Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo chư Bồ-Tát :Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ nhẫn, nếu được nhẫn nầy thời được đến nơi vô-ngại nhẫn-địa của tất cả Bồ-tát, tất cả phật-pháp vô-ngại vô-tận.Ðây là mười nhẫn : âm-thanh nhẫn, thuận nhẫn, vô-sanh-pháp nhẫn, như huyễn nhẫn, như diệm nhẫn, như mộng nhẫn, như hưởng nhẫn, như ảnh nhẫn, như hóa nhẫn, như không nhẫn.Mười nhẫn nầy, tam-thế chư Phật đã nói, nay nói, sẽ nói.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát âm-thanh nhẫn?Nghĩa là nghe những pháp của chư Phật nói, chẳng kinh chẳng hãi chẳng sợ, thâm tín ngộ giải, ưa thích xu-hướng, chuyên tâm ghi nhớ, tu tập an-trụ.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát thuận-nhẫn ?Nghĩa là ở nơi phật-pháp tư-duy quán-sát bình-đẳng không trái, tùy thuận biết rõ, khiến tâm thanh-tịnh, chánh trụ tu tập xu nhập thành-tựu.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát vô-sanh-pháp nhẫn ?Ðại Bồ-Tát nầy chẳng thấy có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp nào diệt.
Tại sao vậy ? Vì nếu đã vô-sanh thời vô-diệt.
Nếu đã vô-diệt thì vô-tận.
Nếu vô-tận thời ly-cấu.
Nếu ly-cấu thời vô-sai-biệt.
Nếu vô-sai-biệt thời vô-xứ-sở.
Nếu vô-xứ-sở thời tịch-tịnh.
Nếu tịch-tịnh thời ly-dục.
Nếu ly-dục thời vô-tác.
Nếu vô-tác thời vô-nguyện.
Nếu vô-nguyện thời vô trụ.
Nếu vô-trụ thời vô-khứ vô-lai.
Ðây gọi là thứ ba, vô-sanh-pháp-nhẫn của đại Bồ-Tát.Chư Phật-tử ! Thế nào là như-huyễn-nhẫn ?Ðại Bồ-Tát nầy biết tất cả pháp đều như huyễn, từ nhơn duyên khởi.
Ở trong một pháp hiểu nhiều pháp, trong nhiều pháp hiểu một pháp.
Ðã biết các pháp như huyễn, đại Bồ-Tát nầy rõ thấu quốc-độ, chúng-sanh, pháp-giới.
Rõ thấu thế-gian bình-đẳng, Phật xuất-thế bình-đẳng, tam-thế bình-đẳng.
Thành-tựu những thần-thông biến-hóa.Ví như huyễn chẳng phải voi, ngựa, xe, nam, nữ, đồng-nam, đồng-nữ, chẳng phải cây, lá, bông, trái, đất, nước, lửa, gió, chẳng phải ngày, đêm, mặt trời, mặt trăng, chẳng phải nửa tháng, một tháng, một năm, trăm năm,một kiếp, nhiều kiếp, chẳng phải định, loạn, thuần, tạp, một, khác, chẳng phải rộng, hẹp, nhiều, ít, lượng, vô-lượng, thô, tế.
Huyễn chẳng phải tất cả sự vật, tất cả sự vật chẳng phải huyễn, nhưng do huyễn thị-hiện ra những sự vật sai khác.Cũng vậy, đại Bồ-Tát quán tất cả thế-gian như huyễn.
Những là nghiệp thế-gian, phiền-não thế-gian, quốc-độ thế-gian, pháp thế-gian, thời thế-gian, thú thế-gian, thành thế-gian, hoại thế-gian, vận-động thế-gian, tạo-tác thế-gian.Lúc Bồ-Tát quán tất cả thế-gian như huyễn, chẳng thấy chúng-sanh sanh, chẳng thấy chúng-sanh diệt, chẳng thấy quốc-độ sanh diệt, chẳng thấy các pháp sanh diệt, chẳng thấy quá-khứ có thể phân-biệt được, chẳng thấy vị-lai có khởi tác, chẳng thấy hiện-tại một niệm trụ, chẳng thấy quán-sát bồ-đề, chẳng thấy Phật xuất-hiện, chẳng thấy Phật niết-bàn, chẳng thấy trụ đại-nguyện, chẳng thấy nhập chánh-vị, chẳng ngoài tánh bình-đẳng.Ðại Bồ-Tát nầy dầu thành-tựu Phật-độ mà biết quốc-độ vô-sai-biệt.
Dầu thành-tựu chúng-sanh mà biết chúng-sanh vô-sai-biệt.
Dầu khắp quán pháp-giới mà an-trụ pháp-tánh vắng lặng chẳng động.
Dầu thấu rõ tam-thế bình-đẳng mà chẳng trái phân-biệt pháp tam-thế.
Dầu thành-tựu uẩn xứ mà dứt hẳn sở-y.
Dầu độ thoát chúng-sanh mà rõ biết pháp-giới bình-đẳng không các thứ sai khác.
Dầu biết các pháp xa lìa văn tự không thể ngôn thuyết mà thường thuyết pháp biện-tài vô-tận.
Dầu chẳng chấp lấy việc giáo-hóa chúng-sanh mà chẳng bỏ đại-bi, vì độ tất cả mà chuyển pháp-luân.
Dầu vì chúng-sanh khai thị nhơn duyên quá-khứ mà biết tánh nhơn-duyên không có động chuyển.
Ðây gọi là như huyễn nhẫn thứ tư.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát như diệm nhẫn ?Ðại Bồ-Tát nầy biết tất cả thế-gian đồng như dương-diệm.Ví như dương-diệm chẳng có phương-sở, chẳng phải nội, ngoại, hữu, vô, đoạn, thường, chẳng phải một màu, nhiều màu, cũng chẳng phải không màu, chỉ tùy theo ngôn thuyết thế-gian mà hiển thị.Cũng vậy, đại Bồ-Tát như thiệt quán-sát, rõ biết các pháp hiện chứng tất cả khiến được viên-mãn.
Ðây gọi là như diệm nhẫn thứ năm của đại Bồ-Tát.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát như mộng nhẫn?Ðại Bồ-Tát nầy biết tất cả thế-gian như mộng.Ví như mộng chẳng phải thế-gian, chẳng phải rời thế-gian, chẳng phải dục-giới, sắc giới, vô-sắc-giới, chẳng phải sanh, diệt, nhiễm, tịnh, nhưng vẫn có hiển-thị.Cũng vậy, đại Bồ-Tát biết tất cả thế-gian đồng như mộng.
Vì không đổi khác, vì như tự-tánh của mộng, vì như mộng chấp trước, vì như mộng tánh ly, vì như bổn-tánh của mộng, vì như mộng hiện ra, vì như mộng vô-sai-biệt, vì như mộng tưởng phân-biệt, vì như lúc mộng thức giấc.
Ðây gọi là như-mộng-nhẫn thứ sáu của đại Bồ-Tát.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát như-hưởng-nhẫn ?Ðại Bồ-Tát nầy nghe Phật thuyết pháp quán các pháp-tánh tu học thành-tựu đến bỉ-ngạn, biết tất cả âm-thanh đồng như vang không lai không khứ mà hiển thị như vậy.Ðại Bồ-Tát nầy quán-sát tiếng của đức Như-Lai chẳng từ trong phát ra, chẳng từ ngoài phát ra, cũng chẳng từ nơi trong ngoài phát ra.
Dầu biết rõ tiếng chẳng phải từ trong, từ ngoài, từ trong ngoài phát ra, mà có thể thị-hiện danh cú thiện-xảo diễn thuyết thành-tựu.Ví như âm vang nơi hang từ duyên phát ra, mà cùng pháp-tánh không trái nhau.
Khiến các chúng-sanh theo loài được hiểu biết và tu học.Như Thiên-Ðế phu-nhơn, con gái vua A-Tu-La, tên Xá-Chi, trong một âm-thanh phát ra ngàn thứ âm-thanh, nhưng Phu-Nhơn vẫn không có tâm nghĩ làm cho phát ra như vậy.Cũng vậy, đại Bồ-Tát nhập vô-phân-biệt-giới, thành-tựu tiếng tùy loại thiện-xảo, ở trong vô-biên thế-giới hằng chuyển pháp-luân.
Ðại Bồ-Tát nầy khéo hay quán-sát tất cả chúng-sanh, dùng tướng lưỡi rộng dài mà vì họ thuyết pháp.
Tiếng đó vô-ngại khắp cõi nước mười phương khiến chúng-sanh tùy sở-nghi nghe pháp đều riêng khác.
Dầu biết tiếng không khởi mà khắp hiện âm-thanh.
Dầu biết không sở-thuyết mà nói rộng các pháp.
Diệu-âm bình-đẳng tùy loại đều hiểu riêng khác, đều dùng trí-huệ mà có thể rõ thấu.
Ðây gọi là như-hưởng-nhẫn thứ bảy của đại Bồ-Tát.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát như-ảnh-nhẫn ?Ðại Bồ-Tát nầy chẳng phải sanh ở thế-gian, chẳng phải mất ở thế-gian, chẳng phải ở trong thế-gian, chẳng phải ở ngoài thế-gian, chẳng phải du hành nơi thế-gian, chẳng phải đồng với thế-gian, chẳng phải khác với thế-gian, chẳng phải qua đến thế-gian, chẳng phải chẳng qua đến thế-gian, chẳng phải trụ ở thế-gian, chẳng phải chẳng trụ ở thế-gian, chẳng phải là thế-gian, chẳng phải xuất-thế-gian, chẳng phải tu bồ-tát-hạnh, chẳng phải bỏ đại-nguyện, chẳng phải thiệt, chẳng phải chẳng thiệt.
Dầu thường hành tất cả phật-pháp mà có thể làm xong tất cả thế-sự.
Chẳng theo thế-lưu cũng chẳng trụ pháp-lưu.Ví như mặt trời, mặt trăng, nam, nữ và các vật như nhà cửa, núi rừng, sông suối vân vân, hiện bóng trong những vật thanh-tịnh như nước, dầu, châu bửu, gương sáng.
Bóng cùng nước gương vân vân chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải ly, chẳng phải hiệp.
Nơi trong giòng sông, bóng chẳng bị trôi, nơi giếng ao, bóng cũng hẳng bị chìm đắm.
Dầu bóng hiện trong đó không chỗ chấp trước, nhưng các chúng-sanh biết ở chỗ đó có bóng ấy hiện, cũng biết chỗ kia không có bóng như vậy.
Vật gần vật xa dầu đều hiện bóng, nhưng bóng không theo vật mà có gần xa.Cũng vậy, đại Bồ-Tát hay biết tự-thân và tha-thân tất cả đều là cảnh-giới của trí chẳng nhận là hai mà cho là tự tha riêng khác.
Dầu vậy nhưng nơi tự quốc-độ, nơi tha quốc-độ, đều riêng sai khác đồng thời hiện khắp.Như một hột giống không có rễ, mầm, cọng, mắt, nhánh, lá, mà hay sanh khởi tất cả.Cũng vậy, đại Bồ-Tát vô-nhị mà phân-biệt hai tướng phương-tiện thiện-xảo thông đạt vô-ngại.
Ðây gọi là như-ảnh-nhẫn thứ tám của đại Bồ-Tát.Ðại Bồ-Tát thành-tựu như-ảnh-nhẫn nầy dầu chẳng qua đến cõi nước mười phương mà có thể hiện khắp tất cả cõi Phật.
Cũng chẳng rời đây, cũng chẳng đến kia, như bóng hiện khắp chỗ du hành vô-ngại.
Làm cho chúng-sanh thấy thân sai khác đồng với tướng cứng chắc của thế-gian.
Nhưng sự sai khác nầy chính là chẳng phải sai khác.
Khác cũng chẳng khác không có chướng ngại.Ðại Bồ-Tát nầy từ nơi chủng-tánh Như-Lai mà sanh thân ngữ và ý thanh-tịnh vô-ngại nên có thể được thân vô-biên sắc tướng thanh-tịnh.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát biết tất cả thế-gian thảy đều như hóa ? Nghĩa là tất cả chúng-sanh ý-nghiệp hóa, vì giác-tưởng sanh khởi.
Tất cả thế-gian chư hành hóa, vì phân-biệt sanh khởi.
Tất cả khổ vui điên-đảo hóa, vì vọng-thủ sanh khởi.
Tất cả thế-gian pháp chẳng thiệt hóa, vì ngôn thuyết hiện khởi.
Tất cả phiền-não phân-biệt hóa, vì tưởng niệm sanh khởi.
Lại có thanh-tịnh điều-phục hóa, vì vô-phân-biệt hiện khởi.
Nơi tam thế chẳng chuyển hóa, vì vô-sanh bình-đẳng.
Bồ-Tát nguyện lực hóa, vì tu hành quảng-đại.
Như-Lai đai-bi hóa, vì phương-tiện thị-hiện.
Chuyển pháp-luân phương-tiện hóa, vì trí-huệ vô-úy biện-tài diễn-thuyết.Ðại Bồ-Tát rõ biết thế-gian xuất-thế-gian hóa hiện như vậy, chứng biết, biết rộng lớn, biết vô-biên, biết đúng sự, biết tự-tại, biết chơn-thiệt.
Chẳng phải hư-vọng-kiến có thể huynh động được.
Tùy theo sở-hành của thế-gian cũng chẳng hư mất trí biết ấy.Ví như hóa chẳng từ nơi tâm phát khởi, chẳng từ nơi tâm-pháp phát-khởi, chẳng từ nơi nghiệp phát khởi, chẳng thọ quả báo, chẳng phải thế-gian sanh, chẳng phải thế-gian diệt, chẳng thể theo dõi, chẳng thể rờ chạm, chẳng phải còn lâu, chẳng phải giây lát, chẳng phải ở nơi thế-gian, chẳng phải rời thế-gian, chẳng chuyên thuộc một phương, chẳng thuộc khắp các phương, chẳng phải hữu-lượng, chẳng phải vô-lượng, chẳng nhàm, chẳng dứt, chẳng phải chẳng nhàm dứt, chẳng phải phàm, chẳng phải thánh, chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, chẳng phải sanh, chẳng phải tử, chẳng phải trí, chẳng phải ngu, chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng thấy, chẳng phải y-tựa thế-gian, chẳng phải nhập pháp-giới, chẳng phải thông-minh, chẳng phải đần-độn, chẳng phải lấy, chẳng phải chẳng lấy, chẳng phải sanh-tử, chẳng phải niết-bàn, chẳng có, chẳng phải không có.Ðại Bồ-Tát phương-tiện thiện-xảo như vậy, du hành thế-gian tu hạnh bồ-tát.
Biết rõ thế-pháp phân thân hóa hiện mà đến, chẳng chấp thế-gian, chẳng lấy tự thân, nơi thế-gian và thân không phân-biệt.
Chẳng trụ thế-gian, chẳng rời thế-gian, chẳng trụ nơi pháp, chẳng rời nơi pháp.
Do bổn nguyện nên chẳng bỏ một chúng-sanh-giới, chẳng điều-phục thiểu chúng-sanh-giới, chẳng phân-biệt nơi pháp, chẳng phải chẳng phân-biệt.
Biết các pháp-tánh không lai không khứ.
Dầu không chỗ có mà tròn đầy phật-pháp.
Rõ pháp như hóa, chẳng có chẳng không.Ðại Bồ-Tát lúc an trụ như-hóa-nhẫn đều hay tròn đủ tất cả đạo bồ-đề của chư Phật lợi-ích chúng-sanh.Ðây gọi là như hóa nhẫn thứ chín của đại Bồ-Tát.Ðại Bồ-Tát thành-tựu như-hóa-nhẫn nầy, phàm việc làm ra đều đồng với hóa, ví như hóa-sĩ.Nơi tất cả cõi Phật không chỗ y-trụ.
Nơi tất cả thế-gian không chỗ chấp lấy.
Nơi tất cả phật-pháp chẳng sanh phân-biệt.
Dầu vậy mà hướng đến Phật bồ-đề không rời mỏi, tu hạnh bồ-tát, rời những điên-đảo.
Dầu không có thân mà hiện tất cả thân.
Dầu không chỗ trụ mà trụ các quốc-độ.
Dầu không có sắc mà hiện khắp các sắc.
Dầu chẳng chấp lấy thiệt-tế mà chiếu sáng pháp-tánh bình-đẳng viên-mãn.Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp không chỗ y-chỉ nên gọi là bực giải thoát.
Thảy đều bỏ rời tất cả lỗi lầm nên gọi là bực điều-phục.
Chẳng động chẳng chuyển vào khắp tất cả chúng-hội Như-Lai nên gọi là bực thần-thông.
Nơi pháp vô-sanh đã được thiện-xảo nên gọi là bực vô-thối.
Ðủ tất cả lực, núi Tu-Di núi Thiết-Vi không làm chướng được, nên gọi là bực vô-ngại.Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát như-không-nhẫn ?Ðại Bồ-Tát nầy rõ tất cả pháp-giới như hư-không, vì vô-tướng.
Tất cả thế-giới như hư-không, vì vô-khởi.
Tất cả pháp như hư-không vì vô-nhị.
Tất cả chúng-sanh hạnh như hư-không, vì vô-sở-hành.
Tất cả Phật như hư-không, vì vô-phân-biệt.
Tất cả phật-lực như hư-không, vì vô-sai-biệt.
Tất cả thiền-định như hư-không, vì tam-thế bình-đẳng.
Tất cả pháp diễn thuyết như hư-không, vì chẳng ngôn thuyết được.
Tất cả thân Phật như hư-không, vì vô-trước vô-ngại.Bồ-Tát dùng phương-tiện như hư-không rõ thấu tất cả pháp đều không chỗ có.Ðại Bồ-Tát dùng nhẫn-trí như hư-không lúc thấu rõ tất cả pháp thời được thân và thân-nghiệp như hư-không, được ngữ và ngữ-nghiệp như hư-không, được ý và ý-nghiệp như hư-không.Ví như hư-không, tất cả pháp y-tựa, chẳng sanh chẳng diệt.Cũng vậy, đại Bồ-Tát, tất cả pháp thân chẳng sanh chẳng diệt.Ví như hư-không, chẳng thể phá hoại được.
Cũng vậy, đại Bồ Tát, tất cả trí-huệ các lực chẳng thể phá hoại được.Ví như hư-không là chỗ y-chỉ của tất cả thế-gian mà không sở-y.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát là chỗ y-chỉ của tất cả pháp mà không sở-y.Ví như hư-không bất sanh bất diệt mà hay giữ lấy tất cả thế-gian sanh diệt.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát không hướng không đắc mà hay thị-hiện hướng đắc, khiến khắp thế-gian tu hành thanh-tịnh.Ví như hư-không chẳng có chỗ chẳng có góc mà hay hiển-hiện vô-biên chỗ góc.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát không nghiệp không báo mà hay hiển-thị những thứ nghiệp báo.Ví như hư-không chẳng đi chẳng đứng mà hay thị-hiện các thứ oai-nghi.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng đi chẳng đứng mà hay phân-biệt tất cả các hành.Ví như hư-không chẳng phải sắc chẳng phẳng phải phi-sắc mà hay thi-hiện các loại màu sắc.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng phải sắc thế-gian, chẳng phải sắc xuất thế-gian mà hay thị-hiện tất cả thân sắc.Ví như hư-không chẳng phải lâu chẳng phải gần mà hay ở lâu hiển hiện tất cả vật.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng phải lâu chẳng phải gần mà hay ở lâu hiển-thị những hạnh của Bồ-Tát làm.Ví như hư-không chẳng phải tịnh chẳng phải uế, chẳng rời tịnh uế.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng phải chướng chẳng phải không chướng, chẳng rời chướng không chướng.Ví như hư-không tất cả thế-gian đều hiện ra trước, chẳng phải hiện ra trước tất cả thế-gian.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát tất cả pháp đều hiện ra trước, chẳng phải hiện ra trước tất cả pháp.Ví như hư-không vào khắp tất cả mà không biên-tế.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát vào khắp tất cả pháp, mà tâm Bồ-Tát không biên-tế.
Tõi sao vậy ? Vì chỗ làm của Bồ-Tát như hư-không.
Nghĩa là việc tu tập, việc nghiêm-tịnh, việc thành-tựu thảy đều bình-đẳng, một thể, một vị, một thứ phần lượng.
Như hư-không thanh-tịnh khắp tất cả chỗ.Ðại Bồ-Tát như vậy chứng biết tất cả pháp, với tất cả pháp không có phân-biệt.
Nghiêm-tịnh tất cả Phật-độ.
Viên-mãn tất cả thân vô-sở-y.
Rõ tất cả phương không có mê lầm.
Ðủ tất cả lực chẳng thể phá hoại.
Ðầy đủ tất cả vô-biên công-đức.
Ðã đến tất cả pháp-xứ thậm-thâm.
Thông đạt tất cả đạo ba-la-mật.
Ngồi khắp tất cả tòa kim-cang.
Phát khắp tất cả tiếng tùy loại.
Vì tất cả thế-gian mà chuyển pháp-luân chưa từng lỗi thời.Ðây gọi là hư-không-nhẫn thứ mười của đại Bồ-Tát.Ðại Bồ-Tát thành-tựu nhẫn nầy thời được thân Như-Lai, vì vô-khứ.
Ðược thân vô-sanh vì vô-diệt.
Ðược thân bất-động, vì vô-hoại.
Ðược thân chơn-thiệt, vì rời hư-vọng.
Ðược thân nhứt-tướng, vì vô-tướng.
Ðược thân vô-lượng, vì phật-lực vô-lượng.
Ðược thân bình-đẳng, vì đồng tướng như.
Ðược thân vô-sai-biệt, vì quán tam-thế bình-đẳng.
Ðược thân đến tất cả chỗ, vì tịnh nhãn chiếu khắp không chướng ngại.
Ðược thân rời dục-tế, vì biết tất cả pháp không hiệp tan.
Ðược thân hư-không vô-biên-tế, vì phước-đức-tạng vô tận như hư-không.
Ðược thân biện-tài vô-đoạn vô-tận pháp-tánh bình-đẳng, vì biết tất cả, pháp-tướng chỉ là một tướng, không tánh làm tánh như hư-không.
Ðược thân âm-thanh vô-lượng vô-ngại, vì không chướng ngại như hư-không.
Ðược thân đầy đủ tất cả bồ-tát hạnh thiện-xảo thanh-tịnh, vì nơi tất cả chỗ đều không chướng-ngại như hư-không.
Ðược thân tất cả phật-pháp thứ đệ tiếp nối,vì chẳng thể đoạn tuyệt như hư-không.
Ðược thân trong tất cả cõi Phật hiện vô-lượng phật-độ, vì rời tham chấp như hư-không vô-biên.
Ðược thân thị-hiện tất cả pháp tự-tại không thôi nghỉ, vì như hư-không chẳng có biên-tế.
Ðược thân tất cả thế-lực kiên cố chẳng thể phá hoại, vì như hư-không nhiệm-trì tất cả thế-gian.
Ðược thân các căn sáng lẹ như kim-cang kiên-cố không thể phá hoại, vì như hư-không tất cả kiếp hỏa chẳng đốt cháy được.
Ðược thân có sức giữ lấy tất cả thế-gian, vì sức trí-huệ như hư-không.Chư Phật-tử ! Trên đây gọi là mười nhẫn của đại Bồ-Tát.Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng :Như trong đời có ngườiNghe chỗ có kho báuVì có thể hưởng đượcNên lòng rất vui mừng.Cũng vậy, đại trí – huệBồ – Tát chơn phật – tửÐược nghe các phật – phápTướng thậm – thâm tịch – diệt,Lúc nghe thâm – pháp nầyTrong tâm được an – ổnChẳng kinh cũng chẳng hãiCũng chẳng sanh sợ – sệt.Ðại – Sĩ cầu bồ – đềNghe tiếng quảng đại nầyTâm tịnh hay kham nhẫnNơi đây không nghi lầm.Tự nghĩ : do nghe đượcPháp thậm – thâm vi – diệuSẽ thành nhứt – thiết – tríNhơn – Thiên Ðại – Ðạo – Sư.Bồ – Tát nghe tiếng nầyTrong lòng rất hoan – hỉPhát sanh ý kiên – cốNguyện cầu các phật – phápVì mến thích bồ – đềNên tâm lần điều phụcLòng tin thêm tăng trưởngKhông trái chê chánh – pháp.Thế nên nghe tiếng nầyNơi lòng được kham nhẫnAn trụ vững chẳng động.Tu hành hạnh Bồ – Tát.Vì cầu đạo bồ – đềChuyên tu hướng về đóTinh – tấn không thối chuyểnChẳng bỏ những thiện nghiệp.Vì cầu đạo bồ – đềTrong lòng không sợ hãiNghe pháp thêm dũng – mãnhCúng Phật khiến hoan – hỉ.Như có người đại – phướcGặp được kho chơn – kimTheo thân chỗ nên đeoChế tạo đồ trang – nghiêm.Bồ – Tát cũng như vậyNghe nghĩa thậm – thâm này.Tư – duy thêm trí – huệÐể tu pháp tùy thuận.Pháp hữu cũng thuận biết,Pháp vô cũng thuận biết,Tùy pháp đó như vậyNhư vậy biết các pháp.Thành – tựu tâm thanh – tịnhMinh triệt rất hoan – hỷBiết pháp theo duyên khởiDũng – mãnh siêng tu tập.Bình – đẳng quán các phápBiết rõ tự tánh đóChẳng trái phật pháp – tạngBiết khắp tất cả pháp.Chí nguyện thường kiên cốNghiêm tịnh Phật bồ – đềBất – động như Tu – DiNhứt tâm cầu chánh – giác.Do phát tâm tinh – tấnLại tu đạo tam – muộiVô – lượng kiếp siêng làmChưa từng có thối thất.Pháp của Bồ – Tát nhậpLà chỗ đi của PhậtNơi đây rõ biết đượcThời không lòng lười chán.Như lời chư Phật dạyBình – đẳng quán các phápChẳng phải nhẫn bất – đẳng.Thành được trí bình – đẳng.Tùy thuận lời Phật nóiThành – tựu môn pháp nầyBiết rõ đúng như phápCũng chẳng phân – biệt pháp.Trong Tam – Thập – Tam ThiênCó bao nhiêu Thiên – TửCùng đồng ăn một bátÐồ ăn đều khác nhau.Ðồ ăn riêng nhiều mónChẳng từ mười phương đếnÐúng theo nghiệp đã tuTự – nhiên hiện trong bát.Bồ – Tát cũng như vậyQuán – sát tất cả phápÐều từ nhơn duyên khởiVô – sanh nên vô – diệt,Vô – diệt nên vô – tận,Vô – tận nên vô – nhiễm,Nơi pháp biến – dị kiaBiết rõ không biến – dị.Không đổi thời không xứKhông xứ thời tịch – diệt,Trong lòng không nhiễm trướcNguyện độ các chúng – sanh.Chuyên niệm nơi phật-phápChưa từng có tán độngMà dùng tâm bi nguyệnPhương – tiện đi trong đời.Siêng cầu nơi thập – lựcỞ đời mà chẳng trụ,Không đi cũng không đếnPhương – tiện khéo thuyết pháp.Nhẫn nầy là trên hếtBiết pháp là vô – tậnVào nơi chơn pháp – giớiThiệt cũng không sở – nhập.Bồ – Tát trụ nhẫn nầyThấy khắp các Như – LaiÐồng thời thọ ký choGọi là thọ Phật – chức.Thấu rõ pháp tam – thếTướng tịch – diệt thanh – tịnhMà đều độ chúng – sanhÐể ở trong đường lành.Các loại pháp thế – gianTất cả đều như huyễnNếu biết được như vậyThời tâm không bị độngCác nghiệp từ tâm sanhNên nói tâm như huyễnNếu rời phân – biệt nầyDiệt hết cõi hữu – lậu.Ví như nhà huyễn – thuậtKhắp hiện các sắc tượngCho chúng luống tham vuiRốt ráo vô – sở – đắc.Thế – gian cũng như vậyTất cả đều như huyễnVô – tánh cũng vô – sanhThị – hiện có các thứ.Ðộ thoát các chúng – sanhKhiến biết pháp như huyễnChúng -sanh chẳng khác huyễnBiết huyễn không chúng – sanh.Chúng – sanh và quốc – độNhững pháp trong tam – thếNhư vậy đều không thừaTất cả đều như huyễn.Huyễn làm hình nam nữVà voi, ngựa, trâu, dêNhà cửa, núi, suối, aoVườn, rừng, cùng bông, trái,Vật huyễn không tri – giácCũng không có trụ xứRốt ráo tướng tịch – diệtChỉ theo phân – biệt hiện.Bồ – Tát được như vậyThấy khắp các thế – gianTất cả pháp hữu vôThấu rõ đều như huyễn.Chúng – sanh và quốc – độCác thứ nghiệp tạo raVào nơi như – huyễn – tếVới kia không nương chấp.Ðược thiện – xảo như vậyTịch – diệt không hí – luậnTrụ nơi bực vô – ngạiKhắp hiện oai – lực – lớn.Các Phật – tử dũng – mãnhTùy thuận nhập diệu – phápKhéo quán tất cả tưởngRàng – rịt các thế – gian.Các tưởng như dương – diệmKhiến chúng hiểu điên – đảo.Chúng – sanh đều riêng khácHình loại chẳng phải mộtThấu rõ đều là tưởngBỏ rời những điên – đảo.Chúng – sanh đều riêng khácHình loại chẳng phải mộtThấu rõ đều là tưởngTất cả không chơn – thiệt.Các chúng – sanh mười phươngÐều bị tưởng che ngănNếu bỏ thấy điên – đảoThời diệt tưởng thế – gian.Thế – gian như dương – diệmDo tưởng có sai khácBiết thế – gian do tưởngXa lìa ba điên – đảo.Như – nắng quá gắt nóngNgười đời cho là nướcThiệt ra không có nướcNgười trí chẳng nên cầu.Chúng – sanh cũng như vậyÐời loài đều không cóNhư diệm ở nơi tưởngCảnh – giới tâm vô – ngại.Nếu lìa những vọng tưởngCũng lìa những hí – luậnKẻ ngu – si chấp tưởngÐều khiến được giải – thoát.Xa lìa tâm kiêu – mạnTrừ diệt tưởng thế – gianỞ chỗ tận vô – tậnPhương – tiện của Bồ – Tát.Bồ – Tát biết thế phápTất cả đều như mộngChẳng chỗ, chẳng không chỗThể – tánh hằng tịch – diệt.Các pháp vô – phân – biệtNhư mộng, tâm không khácTam thế những thế – gianTất cả đều như vậy.Tánh mộng không sanh – diệtCũng không có phương sởBa cõi đều như vậyNgười thấy tâm giải – thoát.Mộng chẳng tại thế – gianChẳng tại phi thế – gianCả hai chẳng phân – biệtÐược nhập nơi bực nhẫn.Như trong mộng ngó thấyNhững cảnh loại khác nhau,Thế – gian cũng như vậyCùng mộng không sai khác.Người trụ trong mộng – địnhBiết đời đều như mộngChẳng phải đồng và khácChẳng phải một và nhiều.Chúng – sanh các cõi, nghiệp,Tạp – nhiễm và thanh – tịnhNhư vậy đều biết rõCùng mộng đều bình – đẳng.Hạnh của Bồ – Tát làmVà cùng các đại nguyệnBiết rõ đều như mộngCùng thế – gian không khác.Biết thế – gian không tịchChẳng hoại nơi thế – phápNhư chiêm bao ngó thấyNhững hình sắc dài vắn.Gọi đây : như – mộng – nhẫnNhơn đây biết thế phápMau thành trí vô – ngạiRộng độ các chúng – sanh.Tu hành hạnh như vậyXuất sanh trí rộng lớnKhéo biết các pháp – tánhNơi pháp tâm không chấp.Tất cả các thế – gianNhững âm – thanh sai khácChẳng phải trong, chẳng ngoàiBiết đó đều như vang.Như nghe các tiếng vangTâm chẳng sanh phân – biệtBồ – Tát nghe âm – thanhKhông phân – biệt cũng vậy.Chiêm ngưỡng các Như – LaiVà nghe nói pháp – âmDiễn khế – kinh vô – lượngDầu nghe mà không chấp.Như vang không lai khứTiếng đã nghe cũng vậyMà hay phân – biệt phápCùng pháp không trái lầm.Khéo biết các âm – thanhNơi tiếng không phân – biệtBiết tiếng đều không – tịchKhắp phát âm thanh – tịnhBiết pháp chẳng tại lờiKhéo vào vô – ngôn – tếMà hay hiện ngôn thuyếtNhư vang khắp thế – gian.Biết rõ ngôn – ngữ – đạoÐầy đủ phần âm – thanhBiết thanh – tánh không tịchDùng thế – ngôn để nóiNhư âm – thanh thế – gianHiện đồng pháp phân – biệtTiếng đó đều cùng khắpKhai ngộ các quần – sanh.Bồ – Tát được nhẫn nầyTịnh – âm độ thế – gianKhéo diễn thuyết ba đờiNơi đời không chấp trước.Vì muốn lợi thế – gianChuyên ý cầu bồ – đềMà thường nhập pháp – tánhNơi đó vô – phân – biệt.Quán khắp các thế – gianTịch – diệt không thể – tánhMà thường làm lợi íchTu hành ý chẳng động.Chẳng trụ nơi thế – gianCũng chẳng rời thế – gianNơi thế không sở – yY – xứ bất – khả – đắc.Rõ biết tánh thế – gianNơi tánh không nhiễm trướcDầu chẳng nương thế – gianGiáo hóa khiến siêu độ.Bao nhiêu pháp thế – gianÐều biết tự – tánh nóRõ pháp không có haiCũng không chấp không haiTâm cũng chẳng rời thế – gianCũng chẳng trụ thế – gianChẳng phải ngoài thế – gianTu hành nhứt – thiết – trí.Ví như bóng trong nướcChẳng phải trong chẳng ngoàiBồ – Tát cầu bồ – đềBiết thế chẳng phải thếChẳng nơi thế trụ xuấtVì thế bất – khả – thuyếtCũng chẳng trụ trong ngoàiNhư bóng hiện thế – gian.Nhập nghĩa thậm – thâm nầyLìa nhơ đều sáng suốtChẳng bỏ tâm bổn – thệÐèn trí – huệ chiếu khắp.Thế – gian không biên – tếTrí nhập cũng vô – biênGiáo hóa khắp quần – sanhKhiến họ bỏ những chấp.Quán – sát pháp thậm – thâmLợi ích những quần – sanhTừ đây nhập vào tríTu hành tất cả đạo.Bồ – Tát quán các phápBiết chắc đều như hóaMà tu hạnh như hóaRốt ráo trọn chẳng bỏ.Tùy thuận hóa – tự – tánhTu tập đạo bồ – đềTất cả pháp như hóaBồ – Tát hạnh cũng vậy.Tất cả các thế – gianVà cùng vô – lượng nghiệpBình – đẳng đều như hóaRốt ráo trụ tịch – diệt.Những Phật trong tam thếTất cả cũng như hóaBổn – nguyện tu các hạnhBiến – hóa thành Như – Lai.Phật dùng đại từ biÐộ thoát hóa chúng – sanhÐộ thoát cũng như hóaHóa – lực vì thuyết pháp.Biết thế – gian như hóaChẳng phân – biệt thế – gianHóa – sự nhiều loại khácÐều do nghiệp sai – biệt.Tu tập hạnh bồ – đềTrang – nghiêm nơi hóa – thànhVô – lượng khéo trang – nghiêmNhư nghiệp làm thế – gian.Pháp nầy rời phân – biệtCũng chẳng phân – biệt phápCả hai đều tịch – diệtHạnh Bồ – Tát như vậy.Hóa – hải rõ nơi trí,Hóa – tánh ấn thế -gianHóa chẳng phải sanh diệtTrí – huệ cũng như vậy.Nhẫn thứ mười quán rõChúng – sanh và các phápThể – tánh đều tịch – diệtKhông xứ – sở như khôngÐược trí như – không nầyLìa hẳn các chấp trướcNhư hư – không vô – tướngNơi thế – gian vô – ngạiThành – tựu sức không – nhẫnNhư hư – không vô – tậnCảnh – giới như hư – khôngChẳng phân – biệt hư – không.Hư – không không thể tánhCũng chẳng phải đoạn diệtCũng không những sai khácTrí – lực cũng như vậyHư – không không sơ – tếCũng không có trung, hậuLượng đó bất – khả – đắcTrí Bồ – Tát cũng vậy.Quán pháp – tánh như vậyTất cả như hư – khôngKhông sanh cũng không diệtSở – đắc của Bồ – Tát.Tự trụ pháp như – khôngLại vì chúng – sanh nóiHàng – phục tất cả maPhương – tiện của nhẫn nầy.Tướng thế – gian sai khácÐều không chẳng có tướngVào nơi chỗ vô – tướngCác tướng đều bình – đẳng.Chỉ dùng một phương – tiệnVào khắp các thế – gianLà biết pháp tam – thếÐều đồng tánh hư – không.Trí – huệ cùng âm thanhVà thân của Bồ – TátTánh đó như hư – khôngTất cả đều tịch – diệt.Mười thứ nhẫn như vậyPhật – tử đã tu hànhTâm họ khéo an – trụRộng vì chúng – sanh nói.Nơi đây khéo tu họcThành – tựu sức quảng – đạiPháp – lực và trí – lựcLà phương – tiện bồ – đề.Thông đạt môn nhẫn nầyThành – tựu trí vô – ngạiVượt hơn tất cả chúngChuyển pháp – luân vô – thượng.Hạnh quảng – đại đã tuLượng đó bất – khả – đắcÐiều – Ngự – Sư trí – hảiMới phân – biệt biết đượcBỏ ngã mà tu hànhNhập vào pháp – tánh sâuTâm thường trụ tịnh – phápDùng đây thí quần – sanh.Chúng – sanh và sát – trầnCòn biết được số đóCông – đức của Bồ -TátKhông thể biết hạn lượng.Bồ – Tát hay thành – tựuMười thứ nhẫn như vậyTrí – huệ và công – hạnhChúng – sanh chẳng lường được..
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...