ĐOẠN 23ÂM:TỊNH TÂM HÀNH THIỆN.Phục thứ Tu-bồ-đề! Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A-nậu-đa-la tammiệu tam-bồ-đề.
Dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả tu nhất thiết thiện pháp tắc đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Tu-bồ-đề! Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp.DỊCH:TÂM TRONG SẠCH LÀM VIỆC THIỆN.Lại nữa Tu-bồ-đề, pháp này bình đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Do không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả tu tất cả pháp lành tức được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Tu-bồ-đề, nói rằng pháp lành đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp lành, ấy gọi là pháp lành.GIẢNG:Tịnh tâm là tâm trong sạch tức là không còn chấp ngã, chấp pháp, lúc đó lại làm lành nữa mới gọi là Phật.
Đây đức Phật nói: Pháp này bình đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bình đẳng không có cao thấp gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hay nói ngược lại là pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là tâm bình đẳng không có cao thấp.
Bình đẳng là thế nào? Quí vị thử hiểu xem.
Như hiện giờ trong giảng đường có một trăm người nhưng trình độ học thức hiểu biết có bình đẳng không? Nếu đem ra đo lường trình độ thì một trăm người này có thể sai biệt nhau vô cùng, kẻ hơn cái này, người thua cái kia… luôn luôn có sai biệt.
Như thế trên tâm lượng hiểu biết do học tập được thì tất cả chúng ta có bình đẳng không? Nay tất cả những kiến thức do học được và những kiến thức do kinh nghiệm trong cuộc sống, chúng ta dẹp qua một bên, lặng hết mọi vọng tưởng thì lúc đó chúng ta có nghe, có thấy, có biết, nhưng những cái đó có bình đẳng không? Thế nên pháp này bình đẳng không cao thấp là thế, nghĩa là người nào đến chỗ đó, tức là được bình đẳng, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Chúng ta học đạo muốn được đạo là chỗ đó.
Vì thế đức Phật bảo: Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật.
Nhưng hiện nay sở dĩ chúng ta có thiên sai vạn biệt là do huân tập, chứa chấp không đồng.
Cái thiên sai vạn biệt đó là tướng huân tập bên ngoài đem lại, là những chủng tử sanh diệt, chúng ta bám vào đó cho là mình nên bị dẫn đi trong luân hồi sanh tử.
Huân tập cái gì nhiều thì sức mạnh của cái đó dẫn đi, gọi là theo nghiệp thọ sanh.
Nếu những cái đó chúng ta cho lặng hết, chỉ còn cái tri giác bình đẳng, lúc đó không còn nghiệp nào dẫn chúng ta đi, là giải thoát, là Phật.
Thành Phật ngay ở chỗ đó.
Như thế quí vị nghĩ ở đây có người nào không có khả năng thành Phật không? Ai cũng có mà chỉ ưng hay không ưng làm thôi.
Ai không ưng làm thì cứ làm chúng sanh, còn ai ưng làm thì người đó có ngày sẽ thành Phật.
Thế nên đừng trách ai mà phải tự trách mình tại sao không ưng làm Phật, do không ưng làm Phật nên cứ lạy Phật hoài.
Nay tất cả những gì Phật đã làm, chúng ta làm theo đúng như vậy thì chúng ta sẽ là Phật.
Như thế pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã sẵn nơi mình, không người nào thiếu.
Người nào còn thấy, còn nghe, còn biết thì người đó có khả năng thành Phật.
Nếu tất cả chúng ta buông hết những cái do bên ngoài huân vào thì chỉ còn cái ta chân thật, khi ấy sẽ không còn luân hồi sanh tử, đó là giác ngộ thành Phật, đó là căn bản.
Như thế thì không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả, vì đến chỗ bình đẳng thì không còn thấy có mình, có người, không thấy ngã nhân thì không thấy chúng sanh, thọ giả.
Tại sao? Vì khi quí vị buông tất cả, vọng tưởng lặng xuống chỉ còn cái chân thật hằng giác hằng tri, cái đókhông có niệm dấy lên phân biệt đây là mình, kia là người, cũng không dấy niệm ta là chúng sanh… Chúng sanh là tướng duyên hợp, do các duyên hợp lại mà thành, mà sanh nên gọi là chúng sanh.
Cái chân thật đó không phải là tướng duyên hợp nên không phải là chúng sanh, không có chúng sanh thì không có thọ giả tức thọ mạng, không bao giờ sanh thì làm gì có tử mà nói có thọ mạng.
Quí vị thấy đến đó là mất hết bốn tướng.
Nhưng không phải đến đó rồi không làm gì hết, đến đó lại phải làm tất cả pháp lành, mới là điều đặc biệt.
Điều này quí vị nghe cũng khó hiểu.
Tại sao đến khi không thấy bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả lại làm lành chi vậy? Tôi ví dụ như một hôm quí vị đi đường, bỗng dưng thấy một người té, người đó không phải là thân, cũng không phải là thù, quí vị liền đỡ họ.
Khi quí vị hành động như vậy là do niệm thân thù hay do cái gì? Không có niệm gì hết, thấy họ khổ thì ta giúp.
Đó là một ví dụ nhỏ khi mình chưa sạch bốn tướng, huống là khi tất cả chấp ngã, chấp nhân lặng rồi thì các hành động phát ra đều lành hết, cái lành đó là Vô duyên từ, nghĩa là lòng từ không có duyên cớ.
Chúng ta hiện nay lòng từ sanh ra đều có duyên cớ.
Tỉ dụ hôm nay có một huynh đệ thấy mình thiếu thức ăn, họ đem qua cho mình một đĩa thức ăn, ngày mai mình thấy huynh đệ đó thiếu thức ăn, nếu mình có thì mình đem cho lại, như vậy lòng từ giúp đỡ nhau đó có duyên cớ chớ đâu phải không duyên cớ.
Cả khi những người tật nguyền đến xin mình, có khi mình cũng giúp với lòng không có niệm gì hết, nhưng nhiều khi giúp họ mà mình nghĩ là bố thí cho có phước.
Nói có phước tức là một lối bỏ ống chớ gì, như vậy cũng là có duyên cớ.
Không còn ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì lòng từ không có duyên cớ, thấy người khổ là giúp, vì đâu còn thấy có mình có người mà còn có duyên cớ.
Chúng ta vì thấy có người có mình nên làm gì cũng qui về bản ngã, hoặc là bản ngã hưởng ngay bây giờ hoặc mai sau hưởng, nên việc làm có duyên cớ, lòng từ có duyên cớ.
Đó là để thấy rõ khi tu hành đến đó rồi làm tất cả pháp lành chớ không phải tâm như như rồi không làm gì hết.
Nếu không làm chi cả thì Phật đâu có đi thuyết pháp bốn mươi chín năm, Bồ-tát đạt đến đó rồi cũng đem lục độ giáo hóa chúng sanh.
Hiểu như thế mới thấy rằng khi đến đó mới có lòng từ không duyên cớ và đó mới là lòng từ chân thật.
Còn chúng ta hiện nay lòng từ tuy có, nhưng cũng còn mưu toan tính toán hoặc ít hoặc nhiều.
Người đời thường nói: Thấy phơi lúa mới cho mượn gạo, nếu như không thấy họ phơi lúa thì không muốn cho mượn gạo… Chúng ta giúp nhau phần nhiều là thấy người kia có thể giúp lại mình việc gì mai sau, như thế đều là những việc có tính toán cả, tâm đó chưa phải bình đẳng, chưa phải là cứu kính.
Phải đến chỗ không còn bốn tướng mà vẫn làm pháp lành đó mới gọi là được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Không còn ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, tức là những cái giả đó đã phá sạch rồi, đến chỗ như như lại còn hiện thân làm tất cả việc lợi ích cho chúng sanh, như thế mới là Phật.Nói pháp lành nhưng e chúng ta chấp pháp lành là thật, nên Phật bảo ngài Tu-bồđề: Pháp lành đó Như Lai nói tức không phải pháp lành, ấy gọi là pháp lành.
Ở thế gian nói thiện nói ác chẳng qua là tướng duyên thôi.
Như thế thì nói pháp lành chẳng qua làcái tướng của duyên khởi, không có thật cho nên nói không phải pháp lành, nhưng giả danh tạm gọi là pháp lành.
Làm đau khổ chúng sanh gọi là ác, làm an vui chúng sanh gọi là lành.
Khi đạt đạo rồi, sống được bình đẳng thì thấy tất cả chúng sanh nào khổ mình giúp, giúp họ được vui tạm gọi là lành, chớ đâu phải thật có một pháp lành.
Đó là Tịnh tâm hành thiện, tâm hoàn toàn không còn ngã pháp mà làm lành.ĐOẠN 24ÂM:PHƯỚC TRÍ VÔ TỈ.Tu-bồ-đề! Nhược tam thiên đại thiên thế giới trung sở hữu chư Tu-di sơn vương, như thị đẳng thất bảo tụ, hữu nhân trì dụng bố thí.
Nhược nhân dĩ thử Bát-nhã ba-la-mật kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì độc tụng, vị tha nhân thuyết, ư tiền phước đức bách phần bất cập nhất, bách thiên vạn ức phần nãi chí toán số thí dụ sở bất năng cập.DỊCH:PHƯỚC TRÍ KHÔNG GÌ SÁNH BẰNG.Này Tu-bồ-đề, nếu trong tam thiên đại thiên thế giới có các ngọn núi Tu-di chúa, như thế dùng bảy báu nhóm họp bằng những ngọn núi Tu-di ấy có người mang ra bố thí.
Hoặc có người đem kinh Bát-nhã ba-la-mật này cho đến bốn câu kệ v.
v… thọ trì đọc tụng, vì người khác nói thì phước đức của người này đối với người trước, người này trăm phần, người kia không bằng một, trăm ngàn muôn ức phần cho đến toán số thí dụ cũng không thể bằng.GIẢNG:Lại một lần nữa đức Phật so sánh phước đức của người trì kinh Kim Cang.
Ngài bảo: Giả sử như trong tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu ngọn núi lớn Tu-di, có người đem bảy báu như vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.
v… chất bằng những quả núi Tu-di đó ra bố thí, lại có người ngay trong kinh Bát-nhã ba-la-mật này, cho đến bốn câu kệ, thọ trì, đọc tụng vì người nói thì phước của người này được một trăm phần, còn phước của người bố thí bảy báu đó không được một phần, cho đến người này được trăm ngàn muôn ứcphần, người kia cũng không được một phần.
Như thế để nói phước của người thọ trì đọc tụng và vì người nói kinh Kim Cang hơn phước của người kia không thể tính kể.
Tại sao thế? Quí vị thấy thọ trì bốn câu kệ kinh Kim Cang có khó không? Đọc tụng rồi vì người nói thì đâu có gì cực nhọc lắm.
Tôi xin hỏi: Giả sử gom hết những ngọn núi trên nước Việt Nam mình thì khối lượng đó bao lớn? Chúng ta có vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.
v… bằng khối lượng đó đem ra bố thí thì quí vị nghĩ xem có nhiều không? Độ chừng bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, chúng ta tích tụ được vàng bạc, của báu bằng những ngọn núi đó? Thật không biết đời kiếp nào mà kể.
Giả sử như ngay ngọn núi lớn Vũng Tàu, chúng ta phải làm trong bao nhiêu đời để có vàng đầy ngọn núi này, huống nữa là vàng bạc bằng bao nhiêu ngọn Tu-di để đem ra bố thí.
Thế mà phước không bằng người thọ trì đọc tụng và vì người nói kinh Kim Cang.
Đối với kinh này, thọ trì đọc tụng vì người khác nói chỉ bốn câu kệ thôi, mà phước của người này một trăm phần, người kia không được một phần.
Như thế quí vị chọn việc nào? Thọ trì bốn câu kinh Kim Cang ngay đời này chúng ta làm được không? Còn đem của báu bằng ngọn núi lớn, núi nhỏ Vũng Tàu ra bố thí thì bao nhiêu đời chúng ta làm được? Việc nào dễ làm? Việc thọ trì đọc tụng bốn câu kệ kinh Kim Cang xem ra không khó phải không? Thế tại sao chúng ta không ưng làm việc đó? Muốn thọ trì, đọc tụng bốn câu kệ kinh Kim Cang, quí vị nhớ xem phải làm sao?Nếu nói kệ, trong kinh Kim Cang có hai bài, một bài nói:Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai.Hoặc bài cuối:Nhất thiết hữu vi pháp, Như, mộng, huyễn, bào, ảnh, Như lộ diệc như điện, Ưng tác như thị quán.Hai bài đó quí vị đọc trong bao lâu thì thuộc? Một lát thôi.
Trì chừng bao lâu? Nhẹ thật là nhẹ phải không? Vừa nhẹ lại vừa dễ mà tại sao chúng ta không làm? Nhưng tôi xin nhắc lại: Thọ là nhận, trì là giữ, nhận giữ mãi trong lòng gọi là thọ trì, và lâu lâu đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe… Nhưng nhận giữ như thế nào? Như tôi đã nói: Phật thấy tất cả chúng sanh không phải chúng sanh, do duyên hợp nên gọi là chúng sanh.
Nếu chúng ta luôn luôn thấy như vậy, thấy mình, thấy người đều biết rõ là tướng duyên hợp không thật, do duyên hợp nên tạm gọi là ta, luôn biết như thế là trì kinh Kim Cang.
Như vậy có khó không? Quí vị thấy khó ư? Lúc nào, đi đâu cũng cứ như thế mà thọ trì, luôn luôn thấy rõ như thế, không phút giây nào lầm.
Thọ trì như thế, quí vị từ con người phàm dần dần thành Thánh.
Vậy tại sao không chịu thọ trì? Làm Thánh thì ưng mà thọ trì như thế thì không chịu.
Quí vị hiểu tại sao không? Tại vô minh cứ che hoài, mới vừa nhớ một chút, kế lại quên, thấy ta thật, người thật, cái chi cũng thật, chớ nếu hằng nhớ, hằngthấy như lời Phật dạy, thấy mình là duyên hợp hư giả, người là duyên hợp hư giả thì quí vị nghĩ còn gì mà sân si, còn gì mà tham lam! Chỉ bao nhiêu đó thôi mà đã gần bậc Thánh rồi, huống nữa là đầy đủ bốn câu! Thế nên việc đó thật ra không phải là khó, nhưng vì chúng ta mê nên quên mãi…Có nhiều người đến hỏi chúng tôi: Quí thầy ở đây lâu năm tu hành như thế nào? Tôi đáp: Chỉ có bài kinh Bát-nhã mà đọc hoài không thuộc, cứ quên tới, quên lui! Ở đây Phật nói ngắn hơn, chỉ bốn câu kệ thôi mà vẫn không thuộc.
Nghĩa là ở đây coi như thuộc, bước ra khỏi chùa là hết thuộc, vì vừa ra khỏi là tính mai làm gì, mốt làm gì v.
v… tính một hồi là quên mất câu kinh… Thế nên tất cả chúng ta đều quên, quên mãi, mà quên đó là mê.
Vì thế đức Phật chỉ thật là kỹ: Dù cho chúng ta đem bao nhiêu của báu bố thí cũng không bằng trì bốn câu kinh Kim Cang.
Ứng dụng thọ trì bốn câu kinh Kim Cang là phước hơn làm ra bao nhiêu của báu để bố thí.
Thật ra nếu chúng ta nhận được lý đó để sống, tự nhiên chúng ta chuyển cả cuộc đời mình, chuyển từ cái thân giả dối trở lại cái chân thật.
Còn bố thí của cải dù nhiều bao nhiêu đi nữa, sau này sanh ra mình hưởng, nhưng cũng vẫn ở trong sanh diệt.
Thế nên khéo trì kinh Kim Cang là đã chuyển mê thành ngộ, bỏ thân luân hồi sanh diệt trở về cái vô sanh, như thế phước đức không gì sánh bằng..
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...