tiếng đồng hồ, ôm riết lấy nhau, làm tình, cố bù đắp cho mấy tuần xa cách. Nhưng cả hai đều không đả động gì đến chủ đề tương lai mối quan hệ của họ sẽ đi đến đâu. Họ sống với từng khoảnh khắc, không ai biết phải kỳ vọng ở người kia chính xác điều gì. Không phải vì họ không yêu nhau. Ít ra, đó là điều mà họ có thể chắc chắn.
Nhưng vì họ không gặp nhau thường xuyên nên quan hệ của họ trải qua nhiều biến động hơn so với những trải nghiệm trước kia. Khi họ ở bên nhau, mọi chuyện đều có vẻ đúng đắn thì khi xa nhau mọi thứ đều có cảm giác như là sai trái. Đặc biệt là Garrett, anh thấy mình vật vã với vấn đề khoảng cách giữa hai người. Thường thì những cảm xúc tốt lành mà anh cảm thấy khi họ gặp nhau kéo dài được thêm vài ngày nữa, nhưng sau đó anh thấy mình càng lúc càng trở nên chán nản như đã lường đến trong những tuần trước khi gặp lại cô.
Đương nhiên là anh muốn họ dành thời gian ở bên nhau nhiều hơn có thể. Giờ đây, khi mùa hè đã qua, anh đi dễ dàng hơn cô. Dù hầu hết nhân viên đã nghỉ nhưng cũng chẳng có nhiều việc phải làm ở cửa hàng. Còn lịch làm việc của Theresa lại khác hẳn, chủ yếu là vì Kevin. Thằng bé đã đi học trở lại, nó có những trận thi đấu vào ngày nghỉ cuối tuần, và cô rất khó dứt ra được dù chỉ vài ngày. Mặc dù Garrett sẵn lòng tới Boston để gặp cô nhiều hơn, nhưng đơn giản là Theresa không có thời gian. Hơn một lần anh đã đề nghị tới thăm cô, nhưng vì lý do này hay lý do khác mà chuyện không thành.
Thật ra anh cũng biết có vài cặp còn phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn hơn họ nhiều. Bố anh từng kể có những khi bố mẹ anh không được nói chuyện với nhau mấy tháng trời. Ông sang Triều Tiên và sống hai năm trên biển, và khi nghề đánh bắt tôm gặp khó khăn, ông thường tìm việc làm trên những chiếc tàu chuyên chở hàng đi ngang qua trên đường tới Nam Mỹ. Đôi khi, những chuyến đi như vậy kéo dài hàng tháng. Phương tiện duy nhất mà bố mẹ anh có hồi đó là thư từ, cũng hiếm khi nhận được. Garrett và Theresa thì đỡ khó khăn hơn một chút, nhưng điều đó cũng chẳng làm sự việc trở nên dễ dàng.
Anh biết khoảng cách giữa họ chính là vấn đề, nhưng có vẻ như chuyện đó sẽ không thay đổi trong tương lai gần. Anh thấy chỉ có hai cách - hoặc anh chuyển lên đó hoặc cô chuyển về đây. Dù anh nhìn nhận chuyện đó như thế nào - và dù có quan tâm tới nhau đến đâu - thì rốt cuộc nó vẫn dẫn tới một trong hai lựa chọn đó.

Trong thâm tâm, anh ngờ rằng Theresa cũng đang có cùng suy nghĩ như anh, đấy là lý do tại sao không ai muốn nói về chuyện đó. Có vẻ như không đả động gì đến nó thì dễ hơn, vì như thế sẽ có nghĩa là bắt đầu đi vào con đường mà cả hai đều không chắc họ muốn đi.
Một trong hai người sẽ phải thay đổi cuộc sống của họ một cách đột ngột.
Nhưng là ai?
Anh có công việc làm ăn của mình ở Wilmington, một cuộc sống mà anh muốn sống, cuộc sống duy nhất mà anh biết cách sống. Đến chơi Boston thì thích thật, nhưng đó không phải là nhà. Thậm chí anh chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ tới sống ở một nơi nào khác. Và ở đó còn có bố anh nữa - tuổi ông ngày một cao, và dù bề ngoài có vẻ khỏe mạnh nhưng tuổi tác đang bắt kịp ông và Garrett là tất cả những gì ông có.
Mặt khác, Theresa gắn bó chặt chẽ với Boston. Dù bố mẹ cô sống ở một nơi khác, nhưng Kevin đang được học ở trường mà nó thích, sự nghiệp của cô ở một tờ báo lớn lại đang lên như diều gặp gió, và cô có một mạng lưới bạn bè mà cô sẽ phải từ bò. Cô đã làm việc vất vả để có được địa vị như ngày hôm nay, và nếu rời Boston thì cô sẽ phải từ bỏ nó. Cô có thể làm được chuyện đó mà không oán trách anh vì những gì anh bắt cô phải làm không?
Garrett không muốn nghĩ tới chuyện đó. Thay vì thế anh tập trung vào chuyện anh yêu Theresa, bám víu vào niềm tin tưởng rằng nếu sinh ra để dành cho nhau thì họ sẽ tìm ra cách thôi.
Tuy nhiên, từ trong thâm tâm, anh biết chuyện đó sẽ không dễ dàng đến thế, và không chỉ bởi khoảng cách giữa họ. Sau khi trở về từ chuyến đi thứ hai đến Boston, anh đã phóng và lồng khung một bức ảnh của Theresa. Anh đặt nó lên cái kệ đầu giường đối diện với bức ảnh Catherine, nhưng bất chấp tình cảm anh dành cho Theresa, dường như nó không phù hợp với phòng ngủ của anh. Vài ngày sau, anh đã di chuyển bức ảnh đi khắp căn phòng, nhưng vẫn chẳng ăn thua. Dù anh đặt nó ở bất cứ đâu thì dường như cặp mắt của Catherine vẫn dõi theo nó. Chuyện này thật kỳ quái, anh tự nhủ sau khi lại chuyển nó đi. Tuy nhiên cuối cùng anh vẫn cất bức ảnh của Theresa vào ngăn kéo và thay vào đó cầm lấy bức ảnh của Catherine. Thở dài, anh ngồi xuống giường và giơ nó ra trước mặt.
“Chúng ta không có những rắc rối như vậy,” anh vừa thì thầm vừa lướt ngón tay trên bức hình của cô. “Với chúng ta, mọi chuyện lúc nào cũng có vẻ dễ dàng nhỉ?”
Nhận ra là bức ảnh không thể trả lời, anh rủa sự ngớ ngẩn của mình và lại lôi ảnh Theresa ra.
Nhìn hai bức ảnh, rốt cuộc anh cũng hiểu được tại sao mình lại gặp nhiều vấn đề đến thế với cả hai. Anh yêu Theresa hơn mức anh tưởng… nhưng anh cũng vẫn còn yêu Catherine…
Liệu có thể cùng một lúc yêu cả hai người không?
“Anh không đợi nổi đến khi được gặp lại em đâu,” Garrett nói.
Đó là vào giữa tháng Mười một, hai tuần trước lễ Tạ ơn. Theresa và Kevin đang bay về quê để thăm bố mẹ cô nhân dịp nghỉ lễ, cô đã thu xếp về dưới đó vào dịp nghỉ cuối tuần trước để ở bên anh một chút. Phải đến một tháng rồi họ mới gặp lại nhau.
“Em cũng đang mong tới ngày đó đây,” cô nói, “mà anh đã hứa là kiểu gì em cũng sẽ được gặp bố anh đúng không?”
“Ông đang lên kế hoạch nấu bữa tối lễ Tạ ơn sớm cho chúng ta ở chỗ ông đấy. Ông cứ hỏi anh mãi là em thích ăn gì. Anh nghĩ là ông muốn gây ấn tượng tốt.”
“Bảo ông không phải lo đâu. Ông làm gì cũng được mà.”
“Anh đã bảo thế mãi rồi. Nhưng anh có thể thấy là ông hồi hộp.”
“Tại sao?”
“Vì em là vị khách đầu tiên của bố con anh. Bao năm nay chỉ có mỗi hai bố con thôi.”
“Em có phá vỡ một truyền thống gia đình không đấy?”
“Không - anh thích nghĩ là chúng ta đang mở đầu một truyền thống mới. Hơn nữa, chính ông đã tình nguyện cơ mà, nhớ không?”
“Anh có nghĩ là ông sẽ thích em không?”
“Anh biết là ông sẽ thích.”
Khi biết Theresa sắp tới, Jeb Blake đã làm những việc mà ông chưa từng làm trước kia. Đầu tiên, ông thuê một người tới dọn dẹp căn nhà nhỏ nơi ông sống, việc này hóa ra phải mất đến gần hai ngày vì ông cứ khăng khăng là nhà ông sạch tinh. Ông còn mua một cái áo sơ mi mới và cà vạt nữa. Ló ra từ phòng ngủ trong bộ đồ mới, ông không khỏi nhận thấy vẻ ngạc nhiên trong mắt Garrett.
“Trông bố thế nào?” ông nói.
“Trông bố ổn lắm, nhưng bố thắt cà vạt làm gì vậy?”
“Không phải vì con - mà vì bữa tối cuối tuần này đấy.”
Garrett tiếp tục nhìn bố chằm chằm, cười giễu. “Con không nghĩ là đã từng thấy bố thắt cà vạt trước kia.”
“Trước kia bố cũng đeo rồi. Chỉ tại con không để ý đấy thôi.”
“Bố không cần phải đeo cà vạt chỉ vì Theresa tới đâu.”
“Bố biết,” ông đáp cộc lốc, “chỉ là bố thấy thích ăn tối đeo cà vạt một lần trong năm nay thôi.”
“Bố hồi hộp vì sắp gặp cô ấy à?”
“Làm gì có.”
“Bố, bố không cần phải trở thành người khác bản thân mình đâu. Con chắc chắn Theresa sẽ thích bố dù bố ăn mặc thế nào đi nữa.”
“Điều đó không có nghĩa là bố không thể trông đẹp đẽ vì quý cô bạn gái của con chứ, phải không?”
“Không.”
“Thế thì bố đoán là vụ đó coi như xong rồi, đúng không? Bố không ra đây để con khuyên bố về chuyện đó, bố ra đây để xem liệu trông bố có ổn không thôi.”
“Trông bố ổn lắm.”
“Tốt.”
Ông quay đi và trở lại phòng ngủ, lúc này đã cởi khuy áo và nới lỏng cà vạt. Garrett nhìn theo ông khuất dạng, và một lát sau anh nghe thấy bố gọi tên anh.
“Giờ thì gì thế ạ?” anh hỏi.
Bố anh ló đầu ra từ sau cái góc. “Con cũng sẽ đeo cà vạt chứ?”
“Con không định làm thế.”
“Ừm, thế thì thay đổi ý định của con đi. Bố không muốn Theresa phát hiện ra là bố đã nuôi dạy một đứa con không biết cách ăn mặc khi có khách tới.”
Hôm trước khi cô về, Garrett giúp bố sửa soạn cho xong. Anh cắt cỏ trong lúc Jeb dỡ những món đồ sứ quà cưới mà ông hiếm khi đem ra sử dụng và rửa những cái đĩa đó bằng tay. Sau khi tìm bộ dao dĩa bằng bạc hợp bộ - mà nói thì dễ hơn làm - Jeb tìm được một cái khăn trải bàn trong kho, quả quyết rằng nó sẽ là một chi tiết đẹp nhất. Ông ném nó vào máy giặt đúng lúc Garrett vào nhà sau khi xử lý xong sân cỏ. Garrett đi tới chỗ tủ chén và lôi một cái ly khỏi giá.
“Mai mấy giờ con bé tới?” Jeb hỏi với qua góc nhà.
Garrett đổ đầy nước vào cái ly và ngoái lại trả lời. “Chuyến bay của cô ấy khoảng mười giờ sẽ tới. Khoảng mười một giờ bọn con sẽ có mặt ở đây.”
“Con nghĩ là mấy giờ con bé muốn ăn?”
“Con không biết.”
Jeb đi vào bếp. “Con không hỏi con bé à?”
“Không.”
“Thế thì làm sao bố biết lúc nào cho gà tây vào lò?”
Garrett uống một ngụm nước. “Cứ cho bọn con ăn vào khoảng giữa buổi chiều đi bố. Lúc nào cũng được, con chắc là thế.”
“Con có nghĩ là con nên gọi hỏi con bé không?”
“Thực lòng con không nghĩ là cần thiết. Chuyện đó không quan trọng đến thế đâu.”
“Có thể với con thì không. Nhưng đây là lần đầu tiên bố gặp con bé, và nếu cuối cùng hai đứa lấy nhau thì bố không muốn về sau lại trở thành chủ đề của bất cứ chuyện cười nào đâu.”
Garrett nhướng mày. “Ai bảo là bọn con sẽ lấy nhau.”
“Chẳng ai cả.”
“Thế thì sao bố lại khơi chuyện đó ra?”
“Vì,” ông nói nhanh, “bố đoán là một trong hai ta phải làm thế, và bố không chắc là có bao giờ con định làm việc đó không.”
Garrett nhìn bố chằm chằm. “Thế bố nghĩ là con nên lấy cô ấy à?”
Jeb nháy mắt trả lời. “Bố nghĩ gì không quan trọng, con nghĩ gì mới là quan trọng, đúng không?”
Tối hôm đó, Garrett vừa mở cửa chính thì điện thoại đổ chuông. Hối hả chạy tới chỗ điện thoại, anh nhấc lên và nghe thấy giọng nói đang mong đợi.
“Garrett à?” Theresa hỏi. “Nghe anh như thể hết hơi vậy.”
Anh cười. “Ồ, chào em Theresa. Anh vừa về tới nhà. Bố gọi anh qua nhà ông cả ngày hôm nay để chuẩn bị - ông đang mong gặp em lắm.”
Có một khoảng ngừng đầy bối rối. “Về chuyện ngày mai…” cuối cùng cô nói.
Anh cảm thấy cổ họng thắt lại. “Mai sao?”
Mất một lúc cô mới trả lời. “Em thật sự xin lỗi, Garrett… Em chẳng biết phải nói với anh thế nào, nhưng em không về Wilmington được rồi.”
“Có chuyện gì à?”
“Không, mọi chuyện đều ổn. Chỉ là có chuyện xảy ra vào phút cuối - em phải đi dựa một cuộc hội thảo lớn.”
“Hội thảo kiểu gì?”
“Là vì công việc của em.” Cô lại ngừng nói. “Em biết nghe thật tệ hại, nhưng nếu nó không thật sự quan trọng thì em sẽ không đi đâu.”
Anh nhắm mắt lại. “Hội thảo về cái gì vậy?”
“Dành cho những biên tập viên tiếng tăm và các loại hình truyền thông quan trọng - họ sẽ gặp gỡ tại Dallas vào cuối tuần này. Deanna nghĩ sẽ là ý hay nếu em tới gặp một số người bọn họ.”
“Em vừa mới biết về nó à?”
“Không… ý em là, vâng. Ừm… em đã biết là có một cuộc họp nhưng không nghĩ là mình nên đi. Thường thì các nhà báo viết bài cho chuyên mục không được mời, nhưng Deanna đã sử dụng ảnh hưởng của bà để sắp xếp cho em đi cùng.” Cô ngập ngừng. “Em thật sự xin lỗi, Garrett, nhưng như em vừa nói, đó sẽ là một cuộc tiếp xúc tuyệt vời, và nó là cơ hội cả đời mới có.”
Anh im lặng một lát. Rồi anh chỉ nói, “Anh hiểu.”
“Anh giận em đấy à?”
“Không.”
“Anh chắc chứ?”
“Anh chắc.”
Nghe giọng anh, cô biết anh đang nói dối, nhưng cô không biết mình có thể nói gì để làm anh dễ chịu hơn chút.
“Anh sẽ chuyển lời với bố anh là em xin lỗi chứ?”
“Ừ, anh sẽ chuyển lời.”
“Cuối tuần này em gọi cho anh được không?”
“Nếu em muốn.”
Ngày hôm sau, anh ăn tối với bố, ông cố gắng hết sức tỏ ra không có chuyện gì.
“Nếu đúng như con bé nói,” bố anh phân trần, “thì con bé có lý do chính đáng mà. Có vẻ như con bé không thể gác công việc sang một bên. Con bé còn phải nuôi một đứa con trai, phải cố hết sức để chu cấp cho nó. Hơn nữa, chỉ một kỳ nghỉ cuối tuần thôi mà - so với nhiều chuyện khác thì cũng đâu có gì là to tát.”
Garrett gật đầu, ngồi nghe bố nói nhưng vẫn thất vọng vì tất cả chuyện này. Jeb nói tiếp.
“Bố chắc là hai đứa sẽ tìm ra cách xử lý thôi. Có khi lần sau, khi các con ở bên nhau, con bé sẽ làm một điều gì đó thật sự đặc biệt.”
Garrett không nói gì. Jeb cắn hai miếng rồi nói tiếp.
“Con phải hiểu, Garrett ạ - con bé còn có nhiều trách nhiệm, như chính con thôi, và đôi khi phải ưu tiên cho những trách nhiệm đó. Bố chắc chắn rằng nếu có chuyện gì phải xử lý ở cửa hàng thì con cũng là sẽ làm như vậy.”
Garrett ngả người ra sau, đẩy cái đĩa ăn dở sang bên. “Con hiểu tất cả những chuyện đó, bố à. Chỉ là tới giờ con đã không gặp cô ấy cả tháng rồi, và con thật sự muốn cô ấy tới.”
“Con không nghĩ là cô ấy cũng muốn gặp con à?”
“Cô ấy bảo là cô ấy muốn.”
Jeb ngả qua bàn và đẩy lại cái đĩa của Garrett ra trước mặt anh. “Ăn nốt bữa tối của con đi,” ông nói. “Bố đã mất cả ngày để nấu nướng nên con không được để phí đâu đấy.”
Garrett nhìn vào đĩa của mình. Dù không còn đói chút nào nhưng anh vẫn cầm dĩa lên và xúc một miếng nhỏ.
“Con biết không,” bố anh vừa nói vừa gảy gót đồ ăn của mình, “đây không phải là lần cuối chuyện này xảy ra, vì thế con không nên thất vọng về nó.”
“Ý bố là sao?”
“Bố muốn nói là nếu các con còn tiếp tục sống xa nhau cả nghìn cây số thì những chuyện như thế này sẽ còn xảy ra, và các con sẽ không được gặp nhau nhiều như cả hai muốn đâu.”
“Bố nghĩ là con không biết điều đó sao?”
“Bố chắc là con biết. Bố chỉ không biết liệu có đứa nào đủ dũng khí để làm gì đó cho chuyện này không thôi.”
Garrett nhìn bố mình, nghĩ, trời ạ, bố, nói cho con biết bố thật sự cảm thấy thế nào đi. Đừng có lừng khừng mãi thế.
“Hồi còn trẻ,” Jeb nói tiếp, không hề nhận thấy vẻ mặt cáu kỉnh của con trai, “mọi chuyện đơn giản hơn nhiều. Nếu một người đàn ông yêu một người đàn bà thì anh ta sẽ hỏi cưới cô ấy, rồi họ sống cùng nhau. Chỉ đơn giản thế thôi. Nhưng các con - có vẻ như các con không biết phải làm thế nào.”
“Con đã bảo với bố rồi - chuyện đâu có dễ dàng thế…”
“Đương nhiên rồi - nếu con yêu cô ấy thì hãy tìm cách để đến với cô ấy. Chỉ đơn giản thế thôi. Làm thế, nếu có chuyện gì xảy đến và các con không gặp được nhau vào một dịp cuối tuần thì con cũng sẽ không hành động như thể cuộc đời thế là hết.”
Jeb ngừng lại rồi nói tiếp. “Cái việc mà các con đang cố gắng làm chẳng hợp lẽ chút nào, và về lâu về dài thì nó sẽ không mang lại kết quả. Còn biết điều đó, phải không?”
“Con biết,” Garrett đáp cụt lủn, ước gì bố ngừng nói về chuyện đó.
Bố anh nhếch một bên lông mày, chờ đợi. Thấy Garrett không nói thêm gì nữa, ông lại nói tiếp.
“Con biết? Con chỉ nói được thế thôi sao?”
Anh nhún vai. “Con có thể nói gì khác nữa?”
“Con có thể nói rằng lần tới gặp cô ấy, các con sẽ tìm cách giải quyết chuyện này. Đó là điều mà con có thể nói.”
“Được rồi - bọn con sẽ cố gắng tìm cách giải quyết chuyện này.”
Jeb đặt đĩa xuống và nhìn con trai trừng trừng. “Bố không bảo là cố, Garrett, bố bảo hai đứa sẽ phải tìm cách giải quyết chuyện này đi.”
“Sao bố lại khắt khe với chuyện này thế nhỉ?”
“Bởi vì,” ông nói, “nếu các con không tìm ra cách giải quyết thì bố con mình sẽ phải tiếp tục ngồi ăn với nhau trong vòng hai mươi năm tới đấy.”
Ngày hôm sau, mới sáng ra Garrett đã đưa Happenstance ra khơi và ở ngoài biển cho đến khi mặt trời lặn. Dù Theresa đã nhắn tin cho anh biết về khách sạn của cô ở Dallas nhưng đêm đó anh không gọi, tự nhủ rằng đã quá khuya và cô đã ngủ rồi. Đó là tự lừa dối và anh biết thế, nhưng chỉ vì anh vẫn chưa muốn nói chuyện với cô thôi.
Sự thật là anh không thích nói chuyện với ai cả. Anh vẫn còn giận việc cô đã làm, và nơi tốt nhất để anh nghĩ về chuyện đó là ngoài biển, nơi chẳng có ai làm phiền anh cả. Suốt cả buổi sáng anh cứ thắc mắc là liệu cô có biết toàn bộ chuyện này làm anh bực đến mức nào không. Chắc cô ấy chẳng biết đâu - anh tự thuyết phục mình - vì nếu không cô ấy đã không làm vậy.
Ấy là nếu cô quan tâm đến anh.
Tuy nhiên, lúc mặt trời lên cao hơn, cơn giận của anh bắt đầu tan biến. Khi nghĩ thấu suốt hơn về tình huống này, anh quyết định rằng bố anh đã nói đúng - như mọi khi. Lý do cô không tới không cho biết nhiều về anh mà là về những sự khác biệt trong cuộc sống của họ. Đúng là cô có nhiều trách nhiệm không thể bỏ qua, và chừng nào họ còn tiếp tục sống tách rời nhau như vậy thì những chuyện như thế này sẽ vẫn tiếp tục xảy ra.
Mặc dù chẳng vui vẻ gì về chuyện đó nhưng anh vẫn thắc mắc liệu có phải mọi mối quan hệ đều có những lúc như thế này. Nói thật là anh cũng chẳng biết. Mối quan hệ thật sự duy nhất mà anh từng có là với Catherine, và không dễ gì so sánh hai mối quan hệ này. Một là vì anh và Catherine lấy nhau rồi sống chung dưới cùng một mái nhà. Hơn nữa, họ biết nhau từ khi còn bé, và vì lúc đó họ trẻ hơn nên không có những trách nhiệm mà anh hoặc Theresa đang phải gánh như bây giờ. Họ mới tốt nghiệp đại học, chưa xây dựng gia đình, và đương nhiên là không có đứa con nào phải chăm lo. Không - những gì họ từng có hoàn toàn khác với những gì anh và Theresa đang có, và thật không công bằng khi cứ cố liên hệ họ với nhau.
Nhưng vẫn có một điều mà anh không thể làm ngơ, một điều cứ khiến anh bứt rứt suốt cả buổi chiều. Đúng, anh biết có những sự khác biệt - đúng, anh biết là thật không công bằng khi so sánh bọn họ - nhưng cuối cùng, cái mà anh dễ dàng nhận ra là anh chưa bao giờ nghi ngờ liệu anh và Catherine có phải là một đội không. Chưa một lần nào anh hoài nghi về tương lai với cô, chưa một lần anh nghĩ tới chuyện một trong hai người phải hy sinh tất cả vì người kia. Thậm chí khi họ tranh cãi - về việc sống ở đâu, có nên mở cửa hàng không, hoặc thậm chí là làm gì vào tối thứ Bảy - thì dường như cũng không ai hoài nghi về mối quan hệ của họ. Có gì đó dài lâu trong cách họ ứng xử với nhau, có gì đó nhắc anh nhớ rằng họ sẽ luôn luôn bên nhau.
Trái lại, Theresa và anh chưa có được điều đó.
Tới lúc mặt trời lặn, anh nhận ra rằng nghĩ theo cách đó thật không công bằng. Anh và Theresa mới biết nhau được một thời gian ngắn - đòi hỏi điều đó quá sớm là phi thực tế. Nếu có đủ thời gian - và hoàn cảnh thuận lợi - thì họ cũng sẽ trở thành một đội.
Phải vậy không?
Anh lắc đầu, nhận ra là mình cũng không chắc chắn lắm.
Anh không chắc chắn về quá nhiều chuyện.
Nhưng có một điều anh biết - anh chưa bao giờ phân tích mối quan hệ với Catherine theo cách mà anh làm với Theresa, và điều đó cũng là không công bằng. Hơn nữa, những sự phân tích đó cũng chẳng ích gì cho anh trong hoàn cảnh này. Mọi sự phân tích trên đời đều không thay đổi được sự thật là họ không được gặp nhau nhiều như họ muốn - hoặc cần.
Không - điều họ cần lúc này là làm gì đó.
Tối hôm đó, Garrett gọi cho Theresa ngay khi anh về tới nhà.
“A lô,” cô trả lời giọng ngái ngủ.
Anh nói nhẹ nhàng vào điện thoại. “Chào em, anh đây.”
“Garrett à?”
“Anh xin lỗi vì đánh thức em, nhưng em đã để lại hai lời nhắn ở điện thoại của anh.”
“Em mừng là anh đã gọi. Em không chắc là anh sẽ gọi.”
“Có lúc anh đã không muốn làm vậy.”
“Vẫn giận em à?”
“Không,” anh nói khẽ. “Có lẽ là buồn, nhưng không giận.”
“Vì cuối tuần này em không ở đó sao?”
“Không. Vì hầu hết các dịp cuối tuần em đều không ở đây.”
Đêm đó anh lại mơ.
Trong giấc mơ Theresa và anh đang ở Boston, đi dạo trên một con phố sầm uất, tấp nập đủ kiểu người như mọi khi - đàn ông và phụ nữ, già và trẻ, một số người mặc vest, những người khác mặc quần áo thùng thình đặc trưng cho giới trẻ ngày nay. Họ đi ngắm hàng bày trong cửa kính một lúc như đã làm trong một lần anh tới đây trước đó. Ngày thật sáng sủa và tươi tắn, bầu trời không một đám mây, và Garrett đang tận hưởng thời gian bên cô.
Theresa dừng lại trước cửa một cửa hàng thủ công mỹ nghệ nhỏ và hỏi Garrett có muốn vào xem không. Anh lắc đầu bảo, “Em cứ vào đi. Anh đợi ngoài này.” Theresa hỏi lại xem anh có chắc không rồi bước vào trong. Garrett đang đứng ngoài cửa, thư giãn dưới bóng một tòa cao ốc thì nhìn thấy có gì đó quen quen qua khóe mắt.
Đó là một người phụ nữ, cô đang đi bộ trên vỉa hè cách chỗ anh một chút, mái tóc vàng hoe chạm đúng đến vai.
Anh chớp mắt, nhìn sang chỗ khác một lát rồi nhanh chóng quay lại. Có gì đó trong dáng điệu của cô khiến anh chú ý, và anh nhìn theo khi cô chầm chậm bước đi. Cuối cùng, người phụ nữ dừng bước và quay đầu lại, như thể nhớ ra điều gì. Garrett cảm thấy nghẹt thở.
Catherine.
Không thể nào.
Anh lắc đầu. Ở khoảng cách này anh không thể nói là liệu mình có nhầm hay không.
Cô tiếp tục bước đi ngay khi Garrett gọi với theo.
“Catherine… là em à?”
Dường như cô không nghe thấy anh gọi giữa tiếng ồn của đường phố. Garrett ngoài nhìn ra sau và thấy Theresa trong cửa hàng, đang xem lướt. Khi anh nhìn lại ra phố, Catherine - hay ai đó - đang rẽ ở góc.
Anh đi về phía cô, bước nhanh, rồi anh bắt đầu chạy. Trong chớp mắt, vỉa hè bắt đầu đông đúc như thể một tuyến tàu điện ngầm vừa đột ngột mở cửa, và anh phải lách qua những đám đông mới tới được chỗ góc quành.
Anh rẽ ở chỗ cô rẽ.
Khi đã vòng qua cái góc, con phố dần dần tối lại đầy hăm dọa. Anh lại tăng tốc. Dù trời không mưa nhưng anh cảm thấy bàn chân mình như đang giẫm vào những vũng nước. Anh dừng lại thở, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Anh vừa làm vậy, sương mù liền bắt đầu cuộn lên, gần như một con sóng, và chẳng mấy chốc anh không còn nhìn thấy gì cách xa quá vài bước.
“Catherine - em có ở đó không?” anh hét lên. “Em ở đâu?”
Anh nghe thấy tiếng cười ở đằng xa, tuy vậy không thể xác định được nó phát ra từ phía nào.
Anh bước đi tiếp, chậm chạp. Anh lại nghe thấy tiếng cười - hồn nhiên, vui vẻ. Anh dừng bước.
“Em ở đâu?”
Im lặng.
Anh nhìn hết bên nọ tới bên kia.
Chẳng thấy gì.
Sương mù mỗi lúc một dày, cùng lúc mưa bắt đầu rơi nhẹ. Anh lại bước, không biết là mình đang đi đâu.
Có gì đó lao vào màn sương, anh liền bước nhanh về phía nó.
Cô đang bước đi, chỉ cách anh vài bước.
Cơn mưa bắt đầu to hơn, và đột nhiên mọi thứ dường như đều chuyển động chậm lại. Anh bắt đầu chạy… chầm chậm… chầm chậm… anh có thể nhìn thấy cô ở ngay đằng trước… mỗi giây qua sương mù càng dày đặc hơn… mưa như trút nước… mái tóc cô thoáng hiện ra…
Rồi cô biến mất. Anh lại đứng lại. Mưa và sương mù đã che khuất hết tầm nhìn.
“Em ở đâu?” anh lại hét lên.
Chẳng có gì.
“Em ở đâu?” anh hét lên, to hơn lần trước.
“Em đây,” một giọng nói cất lên giữa cơn mưa và sương mù.
Anh vuốt nước mưa trên mặt. “Catherine đấy à? Có thật là em không?”
“Là em đây, Garrett.”
Nhưng đó không phải là giọng cô.
Theresa bước ra từ màn sương. “Em đây.”
Garrett tỉnh giấc và ngồi dậy, mồ hôi đầm đìa. Lau mặt bằng ga trải giường, anh cứ ngồi thế một lúc lâu.
Sau đó, Garrett đi gặp bố.
“Con nghĩ là con muốn lấy cô ấy, bố ạ.”
Họ đang ngồi câu cá cùng nhau ở cuối cầu tàu với hàng chục người khác, hầu hết đều có vẻ như đang mải mê suy nghĩ. Jeb ngước nhìn lên vẻ ngạc nhiên.
“Hai ngày trước xem ra con còn không muốn gặp lại con bé cơ mà.”
“Từ lúc đó con đã suy nghĩ rất nhiều.”
“Hẳn là thế rồi,” Jeb nói nhỏ. Ông cuộn sợi dây câu lại, kiểm tra mồi rồi lại quăng dây xuống. Mặc dù không tin mình sẽ câu được thứ gì đó mà ông muốn giữ lại, nhưng việc câu cá, theo đánh giá của ông, là một trong những lạc thú lớn nhất của đời người.
“Con có yêu con bé không?” Jeb hỏi.
Garrett nhìn ông, ngạc nhiên. “Đương nhiên rồi. Con đã nói với bố mấy lần rồi còn gì.”
Jeb Blake lắc đầu. “Không… con chưa hề nói,” ông thẳng thắn đáp. “Chúng ta đã nói chuyện về con bé rất nhiều - con bảo bố là con bé khiến con hạnh phúc, rằng con có cảm tưởng như thể con hiểu con bé, và rằng con không muốn để mất con bé - nhưng con chưa bao giờ nói với bố là con yêu.”
“Cũng như nhau mà.”
“Thật à?”
Sau khi anh về tới nhà, cuộc trò chuyện với bố cứ tái hiện trong đầu anh.
“Thật à?”
“Đương nhiên,” anh nói ngay lập tức. “Và dù không phải thế thì con cũng vẫn thật lòng yêu cô ấy.”
Jeb nhìn con trai một lúc, cuối cùng ông quay đi. “Con muốn lấy con bé à?”
“Vâng.”
“Tại sao?”
“Vì con yêu cô ấy, đó là lý dó. Thế chưa đủ sao?”
“Có lẽ.”
Garrett cuộn dây câu của anh lại, bực mình. “Chẳng phải ngay từ đầu bố chính là người đã nghĩ rằng bọn con nên lấy nhau sao?”
“Đúng.”
“Thế thì tại sao bây giờ bố lại nghi ngờ?”
“Vì bố muốn chắc chắn rằng con sẽ làm vậy vì những lý do thích đáng. Hai ngày trước con còn chẳng chắc là có muốn gặp lại con bé không. Giờ thì con lại sẵn sàng kết hôn. Bố thấy cứ như thể quay ngoắt 180 độ vậy, và bố muốn đảm bảo rằng chuyện này là vì cách con cảm nhận về Theresa - chứ không liên quan gì đến Catherine.”
Nghe nhắc đến tên cô, anh thấy nhói lên một chút.
“Catherine chẳng liên quan gì đến chuyện này cả,” Garrett nói nhanh. Anh lắc đầu và thở dài sườn sượt. “Bố biết không, đôi khi con chẳng hiểu nổi bố. Bố luôn thúc bách con trong toàn bộ chuyện này. Bố liên tục nói với con là phải bỏ qua quá khứ sau lưng, rằng con phải tìm một người mới. Vậy mà giờ con làm thế thì dường như bố lại đang cố bảo con đừng làm.”
Jeb đặt bàn tay rảnh lên vai Garrett. “Bố không bảo con đừng có làm chuyện gì, Garrett. Bố mừng là con đã tìm được Theresa, bố mừng là con yêu con bé, và đúng, bố hy vọng là cuối cùng các con sẽ lấy nhau. Bố chỉ bảo là nếu định kết hôn, con hãy làm vậy vì những lý do thích đáng. Hôn nhân là chuyện giữa hai con người, không phải ba. Nếu không thì thật không công bằng với con bé nếu con bước vào cuộc hôn nhân đó.”
Mất một lúc anh mới trả lời được.
“Bố, con muốn kết hôn vì con yêu cô ấy. Con muốn sống với cô ấy suốt đời.”
Bố anh đứng im lặng một lúc lâu, quan sát. Rồi ông nói một câu khiến Garrett phải quay đi.
“Vậy, nói cách khác, con định bảo bố rằng con đã dứt tình được với Catherine?”
Mặc dù cảm thấy sức nặng của sự mong đợi trong cái nhìn của bố, Garrett vẫn không biết phải trả lời thế nào.
“Em mệt không?” Garrett hỏi.
Anh đang nằm trên giường nói chuyện với Theresa, chỉ để đèn ngủ.
“Vâng, em vừa về được một lát. Quả là những ngày cuối tuần dài.”
“Rốt cuộc nó có tốt đẹp như em mong không?”
“Em mong là vậy. Vẫn chưa nói được gì cả, nhưng em đã gặp nhiều người cuối cùng cũng có thể giúp em với chuyên mục của em.”
“Thế thì em đi như thế là một việc tốt rồi.”
“Vừa tốt vừa xấu. Hầu như lúc nào em cũng ước là đã tới thăm anh thay vì tới đây.”

Anh cười. “Khi nào em về thăm bố mẹ!”
“Sáng thứ Tư. Em sẽ đi đến Chủ nhật.”
“Chắc họ mong được gặp em lắm phải không?”
“Vâng. Họ chưa gặp lại Kevin gần một năm rồi, và em biết là họ đang mong thằng bé ở bên họ mấy ngày.”
“Thế thì tốt rồi.”
Ngừng một chút.
“Garrett?”
“Sao?”
Cô nói dịu dàng. “Em chỉ muốn anh biết là em thật lòng xin lỗi vì chuyện cuối tuần này.”
“Anh hiểu.”
“Để em đền cho anh nhé?”
“Em định làm gì?”
“Ừm… anh có thể lên đây vào dịp cuối tuần sau lễ Tạ ơn không?”
“Anh nghĩ là được.”
“Tốt, vì em sẽ lên kế hoạch cho một kỳ nghỉ cuối tuần đặc biệt chỉ có hai chúng ta.”
Đó là một kỳ nghỉ cuối tuần mà cả hai đều không thể quên được.
Theresa đã gọi cho anh nhiều hơn thường lệ trong suốt hai tuần trước đó. Thường thì Garrett là người gọi, nhưng có vẻ như mỗi lần anh muốn nói chuyện với cô là cô lại đoán ra trước. Hai lần, trong lúc anh đang bước tới chỗ cái điện thoại để bấm số của cô thì nó đổ chuông trước khi anh tới nơi, và lần thứ hai thì anh chỉ trả lời vào điện thoại, “Chào Theresa.” Điều đó làm cô ngạc nhiên, họ đùa bỡn một lúc về khả năng giao cảm của anh trước khi bắt đầu một cuộc trò chuyện nhẹ nhàng.
Khi anh tới Boston hai tuần sau đó, Theresa đón anh ở sân bay. Cô đã bảo anh mặc diện vào, và anh khoác một chiếc áo blazer bước xuống máy bay, món đồ cô chưa từng thấy anh mặc trước đây.
“Chà,” cô chỉ thốt lên được thế.
Anh ngượng ngịu chỉnh lại cái áo. “Trông anh ổn chứ?”
“Trông anh tuyệt lắm.”
Họ đi thẳng từ sân bay tới chỗ ăn tối. Cô đã đặt chỗ ở một trong những nhà hàng thanh lịch nhất trong thành phố. Họ có một bữa tối thư thái, tuyệt vời, sau đó Theresa đưa Garrett xem vở Những người khốn khổ đang công diễn tại Boston. Buổi diễn đã bán hết vé, nhưng bởi vì Theresa quen giám đốc nên họ được ngồi vào khu đẹp nhất của nhà hát.
Khi họ ra về thì đã khuya, và với Garrett, ngày hôm sau dường như cũng hối hả như thế. Theresa đưa anh tới văn phòng của cô và dẫn anh đi khắp - giới thiệu anh với vài người - và sau đó đi thăm Bảo tàng Mỹ thuật suốt thời gian còn lại của buổi chiều. Tối hôm đó họ đi ăn tối cùng Deanna và Brian tại nhà hàng Anthony - một nhà hàng trên tầng thượng của tòa nhà Prudential nhìn ra khắp thành phố đẹp tuyệt vời.
Garrett chưa từng nhìn thấy thứ gì như vậy.
Bàn của họ ở gần cửa sổ. Cả Deanna và Brian đều đứng dậy chào đón hai người. “Ông bà vẫn còn nhớ Garrett ở bữa ăn nhẹ sáng hôm trước chứ?” Theresa hỏi, cố gắng sao cho nghe không lố.
“Đương nhiên rồi. Hân hạnh được gặp lại anh, Garrett,” Deanna nói, ngả qua để đón cái ôm và hôn phớt lên má. “Tôi xin lỗi vì đã ép Theresa đi cùng tôi hai tuần trước. Tôi hy vọng anh đã không càu nhàu cô ấy quá.”
“Không sao mà,” anh nói, gật đầu cứng nhắc.
“Tôi rất mừng. Vì nghĩ lại, tôi thấy việc đó rất đáng làm.”
Garrett nhìn bà vẻ tỏ mò. Theresa ghé sang và hỏi, “Ý bà là sao, Deanna?”
Mắt Deanna sáng lên. “Hôm qua, sau khi cô đi, tôi đã nhận được một số tin tức tốt lành.”
“Là gì thế?” cô hỏi.
“Ừm,” bà nói vẻ thờ ơ, “tôi đã nói chuyện với Dan Mandel, chủ tịch của tập đoàn Media Information, khoảng gần hai chục phút, và hóa ra là ông ta rất ấn tượng với cô. Ông ấy thích cách xử sự của cô và nghĩ rằng cô khá là chuyện nghiệp. Và hay nhất là…”
Deanna ngừng lại đột ngột, cố nén cười.
“Sao cơ?”
“Ông ấy sẽ đưa chuyên mục của cô lên tất cả các tờ báo của ông ấy, bắt đầu từ tháng Giêng.”
Theresa đưa tay lên miệng để kiềm chế tiếng hét của mình, nhưng nó đủ to để khiến những người ngồi ở các bàn gần đó quay đầu lại. Cô hối hả ào về phía Deanna, nói nhanh. Garrett lùi lại một chút.
“Chắc bà đang đùa.” Theresa kêu lên, không tin.
Deanna lắc đầu, cười toét miệng. “Không. Tôi kể với cô điều mà ông ta đã nói với tôi đấy chứ. Ông ta muốn nói chuyện với cô lần nữa vào thứ Ba. Tôi đã ấn định một buổi hội thảo nhóm qua mạng vào lúc mười giờ.”
“Bà chắc chắn về chuyện đó chứ? Ông ta muốn có chuyên mục của tôi ấy?”
“Chắc luôn. Tôi đã fax cho ông ta bộ tài liệu của cô cùng với nhiều bài cô viết, và ông ta đã gọi cho tôi. Ông ta muốn cô - không còn gì nghi ngờ nữa. Đó là việc ông ta đã quyết định xong.”
“Tôi không thể tin được.”
“Cứ tin đi. Và tôi nghe đồn là có vài người khác nữa cũng quan tâm đấy.”
“Ôi… Deanna…”
Theresa ghé tới và ôm chầm lấy Deanna, sự phấn khích làm khuôn mặt cô bừng lên sinh khí. Brian huých khuỷu tay vào người Garrett.
“Tin tức tuyệt vời phải không?”
Mất một lúc Garrett mới đáp.
“Vâng… tuyệt.”
Sau khi ngồi vào bàn để ăn tối, Deanna gọi một chai sâm banh và nâng cốc chúc mừng Theresa về tương lai xán lạn của cô. Hai người tán gẫu luôn miệng suốt cả bữa tối. Garrett im lặng, không biết phải chêm vào như thế nào. Như thể cảm nhận được sự khó chịu của anh, Brian nghiêng người qua.
“Họ cứ như hai cô học trò ấy nhỉ? Deanna đã diễu hành quanh nhà cả ngày hôm nay, chỉ chờ tới lúc kể với cô ấy đấy.”
“Tôi chỉ ước là mình hiểu được chuyện này hơn một chút. Tôi chẳng biết phải nói gì cả.”
Brian nhấp một chút rượu, lắc đầu. Giọng ông đã hơi nhịu.
“Đừng lo về chuyện đó - có hiểu thì chắc anh cũng không xen được vào lời nào đâu. Họ nói chuyện kiểu này suốt ấy mà. Nếu không biết rõ thì hẳn tôi sẽ thề rằng kiếp trước họ là một cặp song sinh.”
Garrett liếc qua bàn về phía Theresa và Deanna. “Có lẽ ông nói đúng.”
“Hơn nữa,” Brian nói thêm, “anh sẽ hiểu chuyện này hơn khi anh sống với nó toàn thời gian. Sau một thời gian anh sẽ hiểu về nó gần bằng họ thôi. Tôi biết là tôi hiểu.”
Câu bình luận đó không lọt khỏi tai anh. Khi anh sống với nó toàn thời gian.
Thấy Garrett không đáp lại gì, Brian đổi chủ đề. “Thế anh định ở lại bao lâu?”
“Tới tối mai.”
Brian gật đầu. “Thật khó khăn khi không gặp nhau được thường xuyên phải không?”
“Đôi khi.”
“Tôi có thể hình dung được. Tôi biết thỉnh thoảng Theresa cũng buồn về chuyện này.”
Ở phía bên kia bàn, Theresa mỉm cười với Garrett. “Hai người đang nói chuyện gì ở bên đó thế?” cô hỏi vui vẻ.
“Chuyện này chuyện kia,” Brian nói, “chủ yếu là về may mắn của cô.”
Garrett chỉ gật đầu nhanh mà không nói gì, và Theresa nhìn anh chỉnh lại tư thế ngồi. Rõ ràng là anh cảm thấy không thoải mái - mặc dù cô không rõ tại sao - và cô thấy mình cố nghĩ ra cách giải quyết.
“Tối nay anh hơi lặng lẽ,” Theresa nói.
Họ đã về căn hộ của cô, đang ngồi trên đi văng trong tiếng đài bật nhỏ.
“Anh nghĩ là anh chẳng có gì nhiều để nói cả.”
Cô cầm tay anh và nói khẽ. “Em vui vì anh đã ở bên em khi Deanna thông báo cho em tin đó.”
“Anh mừng cho em, Theresa. Anh biết điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với em.”
Cô mỉm cười ngập ngừng. Đổi chủ đề, cô hỏi: “Anh nói chuyện với Brian có vui không?”
“Có… ông ấy rất dễ gần.” Anh ngừng lời. “Nhưng anh không thoải mái lắm khi ở chỗ đông người, nhất là khi anh lại mù tịt về chuyện đang diễn ra. Anh chỉ…” Anh ngừng lại, cân nhắc xem liệu có nên nói ra điều gì khác nữa không, và quyết định thôi.
“Sao?”
Anh lắc đầu. “Không có gì.”
“Không - anh đang định nói gì?”
Một lát sau anh mới đáp, thận trọng lựa lời. “Anh chỉ định nói rằng toàn bộ kỳ nghỉ cuối tuần lần này thật lạ lẫm với anh. Buổi đi xem kịch, những bữa tối đắt tiền, đi chơi với bạn bè của em…” Anh nhún vai. “Đó không phải là điều anh mong đợi.”
“Anh không thấy vui sao?”
Anh vuốt tóc, trông lại có vẻ không thoải mái. “Không phải anh không thấy vui. Chỉ là…” Anh nhún vai. “Đó không phải là anh. Không có gì trong số đó là việc anh vẫn thường làm.”
“Đó là lý do tại sao em lại lên kế hoạch cho kỳ nghỉ cuối tuần này như thế. Em muốn anh làm quen với những điều mới mẻ.”
“Tại sao?”
“Vì cùng lý do anh muốn em học lặn - vì đó là một điều thú vị, một điều khác biệt.”
“Anh không lên đây để làm chuyện gì khác biệt. Anh tới đây để có thời gian yên tĩnh bên em. Anh đã không gặp em một thời gian dài, thế mà kể từ lúc chúng ta về đây dường như chúng ta cứ hối hả chạy từ chỗ này đến chỗ khác. Chúng ta thậm chí còn chưa có cơ hội để nói chuyện mà ngày mai anh đã về rồi.”
“Nói thế là không đúng. Chúng ta đã ở riêng với nhau bữa tối qua rồi còn gì, và cả hôm nay ở bảo tàng nữa. Chúng ta đã có nhiều thời gian để trò chuyện đấy thôi.”
“Em hiểu ý anh muốn nói gì mà.”
“Không, em không hiểu. Anh muốn làm gì nào - cứ quanh quẩn trong nhà sao?”
Anh không trả lời. Thay vì thế anh ngồi im lặng một lúc. Rồi anh đứng lên khỏi ghế, đi quanh phòng và tắt đài đi.
“Có một chuyện quan trọng anh muốn nói từ lúc tới đây,” anh nói mà không quay lại.
“Là gì vậy?”
Anh hạ giọng. Bây giờ hoặc không bao giờ, anh thì thầm với mình. Cuối cùng, quay lại và thu hết can đảm, anh hít một hơi sâu.
“Anh nghĩ rằng suốt một tháng qua không gặp em quả là khó khăn, vì ngay lúc này đây, anh cũng không chắc là liệu anh có muốn tiếp tục như thế này nữa không.”
Trong một giây, cô nghẹt thở.
Thấy vẻ mặt của cô, anh bước tới, cảm thấy ngực thắt lại một cách kỳ lạ trước điều mình sắp nói ra. “Không phải như em đang nghĩ đâu,” anh vội nói. “Em hoàn toàn hiểu sai mất rồi. Không phải anh không muốn gặp em nữa, lúc nào anh cũng muốn gặp em.” Khi tới chỗ ghế, anh quỳ xuống trước mặt cô. Theresa nhìn anh, ngạc nhiên. Anh nắm lấy bàn tay cô.
“Anh muốn em chuyển tới Wilmington.”
Mặc dù biết một lúc nào đó chuyện này sẽ tới, nhưng cô không ngờ nó lại tới vào lúc này, và đương nhiên là không phải như thế này. Garrett nói tiếp.
“Anh biết đó là một bước đi lớn, nhưng nếu em chuyển xuống đó, chúng ta sẽ không phải chịu đựng những khoảng thời gian xa cách lâu như thế này nữa. Chúng ta sẽ gặp nhau hằng ngày.” Anh đưa tay ra vuốt ve má cô. “Anh muốn đi dạo trên bờ biển cùng với em, anh muốn đi thuyền ra biển với em. Anh muốn em ở nhà khi anh từ cửa hàng về. Anh muốn cảm thấy như thể chúng ta đã biết nhau cả cuộc đời rồi…”
Những lời đó tuôn ra rất nhanh, và Theresa cố gắng hiểu. Garrett vẫn nói tiếp.
“Khi chúng ta không ở bên nhau, anh nhớ em nhiều lắm. Anh biết công việc của em ở đây, nhưng anh chắc chắn là tờ báo địa phương sẽ nhận em…”
Anh càng nói, đầu cô càng quay cuồng. Với cô, nó nghe gần như là anh đang cố lặp lại mối quan hệ với Catherine. “Chờ một phút,” cuối cùng cô nói, cắt lời anh. “Em không thể cứ thế xách đồ ra đi. Ý em là… Kevin còn phải đi học…”
“Em không cần phải đi ngay,” anh cự lại. “Đợi lúc nghỉ hè cũng được. Chúng ta đã đi đến được mức này rồi thì vài tháng nữa cũng không có gì khác biệt lắm.”
“Nhưng nó hạnh phúc khi ở đây - đây là nhà nó. Nó có bạn bè, bóng đá…”
“Ở Wilmington nó sẽ có tất cả những cái đó.”
“Anh không hiểu rồi. Anh nói nghe thì dễ, nhưng anh không biết liệu có chắc là sẽ như thế không.”
“Em không thấy là anh và thằng bé hợp nhau đến mức nào ư?”
Cô buông tay anh ra, bắt đầu thấy nản. “Chẳng liên quan gì đến chuyện ấy cả, anh không hiểu sao? Em biết anh và thằng bé hợp nhau, nhưng ấy là anh đâu có bảo nó phải thay đổi cuộc sống của nó. Em cũng đâu bảo nó phải thay đổi cuộc sống của nó.” Cô ngừng lại. “Hơn nữa, chuyện này không chỉ là về nó. Còn em thì sao, Garrett? Anh đã ở đây tối nay - anh biết chuyện gì đã diễn ra. Em vừa nhận được một tin tức tuyệt vời về chuyên mục của em, thế mà giờ anh muốn em từ bỏ cả điều đó nữa sao?”
“Anh không muốn từ bỏ chúng ta. Hai chuyện khác hẳn nhau chứ.”
“Thế thì sao anh không tới Boston?”
“Và làm gì?”
“Làm việc anh vẫn làm ở Wilmington. Dạy lặn, đi thuyền, bất cứ việc gì. Anh chuyển đi thì dễ dàng hơn em chuyển đi rất nhiều.”
“Anh không thể làm vậy. Như anh đã nói, chỗ này” - anh chỉ quanh căn phòng và về phía cửa sổ - “không phải là anh. Ở đây anh thấy lạc lõng.”
Theresa đứng dậy đi quanh phòng, kích động. Cô vọc tay lên tóc. “Như thế là không công bằng.”
“Cái gì không công bằng?”
Cô quay lại phía anh. “Toàn bộ chuyện này. Bảo em phải chuyển đi, bảo em phải thay đổi toàn bộ cuộc sống của em. Như thể anh ra điều kiện vậy - ‘Chúng ta có thể ở bên nhau, nhưng sẽ phải theo cách của anh.’ Vậy còn cảm giác của em thì sao? Chúng cũng chẳng có gì quan trọng phải không?”
“Đương nhiên là có chứ. Em rất quan trọng - chúng ta quan trọng.”
“Nhưng anh nói nghe không có vẻ gì là như vậy. Như thể anh chỉ nghĩ cho bản thân anh thôi vậy. Anh muốn em từ bỏ mọi thứ em đã gây dựng, nhưng anh lại không muốn phải từ bỏ bất cứ điều gì.” Mắt cô không rời khỏi mắt anh.
Garrett đứng dậy khỏi ghế, đi về phía cô. Khi anh đến gần, cô lùi lại, đưa hai tay lên như một thanh chắn.
“Nghe này, Garrett - em không muốn anh đụng vào em lúc này, được không?”
Anh buông tay xuống cạnh hông. Suốt một lúc lâu không ai nói gì. Theresa khoanh tay lại nhìn đi chỗ khác.
“Vậy anh nghĩ câu trả lời của em là em sẽ không đi,” cuối cùng anh nói, nghe có vẻ giận dữ.
Cô thận trọng nói. “Không. Câu trả lời của em là chúng ta sẽ phải nói cho thấu đáo về chuyện này.”
“Để em có thể thuyết phục anh rằng anh đã sai?”
Câu nói của anh không đáng được trả lời. Lắc đầu, cô đi tới chỗ bàn ăn trong bếp, cầm lấy túi xách đi ra cửa.
“Em đi đâu thế?”
“Em đi mua rượu. Em cần uống một chút.”
“Nhưng khuya rồi.”
“Có một cửa hàng ở cuối dãy nhà. Mấy phút nữa em sẽ về.”
“Tại sao chúng ta không thể nói chuyện đó ngay bây giờ?”
“Vì,” cô nói nhanh, “em cần vài phút một mình để suy nghĩ.”
“Em định chạy trốn à?” Nghe như một lời buộc tội.
Cô mở cửa, giữ cửa trong lúc nói. “Không, Garrett, em không chạy trốn. Mấy phút nữa em sẽ về. Và em không tán thành cách anh nói với em như vậy. Anh chẳng công bằng chút nào khi làm em phải thấy có lỗi về chuyện này. Anh vừa bảo em phải thay đổi toàn bộ cuộc sống của mình, và giờ em cần vài phút để nghĩ về điều đó.”
Cô rời khỏi căn hộ. Garrett nhìn trân trân vào cánh cửa vài giây, chờ xem cô có quay lại không. Khi không thấy cô quay lại, anh thầm rủa mình. Chẳng chuyện gì xảy ra như anh tưởng cả. Một phút trước anh bảo cô chuyển về Wilmington, phút sau cô ra khỏi nhà, cần ở một mình. Làm thế nào mà chuyện lại xảy ra khác với dự tính của anh thế nhỉ?
Không biết phải làm gì khác, anh đi đi lại lại quanh nhà. Anh ngó vào bếp, rồi phòng Kevin, và tiếp tục đi. Tới phòng ngủ của cô, anh dừng lại một chút trước khi bước vào. Đến giường cô, anh ngồi xuống, gục đầu vào hai bàn tay.
Anh có công bằng không khi đề nghị cô chuyển đi? Cứ cho là cô có một cuộc sống ở đây - một cuộc sống tốt đẹp - nhưng anh cảm thấy chắc chắn rằng cô có thể có được nó ở Wilmington. Dù anh nhìn ở góc độ nào thì có lẽ nó vẫn tốt hơn cuộc sống chung của họ ở đây. Nhìn quanh, anh biết là anh không thể nào sống ở một căn hộ được. Nhưng dù họ có chuyển tới một ngôi nhà - liệu nó có quang cảnh thoáng đãng không? Hay là họ sẽ sống ở khu ngoại ô, xung quanh là hàng chục ngôi nhà trông y hệt nhau?
Chuyện này thật phức tạp. Và không hiểu sao mọi điều anh nói ra đều bị hiểu lầm hết cả. Anh không muốn cô cảm thấy như thể anh đang ra tối hậu thư cho cô như vậy, nhưng nghĩ lại, anh nhận thấy đó đúng là việc mình đã làm.
Thở dài, anh tự hỏi phải làm gì tiếp theo đây. Không hiểu sao anh không nghĩ mình có thể nói gì khi cô trở lại mà không dẫn tới một cuộc tranh cãi khác. Trên hết, anh không muốn điều đó. Tranh cãi hiếm khi đưa tới giải pháp, mà đó mới là thứ họ cần lúc này.
Nhưng nếu anh có thể nói gì đó, thì còn gì khác nữa nào? Anh nghĩ một lát trước khi cuối cùng quyết định viết cho cô một lá thư, phác thảo những suy nghĩ của anh. Lúc viết anh luôn suy nghĩ thấu suốt hơn - nhất là trong vài năm trở lại đây - và có lẽ cô sẽ hiểu lý do anh định nói gì.
Anh liếc về phía cái bàn cạnh giường. Điện thoại của cô đang để ở đó - có lẽ thỉnh thoảng cô nhận được tin nhắn - nhưng anh không thấy bút hoặc giấy viết đâu. Anh mở ngăn kéo ra, lục tìm, và thấy một cái bút bi ở gần phía ngoài.
Đang tiếp tục bới quanh tìm một ít giấy - qua các cuốn tạp chí, một vài cuốn sách bìa mềm, vài cái hộp nữ trang trống rỗng - thì có cái gì đó quen thuộc đập vào mắt anh.
Một cái thuyền buồm.
Nó nằm trên một mảnh giấy, lèn giữa một cuốn sổ công tác mỏng và một ấn bản cũ tạp chí Laides Home Journal. Anh cầm lên, đoán rằng nó là một trong những lá thư anh đã viết cho cô vài tháng trước, rồi đột nhiên điếng cả người.
Sao lại có thể như thế?
Loại giấy đó là một món quà của Catherine, và anh chỉ dùng nó khi viết cho cô. Những lá thư cho Theresa được viết bằng loại giấy khác, một loại mà anh mua ở cửa hàng.
Anh nín thở. Anh nhanh tay nhấc đồ ra khỏi ngăn kéo - bỏ cuốn tạp chí ra và nhẹ nhàng nhấc lên, không phải một, mà là năm - năm tờ giấy! Vẫn còn chưa hiểu rõ chuyện gì, anh chớp mắt dữ dội đoạn liếc nhìn tờ thứ nhất, và trên đó, bằng nét chữ nguệch ngoạc của anh, là những từ:
Catherine yêu dấu nhất đời…
Ôi chúa ơi. Anh lật sang trang thứ hai, một bản photo.
Catherine thân yêu của anh…
Lá thư tiếp theo.
Catherine thân yêu…
“Cái gì thế này,” anh lẩm bẩm, không thể tin nổi cái mình đang nhìn thấy. “Không thể nào…” Anh nhìn khắp lượt mấy trang giấy lần nữa để chắc chắn.
Nhưng đó là sự thật. Một cái là thật, hai cái còn lại là bản sao, nhưng chúng đều là những lá thư của anh, những lá thư anh viết cho Catherine. Những lá thư anh viết sau những giấc mơ, những lá thư anh đã thả xuống từ con thuyền Happenstance và không bao giờ mong đợi sẽ thấy lại.
Bị thôi thúc, anh bắt đầu đọc, và theo từng từ, từng câu, anh lại cảm thấy những cảm xúc của mình dồn lên, cùng lúc ùa về với anh. Những giấc mơ, những ký ức, nỗi mất mát, nỗi đau đớn của anh. Anh dừng lại.
Miệng anh khô khốc, anh mím môi lại. Thay vì đọc thêm, anh chỉ nhìn chằm chằm vào chúng trong cơn choáng váng. Anh hầu như không nghe thấy tiếng cửa mở rồi đóng lại. Theresa gọi to, “Garrett, em về rồi đây.” Cô ngừng lại, và anh có thể nghe thấy tiếng cô đi vào trong nhà. Rồi, “Anh ở đâu?”
Anh không trả lời. Anh không thể làm gì ngoài cố hiểu làm sao chuyện này lại xảy ra được. Làm sao cô lại có được chúng? Đây là những lá thư của anh… những lá thư riêng tư của anh.
Những lá thư gửi cho vợ anh.
Những lá thư chẳng liên quan gì đến ai khác.
Theresa bước vào phòng và nhìn thấy anh. Mặc dù anh không biết, nhưng mặt anh tái nhợt, các khớp ngón tay trắng ra trong lúc nắm chặt lấy những trang giấy.
“Anh ổn chứ?” cô hỏi, không nhận ra thứ gì đang ở trong tay anh.
Mất một lúc, như thể anh không nghe thấy cô nói gì. Rồi, chậm chạp ngước lên, anh nhìn cô trừng trừng.
Giật mình, cô lại định nói. Rồi thôi. Giống như một con sóng, mọi thứ cùng lúc đập vào mắt cô - ngăn kéo mở, những tờ giấy trong tay anh, vẻ mặt của anh - và cô biết ngay chuyện gì đã xảy ra.
“Garrett… em có thể giải thích,” cô nói nhanh, lí nhí. Có vẻ như anh không nghe cô nói.
“Những lá thư của anh…” anh thì thào. Anh nhìn cô, một sự hòa trộn giữa vẻ khó hiểu và tức giận.
“Em…”
“Làm sao em có được những lá thư của anh?” anh cật vấn, giọng anh khiến cô nao núng.
“Em tìm thấy một lá bị dạt vào bờ biển và…”
Anh cắt lời cô. “Em tìm thấy nó?”
Cô gật đầu, cố gắng giải thích. “Lúc ở Cape Cod. Em đang chạy bộ thì tình cờ thấy cái chai…”
Anh liếc nhìn trang thứ nhất, lá thư nguyên bản duy nhất. Nó là lá thư đầu tiên mà anh đã viết vào năm đó. Nhưng những lá thư khác…
“Thế còn những cái này?” anh hỏi, giơ những bản sao ra. “Chúng ở đâu ra?”
Theresa trả lời nhẹ nhàng. “Chúng được gửi tới cho em.”
“Ai gửi?” Bối rối, anh đứng dậy khỏi giường.
Cô bước một bước về phía anh, chìa tay ra. “Bởi những người khác cũng nhặt được chúng. Một trong số những người đã đọc chuyên mục của em…”
“Em đăng thư của anh ư?” Anh nói nghe như thể vừa bị đánh trúng bụng vậy.
Mất một lúc cô không trả lời. “Em đã không biết…” cô mào đầu.
“Em đã không biết gì chứ?” anh to tiếng, sự tổn thương lộ rõ trong giọng anh. “Rằng làm vậy là sai trái à? Rằng đây không phải là thứ mà anh muốn cho cả thế giới cùng xem à?”
“Nó bị dạt vào bờ biển - anh phải biết sẽ có ai đó nhặt được chứ,” cô nói nhanh. “Em đã không sử dụng tên anh.”
“Nhưng em đã đưa nó lên báo…” Anh nói nhỏ dần với vẻ hoài nghi.
“Garrett… em…”
“Đừng,” anh nói giận dữ. Anh lại liếc nhìn những lá thư, rồi nhìn cô, như thể anh mới gặp cô lần đầu. “Em đã nói dối anh,” anh nói, gần như thể đó là một sự phát giác vậy.
“Em không nói dối…”
Anh không chịu nghe. “Em đã nói dối anh,” anh nhắc lại, như thể với chính mình. “Và em tới tìm anh. Tại sao? Để em có thể viết một bài khác. Chuyện có phải là như thế không?”
“Không… không hề như thế…”
“Vậy thì nó là gì?”
“Sau khi đọc những lá thư của anh, em… em đã muốn được gặp anh.”
Anh không hiểu cô đang nói gì. Anh cứ hết nhìn lá thư lại nhìn cô. Vẻ mặt anh đau đớn.
“Em đã nói dối anh,” anh nói lần thứ ba. “Em đã lợi dụng anh.”
“Em không…”
“Có, em đã làm thế!” anh hét lên, giọng anh vang vọng khắp căn phòng. Nhớ tới Catherine, anh giơ những lá thư ra trước mặt mình, như thể Theresa chưa từng nhìn thấy chúng bao giờ. “Những lá thư này là của anh - những tình cảm, suy nghĩ, cách chống chọi với việc mất đi người vợ của anh. Của anh - không phải của em.”
“Em không định làm anh tổn thương.”
Anh nhìn cô trân trân, không nói một lời. Cơ hàm của anh căng ra.
“Toàn bộ chuyện này là giả, phải không,” cuối cùng anh nói, không chờ cô trả lời. “Em lấy đi những tình cảm anh dành cho Catherine và cố gắng bóp méo chúng thành cái mà em muốn. Em nghĩ rằng anh yêu Catherine thì anh cũng sẽ yêu em, phải vậy không?”
Dù không muốn nhưng cô cứ tái nhợt đi. Đột nhiên cô cảm thấy không thể nói được nữa.
“Em đã lên kế hoạch cho toàn bộ chuyện này ngay từ đầu, phải không?” Anh lại ngừng lời, dùng bàn tay rảnh vọc lên tóc. Khi anh nói, giọng anh bắt đầu nghẹn ngào. “Toàn bộ chuyện này đã được sắp đặt trước…”
Anh có vẻ choáng vàng mất một lúc, cô bèn đưa tay về phía anh.
“Garrett - đúng, em thừa nhận là em đã muốn gặp anh. Những lá thư thật đẹp - em muốn nhìn xem người đã viết ra những lá thư như thế là người thế nào. Nhưng em không biết chuyện đó sẽ dẫn tới đâu, em không sắp đặt cho bất cứ chuyện gì sau đó.” Cô nắm lấy tay anh. “Em yêu anh, Garrett. Anh phải tin em.”
Đợi cô nói xong, anh giật tay ra và quay đi.
“Em là loại người gì vậy?”
Câu nó đó nghe đau nhói, cô liền đáp lại với vẻ phòng vệ, “Không phải như anh nghĩ đâu…”
Garrett tiếp tục, không thèm đếm xỉa đến phản ứng của cô. “Em đã bị mắc vào một ảo tưởng quái dị…”
Thế này thì quá lắm. “Thôi đi, Garrett!” Cô hét lên giận dữ, bị tổn thương bởi những lời anh nói. “Anh không thèm nghe bất cứ điều gì em nói.” Vừa hét, cô vừa cảm thấy nước mắt dâng lên.
“Tại sao anh phải nghe? Em đã nói dối anh ngay từ khi anh biết em.”
“Em không nói dối! Chỉ là em không nói với anh về những lá thư thôi!”
“Vì em biết thế là sai trái!”
“Không phải - bởi vì em biết anh sẽ không hiểu,” cô nói, cố gắng lấy lại bình tĩnh.
“Chắc chắn là anh hiểu chứ. Anh hiểu em là loại người như thế nào!”
Mắt cô nheo lại. “Đừng như thế!”
“Như thế nào? Điên rồ? Tổn thương? Anh vừa phát hiện ra toàn bộ chuyện này đều là giả vờ, và giờ em muốn anh thôi đi?”
“Im ngay!” cô hét trả, cơn giận của cô bùng lên.
Có vẻ sững sờ vì câu nói đó của cô, anh nhìn cô chằm chằm không nói một lời. Cuối cùng, giọng nghẹn ngào, anh lại giơ những lá thư ra.
“Em tưởng là em hiểu điều mà Catherine và anh đã có với nhau, nhưng không đâu. Dù em có đọc bao nhiêu lá thư đi nữa - dù em có hiểu anh rõ đến đâu - em cũng sẽ không bao giờ hiểu được. Cái mà cô ấy và anh từng có là thật. Nó là thật, và cô ấy là thật…”
Anh ngừng lại, trấn tĩnh, coi cô như một người xa lạ. Rồi, cứng rắn hơn, anh nói một câu khiến cô đau lòng hơn bất cứ điều gì anh đã nói cho đến giờ.
“Chúng ta thậm chí không bao giờ có thể gới gần cái mà anh và Catherine từng có.”
Anh không đợi cô đáp lại. Thay vì vậy, anh bước qua cô, về phía chiếc va li của anh. Sau khi ném tất cả mọi thứ vào trong, anh nhanh tay kéo khóa. Trong một lúc cô đã nghĩ tới chuyện ngăn anh lại, nhưng câu nói của anh vẫn khiến cô choáng váng.
Anh đứng dậy, xách túi. “Những thứ này,” anh nói, cầm mấy lá thư, “là của anh, và anh sẽ mang chúng theo.”
Đột nhiên hiểu ra ý định của anh, cô hỏi, “Sao anh lại bỏ đi?”
Anh nhìn cô chằm chằm. “Anh thậm chí còn không biết em là ai.”
Không nói thêm lời nào, anh quay gót và bước qua phòng khác rồi ra khỏi cửa.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui