Thần điêu đại hiệp - Hồi 043
NẠNG SẮT MÀ TRỪ ĐƯỢC THẦN CHƯỞNG
DƯƠNG QUÁ LẠI TẶNG ÁO CHO KẺ THÙ
Lý Mạc Thu cười khanh khách, nói:
- Con Lý Mạc Thu nầy đã từng ngang dọc thiên hạ bao lâu nay, đánh biết bao nhiêu trận, chưa hề thấy một người nào tàn phế như nhà ngươi mà dám chống ta. Nay Phùng Mạc Phong, ông chưa hề giao đấu với ai thật ư?
Phùng Mạc Phong đáp:
- Ta có trêu chọc ai đâu, nên có người nào ganh ghét gì mà phải đấu với ta?
Lý Mạc Thu nheo mày nhìn Phùng lão cười lớn:
- ôi chao! Đệ tử của chúa đảo Đào Hoa toàn là những kẻ mang hư danh, chết một cách rẻ mạt, làm trò cười cho thiên hạ mà thôi! Ta đây đã thừa hiểu rồi!
Phùng Mạc Phong nghiêm giọng nói:
- Này Lý đạo trưởng, đừng có nói động đến ân sư của ta!
- Ai là người nhận chú làm đệ tử, mà chú bô bô nói mãi, hết ân sư đến sư phụ, không sợ người ta cười sao?
Phùng Mạc Phong cầm cây nạng sắt từ từ đứng lên, rồi nói:
- Suốt đời ta chỉ chịu khổ sở điêu linh, chỉ có một mình Hoàng Dược Sư là vị ân sư duy nhất của đời ta. Không kính trọng ngài, thì còn kính trọng ai?
Nói xong Phùng lão quay qua hỏi Trình Anh:
- Sư muội, lâu nay ân sư vẫn được mạnh khoẻ luôn chứ?
Trình Anh lễ phép đáp:
- Thưa sư huynh, gia sư cũng được bình yên luôn!
Câu nói của Trình Anh làm cho Phùng Mạc Phong nét vui mừng hiện rõ trên nét mặt.
Lý Mạc Thu thấy Phùng lão có lòng chân thành đối với Hoàng Dược Sư, thầm khen: "Hoàng Dược Sư cũng đáng bậc tôn sư, mà thiên hạ cũng ít ai bì kịp. Đánh học trò đến què chân, nhưng học trò vẫn một lòng tôn kính khi vắng mặt!"
Hoàng Dược Sư hành động quái đản, nhưng lương tâm của ông rất trung trực, rất ghét kẻ tà gian, nịnh bợ. Cho nên Lục Thừa Phong, Khúc Linh Phong và Phùng Mạc Phong tuy bị hình phạt như vậy, vẫn ghi ơn ông chứ không oán trách. Đến kẻ đại gian ác như Mai Siêu Phong, mà khi gặp việc gian nan cũng quên mình để cứu ông; ai cũng nghĩ rằng miễn sao báo nghĩa được với ân sư, là họ thoả mãn rồi.
Phùng Mạc Phong ngồi xuống đưa nạng sắt vào lò nung lên.
Lý Mạc Thu cười rồi hỏi tiếp:
- Thế nào? Phùng Mạc Phong nghĩ ân nghĩa của sư phụ thế nào mà chân tay đến rời rạc vậy?
Phùng lão không trả lời, chỉ chăm chú vào ngọn lửa, hai tay lo trăn trở thanh sắt và cây nạng cho đỏ lên.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh thấy thế đều lo sợ, kêu lên:
- Sao lão lại nung cả cây nạng như vậy, lấy gì đi lại?
Nhưng Phùng Mạc Phong không đáp một lời nào, chỉ chăm chú nhìn vào ngọn lửa ngùn ngụt như đang nung nấu bầu căm tức trong lòng.
Đến lúc thấy cây nạng đã đỏ như than lửa hồng, ba người kia sợ hãi, tưởng cây nạng ấy sẽ cháy ra, không còn dùng được. Ngờ đâu, Phùng Mạc Phong vẫn điềm nhiên đưa tay nắm lấy cây nạng nung đỏ, như không biết nóng là gì.
Lý Mạc Thu trông thấy thất kinh, thầm nghĩ:
- ôi chao! Nếu thế bản lĩnh người nầy không phải vừa. Ta liệu cách ra tay sớm thì hơn.
Nàng liền bước lui ra khỏi cửa, mồm gọi Phùng lão:
- Lão già kia! Có giỏi ra đây!
Phùng Mạc Phong mặt đầy giận dữ, đứng dậy. Một tay chống nạng, một tay cầm búa, phóng mình ra lanh như chớp chẳng có chút gì gọi là tàn phế cả.
Lão nói:
- Xin đạo trưởng chớ mắng nhiếc sư phụ tôi, đừng làm khó dễ sư muội tôi, và tha cho kẻ tàn phế này thì hay biết bao.
Lý Mạc Thu không ngờ Phùng lão đã đem thân ứng chiến, còn nói câu khiêm tốn có vẻ xin xỏ, nàng ngạo nghễ bảo:
- A! Ra ngươi đã biết sợ ư? Này lão thợ rèn! Nếu thế mi phải quỳ xuống xin lỗi ta mới được.
Phùng Mạc Phong quắc mắt nhìn Lý Mạc Thu rồi quát lớn:
- Con ma cái kia, thế là mi đã trêu chọc ta phải không? Ta sợ mi mà ra đây à?
Lý Mạc Thu liền vung phất trần vụt ngang qua đầu Phùng lão.
Phùng Mạc Phong tuy có một cẳng, nhưng nhảy qua nhảy lại nhanh như chớp. Lý Mạc Thu dương phất trần đánh tiếp ba cái đều trật cả.
Phùng Mạc Phong tuy né lanh như vậy, nhưng tuyệt nhiên không đánh trả.
Dương Qua, Trình Anh, Lục Vô Song đứng ngoài hết lòng lo ngại, bảo nhau:
- Chúng mình phải giúp lão một tay.
Dương Qua thấy Phùng lão càng đánh càng hăng sức. Chàng quá thích chí, nên tìm lời chọc Lý Mạc Thu:
- Lý Mạc Thu ơi! Bữa nọ mi vừa đánh vừa cười. Sao nay lại im bặt như thế?
Lý Mạc Thu thở hổn hển hét lớn:
- Im đi, thằng ranh con kia! Mày thích lắm sao?
Dương Qua được dịp nói tiếp:
- Lý Mạc Thu, mi còn dám nhắc những lời buộc tội đảo chúa Đào Hoa là đồ bất trung bất hiếu, vô nhân đạo, cướp vợ người, bắt cóc con nhỏ nhà khác nữa chăng? Mi nói toàn là những việc không bằng chứng gì cả.
Lý Mạc Thu nghĩ bụng:
- Ta mắng như thế bao giờ mà mày dám đặt điều nói vậy?
Nàng vừa cãi lại Dương Qua, nàng vừa đánh với Phùng lão những đòn quá nguy hiểm.
Lục Vô Song và Trình Anh, không hiểu tại sao Dương Qua lại bịa chuyện như vậy!
Phùng Mạc Phong nghe Dương Qua bịa chuyện mắng Lý Mạc Thu, lòng bốc giận, vì nghĩ rằng Lý Mạc Thu là kẻ hậu sanh lại dám mắng sư phụ mình. ông dùng thế "Kim kê độc lập" vững vàng, tay búa tay nạng vung lên đánh vun vút vào Lý Mạc Thu.
Lý Mạc Thu lúc nầy chỉ lo lui, né, chờ khi Phùng lão sơ hở mới dám đánh trả vài đòn.
Dương Qua cười ha hả, nói rang rảng:
- Lý Mạc Thu! Mày là đứa láo khoét, mày bảo Hoàng Dược Sư là kẻ bất nhân vô liêm sỉ, nhưng ta thấy mày còn bất nhân và vô liêm sỉ hơn ông ta nhiều.
Giọng nói của Dương Qua như mũi dùi nhoi nhói vào tai. Dương Qua càng nhắc đến, càng châm biếm Lý Mạc Thu bao nhiêu thì Phùng lão càng nổi giận bấy nhiêu, đánh ra toàn những đòn ác hiểm.
Do đó ban đầu Lý Mạc Thu còn chống trả được, nhưng sau nàng chỉ còn có cách thủ thế, miệng thở hổn hển, không biết đường nào phản công.
Luận về võ công thì hai bên chỉ suýt soát nhau một chín một mười. Nhưng nói về kinh nghiệm chiến đấu thì Lý Mạc Thu là tay từng trải giang hồ, một mình đã dự chiến hàng mấy trăm trận. Vì vậy, tuy có hơi kém sức, nhưng nàng không bị bối rối và còn nghĩ:
- Lão chỉ có một chân, sức mạnh bình thường đã giảm mất nhiều. Nếu lão hăng sức chẳng qua vì nóng giận nhất thời. Ta chờ lão mệt sức sẽ phản công thì thế nào cũng thắng.
Quả vậy, qua một hồi giao đấu, Phùng lão đánh một lúc một yếu dần, và các chiêu thế rời rạc, không ác liệt như lúc đầu.
Lý Mạc Thu mừng rỡ vội vung phất trần đánh tạt một đòn vào ngực lão.
Phùng lão giơ nạng ra đỡ, thì Lý Mạc Thu đã lẹ như chớp, vung cây phất trần vụt tới, định quấn cây sắt của Phùng lão thu về. Đây là một tư thế đặc biệt của Lý Mạc Thu đã thường dùng để đoạt vũ khí của đối phương. Không ngờ nàng vừa vung cây phất trần đã nghe tiếng "xèo xèo". Một làn khói toả ra khét lẹt. Cây phất trần bị cháy trụi lông, chỉ còn trơ cái cán.
Bấy giờ Lý Mạc Thu mới biết cây nạng của lão còn đang nóng đỏ.
Lý Mạc Thu đã không thu được vũ khí của đối phương, mà binh khí của nàng bây giờ cũng thành vô dụng. Nàng vẫn bình tĩnh giơ "Ngũ độc thần chưởng" ra tấn công tiếp.
Thần chưởng là đòn lợi hại, nhưng phải đứng gần đối phương thì mới hiệu quả được.
Phùng Mạc Phong thừa thắng, tay búa tay nạng đánh đỡ không ngớt. Với đòn ác liệt "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu, lúc nầy chỉ còn nghe tiếng vo vo như sáo diều gặp gió.
Dương Qua, Trình Anh và Lục Vô Song sửng sốt nhìn Lý Mạc Thu và Phùng Mạc Phong đang giáp chiến hăng say, và Dương Qua cũng quên không còn châm biếm Lý Mạc Thu nữa!
Bỗng có lằn khói trắng xanh ở chỗ trận chiến ác liệt tung ra, khét lẹt như mùi đốt giẻ.
Lý Mạc Thu quyết dùng "Ngũ độc thần chưởng" đánh Phùng Mạc Phong nhưng không ngờ cây nạng của Phùng lão còn nóng đỏ, đánh vào đâu cháy đến đó, nên "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu trở nên vô hiệu, hai bàn tay của nàng suýt bị cháy cả, nếu không lanh lẹ tránh đòn.
Lý Mạc Thu đang căm giận vì nạng ác ôn của lão thợ rèn, chưa biết tìm đòn gì để phá, chợt nghe Phùng Mạc Phong kêu lên:
- Ta không thèm đánh nữa. Người mi loã lồ thế kia, thì còn đánh đấm gì!
Lý Mạc Thu quá hăng say chiến đấu, nghe Phùng lão kêu lên như vậy, nàng không hiểu duyên cớ gì cả. Chợt nghe gió thổi lành lạnh, nàng nhìn xuống thân mình từ ngực đến chân, áo quần rách hở để lộ da thịt.
Nàng thẹn thùng không thể tả, vội vã quay đầu chạy trốn.
Vừa quay mình chạy nàng nghe lạnh toát cả người, không biết chạy trốn nơi nào, chỉ có cách độn thổ mới che được cặp mắt người đời. Nhưng nàng đâu biết độn thổ mà nghĩ đến chuyện ấy.
Nguyên vì cây gậy của Phùng Mạc Phong đang nóng đỏ, nhưng Lý Mạc Thu quyết xông sát vào để đánh "Ngũ độc thần chưởng" nên áo quần bị cháy hết, sanh ra tai nạn ấy.
Dương Qua thấy Lý Mạc Thu đang luống cuống và xấu hổ, vội vã cởi áo dài ra, vận nội công ném vào người Mạc Thu.
Lý Mạc Thu như người sắp chết đuối vớ được cọc, vội đưa tay hớt lấy cái áo của Dương Qua vừa ném đến mặc vội vào. Nàng thấy sợ, vì từ trước đến nay chưa bị người nào dùng đòn phép đánh đến trần truồng như vậy!
Mặc áo xong nàng toan xông vào đánh nữa để chữa thẹn, nhưng lại nghĩ:
- May có cái áo Dương Qua cho mượn mới che được thân, nếu đánh nữa, rủi bị cháy thì lấy gì mặc.
Lý Mạc Thu cố nén giận, nhìn Dương Qua có ý cảm ơn. Đoạn nàng quay sang nói với Phùng Mạc Phong:
- Khí giới kỳ quái của ngươi vừa dùng, ta nhận cũng là của lão "Đông Tà" Hoàng Dược Sư ban truyền. Nếu ngươi dùng thuật chân chính đánh với ta, thì không bao giờ có thể thắng ta được.
Phùng Mạc Phong thản nhiên đáp:
- Tại cô rủi cháy khí giới, nếu không cháy là lão thua từ lâu rồi.
Lý Mạc Thu ngạo nghễ nói:
- Như thế lão xem ta viết câu "Đào Hoa chúa đảo, năm người đánh một" như vậy có đúng không?
Phùng lão đáp:
- Không đúng, nếu chỉ có một người trong bốn sư huynh của ta có mặt ở đây là Lý Mạc Thu không còn xác.
Lý Mạc Thu cười ha hả, nói:
- Mấy người đó còn sống hay đã chết cũng chẳng ăn nhằm gì, ngươi đừng nói tới làm chi. Ngay như lão "Đông Tà" ta cũng chưa phục. Ta muốn đấu ngay với Hoàng Dung, con gái của "Đông Tà" đó, nhưng chưa gặp.
Dứt lời, Lý Mạc Thu toan nhảy đi thì Dương Qua kéo lại:
- Lý Mạc Thu ơi, thong thả đã chứ, đi đâu mà vội thế?
Nàng liền quay lại nhìn Dương Qua hỏi:
- Có chuyện gì không?
Dương Qua nói:
- Cô chê đảo chúa Đào Hoa võ công không đáng kể, như vậy là sai lầm. Thế mà cô cứ ngạo nghễ mãi. Tôi đã được Hoàng Dược Sư dạy về "Ngọc Tiêu kiếm pháp". Ngài có dặn tôi rằng "Ngọc Tiêu kiếm pháp" có thể phá tan được cây phát trần của Lý Mạc Thu. Vậy cô ở nán lại, để tôi vạch đồ hình trên mặt đất giảng giải cho cô nghe.
Lý Mạc Thu nghe Dương Qua có "Ngọc Tiêu kiếm pháp" liền bước lại đứng trước mặt Dương Qua, bảo:
- Được, ngươi cứ vẽ đi cho ta xem thử.
Dương Qua liền đưa tay vẽ, miệng giảng cách đánh ngang, đánh dọc rồi điểm vào yếu huyệt, tiếp theo quay thế "cọp nhổm vồ nai" để cướp ngang cây phất trần.
Miệng chàng nói thao thao không vấp một điểm nào.
Lý Mạc Thu quá kinh ngạc. Nàng thầm nhìn nhận ""Ngọc Tiêu kiếm pháp" quá nguy hiểm, cây phất trần không đủ tác dụng để chống đối.
Được thế, Dương Qua nói tiếp:
- Còn "Ngũ độc thần chưởng" của cô cũng chưa đi đến đâu. Hoàng Dược Sư cũng dạy tôi công phu "bắn đạn bằng ngón tay" chống lại "Ngũ độc thần chưởng" của cô một cách dễ dàng. Dẫu cô có khôn lanh tài giỏi đến đâu cũng không thoát khỏi được.
Tiếp đó chàng lại vẽ và giảng rất ăn khớp với các bí quyết của "Ngũ độc thần chưởng".
Lý Mạc Thu mặt xám đen, thầm nghĩ:
- Nó đã biết hai môn đó, nếu ta giao chiến tất bị bại, không thể tránh thoát được.
Dương Qua đoán được nét mặt kinh sợ của Lý Mạc Thu, chàng liền nói:
- Đảo chúa có dặn tôi "thế nào con Lý Mạc Thu nó cũng nói vô lễ với ta, nhưng ta đường đường một đấng tôn sư, không lẽ lại so tài với nó." Cho nên ngài dạy cho tôi thuật pháp và dặn "con phải thay ta để bắt sống nó", nhưng tôi nghĩ: cũng chả ai đâu đó, giữa cô và sư phụ tôi chỉ là tình đồng môn, nên tôi nói riêng cho cô hay. Để mai mốt nếu có gặp học trò của đảo chúa, cô phải nên tẩu thoát đi là hơn."
Lý Mạc Thu tái mặt, đứng ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:
- Được rồi... Được rồi...
Miệng nói, chân nàng chạy như tên bay, trong chớp mắt bóng hình Lý Mạc Thu đã biến vào sau đồi núi hướng Tây.
Phùng Mạc Phong thấy thế, thầm khen Dương Qua:
- Lý Mạc Thu đúng là một tay lợi hại. Nhưng thật ra hai thuật trên, sư phụ ta có truyền cho Dương Qua thì ít nhất cũng phải luyện tập hai năm mới sử dụng được với địch thủ.
Thế mà Dương Qua chỉ thuộc có lời giảng dạy, đã làm cho Lý Mạc Thu kinh sợ, không dám khinh thường học trò của Hoàng Dược Sư nữa. Thật là một lối "đánh giặc miệng" tài tình.
Lục Vô Song và Trình Anh đứng phập phồng lo sợ, vì biết Dương Qua lập kế hăm doạ Lý Mạc Thu. Đến khi thấy Lý Mạc Thu bỏ chạy, Lục Vô Song và Trình Anh mới hồi tâm như vừa trải qua một cơn ác mộng. Lục Vô Song vỗ tay reo lên:
- Anh Ngốc khéo mồm mép quá, khuếch trương thanh danh của sư phụ tài tình ghê!
Cả bốn cùng vui vẻ cười cười nói nói không ngớt tiếng.
Trình Anh sực nhớ đến cô Ngốc, liền nói với Phùng lão:
- Thưa sư huynh, bây giờ chúng ta vào tiếp tục mở trói cho cô Ngốc chứ.
Bốn người quay bước về nhà. Trình Anh vừa đi vừa nghĩ:
- Tại sao Dương Qua lại cởi áo mình may cho chàng để trao cho Lý Mạc Thu? Tại sao chàng không cởi chiếc áo của Tiểu Long Nữ tặng cho chàng trước kia? Chiếc áo ấy đã cũ rồi kia mà! Chẳng biết trong lúc hối hả có phải chàng đã vô tình quý món kỷ niệm của Tiểu Long Nữ hơn tặng vật của mình. Nếu quả như vậy thì chàng không phải là người "mới chuộng cũ vong" rồi.
Càng nghĩ Trình Anh càng buồn. Nàng nói theo mọi người. Trong lúc ba người đi trước chuyện trò vui vẻ, nhưng nàng vẫn làm thinh.
Cả bọn vừa đến sân, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập ở sau núi, ai cũng ngơ ngác không biết việc gì xảy đến.
Dương Qua nói:
- Để tôi ra đó xem có việc gì.
Dương Qua nhảy lên lưng ngựa, rẽ cương chạy quanh sang mỏm núi thì thấy trên đại lộ hướng Đông bụi bay mù mịt, cờ xí rợp trời, quân lính reo hò lẫn với tiếng ngựa hý vang rền. Đó là một cánh quân hùng hậu của Mông Cổ đang kéo đến xâm lược phương Nam.
Dương Qua từ trước đến nay chưa bao giờ được thấy quân mã đông đảo như thế, nên chàng cho ngựa tiến qua lề đường để xem cho rõ. Chàng đang say sưa nhìn đoàn người ngựa oai hùng, gươm giáo sáng choang, chợt thấy hai tên lính tiền phong phóng ngựa đến gần hét lớn:
- Thằng kia mi đứng đây làm gì?
Dương Qua thất kinh, nhìn thấy hai ngọn giáo đang chỉ thẳng vào mặt. Chàng biết thế nguy liền quay ngựa bỏ chạy.
Hai tên lính Mông Cổ liền phóng ngựa đuổi theo, tay giương cung bắn vào lưng Dương Qua và gọi lớn:
- Thằng khốn kia đứng lại.
Tiếng gọi vừa dứt, tiếp theo hai lằn tên bay tới vèo vèo. Dương Qua liền quay lại hớt trọn hai mũi tên.
Nếu Dương Qua không có võ nghệ siêu quần thì không tài nào hớt được hai mũi tên ác độc này.
Hai chú lính thấy Dương Qua hớt hai mũi tên quá dễ dàng, kinh hãi không dám đuổi theo nữa.
Dương Qua cho ngựa chạy đế nhà Phùng Mạc Phong và kể chuyện đoàn quân Mông Cổ đã đến phương Nam.
Phùng Mạc Phong thở dài than:
- Thôi, từ nay sinh linh Trung Quốc sẽ điêu đứng, thống khổ biết chừng nào! Trời ơi! Dưới bàn tay khát máu của quân Mông Cổ thì còn gì nữa!
Dương Qua nói:
- Thuật cưỡi ngựa bắn tên của quân Mông Cổ hay lắm, sợ quân nhà Tống không thể chống nổi. Thật là một tai hại lớn cho triều đình nhà Tống.
Phùng Mạc Phong nói:
- Dương công tử đang tuổi thanh niên, lại có tài nghệ siêu quần, sao không về Giang Nam đầu quân để chống giặc giúp nước?
Dương Qua ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Không, tôi không đầu quân đầu quan gì cả. Tôi chỉ định lên phương Bắc tìm cô nương của tôi. Vả lại, hiện giờ thanh thế quân Mông Cổ đang mạnh lắm, mà có một mình tôi thì làm được việc gì!
Phùng Mạc Phong lắc đầu có ý chê trách, nói:
- Vẫn biết sức mình không thấm vào đâu, nhưng cũng nhờ sức mọi người họp lại mới thành đông người được chứ! Nếu mọi người đều có ý nghĩ như Dương công tử thì còn có ai là kẻ ra chống ngoại xâm? Thử nghĩ người ta sinh ra ở đời, điểm cao quý nhất là lòng yêu nước thương dân. Làm người hơn nhau là do cái chí khí, nhờ đó mới tạo được hai chữ "anh hùng". Nếu con người sống mà không biết đến tổ quốc thì khác nào cây cỏ? Còn hiện giờ nước nhà đang lúc hiểm nguy, sao Dương công tử lại chỉ mong tìm "cô nương"? Trong sử chỉ ghi chép những bậc anh hùng, đâu có ghi những người đi tìm "cô nương"?
Dương Qua nghe những lời Phùng lão phân trần, liền nói:
- Lão dạy đúng lắm! Nhưng muốn chống xâm lăng, phải có một tiêu chuẩn đúng đắn cho dân chúng biết. Sự xâm lăng của ngoại bang sẽ làm cơ cực như thế nào. Rồi những người đem thân ra giúp nước phải được quyền lợi công bằng như thế nào. Chứ còn vua quan chỉ biết vơ vét đầy túi tham, gặp giặc thì đầu hàng xu nịnh. Dẫu người dân đem thân hy sinh để cứu nước, đến khi hết giặc xâm lăng, lại phải làm nô lệ cho bọn nịnh thần nữa à? Còn những người có lòng trung thực, ngay thẳng, lại bị bọn quan ô, tham lại dèm pha kết tội để dâng lên vua cho được công trạng. Do đó, người dân phải thủ phận theo câu "con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa". Bắt dân hy sinh chỉ cho bọn vua quan hưởng cái sung sướng là nghĩa làm sao?
Phùng Mạc Phong nghe Dương Qua lý luận nhiều quá, liền nói:
- Bây giờ, theo ý công tử định thế nào?
Dương Qua cười nói:
- Lão đã phải ẩn thân vào nơi rừng sâu núi thẳm này, mà còn muốn tặng cho tôi hai tiếng "công tử" là có ý định gì vậy? Tôi là con nhà nghèo, lúc nhỏ phải lưu lạc ở Giang Nam, đã cơ cực biết chừng nào với bọn quan ô tham lại, nên nay tôi nghĩ bọn xâm lăng Mông Cổ may ra còn có lòng nhân đạo hơn bọn quan lại nhà Tống. Vả lại Hoàng đế nhà Đại Tống lại cũng không tốt gì, nên tôi không thể đầu quân được.
Thấy Dương Qua đã có ý định dứt khoát như vậy, Phùng Mạc Phong không nói nữa. ông thu xếp đồ đạc vào một cái bị, mang lên vai rồi nói với Trình Anh:
- Sư muội! Nếu mai sau có gặp sư phụ, nhờ sư muội nói lại giùm với ngài là Phùng Mạc Phong đệ tử của ngài không bao giờ quên lời dạy dỗ. Lúc này tôi phải trà trộn vào trong quân Mông Cổ để tìm cách may giết được tên nào, sẽ trừ bớt hại cho dân. Đến lúc hết giặc Mông Cổ trên đất Giang Nam, tôi mới trở về.
Lão liền cầm nạng sắt bứt ra đi, không hề nói đến Dương Qua một lời nào nữa.
Dương Qua nói với Lục Vô Song và Trình Anh:
- Chúng ta không ngờ lại gặp được một vĩ nhân ở nơi nầy, nhưng chưa kịp tỏ lời tạ ơn thì lão đã ra đi rồi.
Lục Vô Song cười nói:
- Uổng quá hả anh Dương Qua! Nếu khi sáng mà không có lão thì anh đã có dịp trổ tài với Lý Mạc Thu rồi, chứ đâu phải mất công giảng giải khổ sở như vậy!
Dương Qua cười ha hả đáp:
- Đúng rồi, nếu không có lão là ba đứa mình bây giờ đã được về thế giới mới rồi, chớ đâu còn khổ thế nầy!
Trình Anh nói:
- Lão đi mất rồi, vui gì mà pha trò! Như thế này là chúng ta đã quá vô tình với lão rồi. Thôi bây giờ chúng ta vào nhà lo cho cô Ngốc chứ.
Ba người đi vào nhà. Vào đến nơi ai cũng đều ngơ ngác vì không còn thấy cô Ngốc đâu cả. Trình Anh chạy kiếm khắp nhà, chợt thấy cô Ngốc nằm còng queo sau xó cửa, vôi kêu lên:
- Cô Ngốc! Sao nằm trong xó cửa vậy?
Dương Qua và Lục Vô Song vội vã chạy lại, thấy cô Ngốc đã mê man, tay đút vào bọc. Cả ba người đều kinh ngạc, xúm nhau khiêng cô Ngốc lên giường.
Mặt cô Ngốc lúc này đỏ bầm, đôi mắt trợn ngược lên. Trình Anh lấy thuốc xoa, Dương Qua lo giải huyệt đạo chính cho huyết mạch lưu thông.
Trong giây lát cô Ngốc đã tỉnh lại, mắt nhắm mắt mở nhìn mọi người.
Thình lình cô Ngốc lại tái mặt, kêu lên:
- Trời ơi! Anh Dương... anh đừng hiện lên bắt tôi. Không phải tôi giết anh mà!
Trình Anh liền nhỏ nhẹ nói:
- Chị ơi, đừng có sợ mà nói lầm lộn như vậy. Đâu có anh ấy ở đây?
Dương Qua định ý:
- Phải rồi, trong lúc tâm hồn nó mê sảng, mình doạ nó, may ra nó mới nói sự thật được.
Chàng liền nắm tay cô Ngốc, đôi mắt trợn lên la lớn:
- Bữa nọ đứa nào giết ta, mày nói mau lên không ta giết mày bây giờ.
Cô Ngốc khóc mếu máo, run rẩy nói:
- Anh Dương... Tôi đâu có giết, tôi đâu dám giết anh...
Dương Qua nóng lòng quá quát lớn:
- Mày có nói hay không? Tao giết mày!
Vừa nói tay chàng vừa bóp cổ cô Ngốc nghe ằng ặc. Cô Ngốc giãy dụa kêu không ra tiếng.
Trình Anh và Lục Vô Song biết Dương Qua định doạ để biết sự thật, nhưng chàng lại quá nóng, bóp cổ cô Ngốc hơi chặt. Trình Anh nói:
- Anh Dương nhẹ tay một chút.
Lục Vô Song nói:
- Cô Ngốc ơi, biết sao cứ nói thật hết đi.
Dương Qua trợn mắt, mặt cau lại, răng nghiến chặt, hỏi:
- Ta đã hiện hồn ma về đây để hỏi mày là ai đã giết tao. Mày phải nói thật ra thì ta tha cho, nếu mày không nói thật thì tao vặn cổ mày chết!
Miệng nói tay chàng hơi nới cổ cô Ngốc.
Cô Ngốc thở khò khè nói:
- Tôi biết anh chết... Hồi anh chết... nhiều quạ lắm! Nó ăn thịt anh.
Nghe đến đấy, Dương Qua lòng đau như cắt, đoán biết cha chàng đã bị chết về dao búa của một kẻ bạo tàn rồi. Nhưng sau khi chết, tại sao không được vùi thân tử tế, mà để quạ phân thây thảm thương như vậy! Mặt chàng xám ngắt, nghiến răng hét lớn:
- Đứa nào giết ta, nói mau lên!
Cô Ngốc ú ớ run sợ, đáp:
- Tại hồi anh đánh cô nương, nên trúng phải kim thuốc độc trong người cô nương mà anh chết.
Cô Ngốc có hiểu được sự thật khi Dương Khang bị trúng độc chết. Trước kia Âu Dương Phong đã dùng nọc rắn ám hại Nam Hi Nhân trên đảo Đào Hoa. Nam Hi Nhân gần chết đã mê man, không còn biết gì nữa, nên đánh một đòn vào vai Hoàng Dung, máu độc trong người Nam Hi Nhân dính vào chiếc áo lông nhím của Hoàng Dung mà Hoàng Dung vô tình đâu có biết được, nên cứ để như vậy. Đến khi gặp Dương Khang ở trong miếu, Dương Khang đưa tay đánh vào vai Hoàng Dung trúng vào chỗ có chất độc, nên bị chất độc nhiễm vào mà chết. Lúc đó Hoàng Dung vẫn tưởng Âu Dương Phong giết Dương Khang, nàng đâu có ngờ cái chuyện nọc rắn sang chuyển liên miên như vậy.
Đương nóng lòng, nhưng không hiểu được tên người giết cha mình, Dương Qua liền la lớn:
- Cô nương là ai?
Cô Ngốc bị nghẹt thở vì chàng vừa hỏi vừa bóp cổ, nên chỉ khò khè được mấy tiếng:
- Cô nương... là cô nương.
Dương Qua gằn giọng hỏi:
- Tên cô nương là gì?
Cô Ngốc èn ẹt rồi im bặt như hết thở.
Lục Vô Song thấy cô Ngốc không nói được, vội bước lại gỡ tay Dương Qua ra. Dương Qua liền túm hai tay Lục Vô Song đẩy mạnh một cái, Lục Vô Song thất thế té nhào xuống đất, văng xa hơn ba trượng. Nàng đau quá, nằm khóc sướt mướt.
Trình Anh tái mặt, bủn rủn cả tay chân, không dám nói năng gì, vội bước lại đỡ Lục Vô Song và nói:
- Dương Qua thường ngày rất hiền lành ôn hoà, sao nay lại dữ hơn cọp, chắc anh ấy đang tức bực lắm đấy!
Lục Vô Song đôi mắt đẫm lệ, thút thít nói:
- Tôi có chuyện gì đâu mà anh ấy giận tôi! Con người gì khi tỉnh khi say như vậy.
Dương Qua thầm nghĩ: "Nếu hôm nay mình không tìm được tên kẻ giết cha mình thì ức chết đi được." Chàng luôn mồm hỏi tiếp:
- Cô nương ấy họ Khúc hay họ Mai gì đó phải không?
Chàng hỏi như vậy là có ý nghi ngờ cho Mai Siêu Phong, còn Hoàng Dung coi chàng như con cháu trong nhà, chàng không hề nghĩ rằng Hoàng Dung đã động thủ.
Cô Ngốc giãy dụa mãi định gỡ tay ra chạy, nhưng bị Dương Qua nắm trúng huyệt đạo không tung dậy được, chỉ "a á" lên mấy tiếng rồi nói:
- Anh đến trước mặt cô nương mà đòi mạng chứ, tôi có giết anh đâu mà anh định giết tôi?
Dương Qua liền hỏi:
- Cô nương ấy ở đâu? Chỉ mau lên!
Cô Ngốc phều phào đáp:
- Bữa nọ tôi theo sư phụ đến, thấy cô nương và chồng cô ở trên đảo đó.
Dương Qua vừa mừng vừa chậm rãi hỏi:
- Cô nương kêu sư phụ cô là gì?
Cô Ngốc khò khè đáp:
- Là cha chứ còn là gì nữa.
Trình Anh và Lục Vô Song nghe cô Ngốc nói, cả hai đều kinh ngạc, ngơ ngác nhìn Dương Qua và cô Ngốc.
Dương Qua luôn miệng hỏi tiếp:
- Có phải chồng cô nương là Quách Tỉnh không?
Cô Ngốc run rẩy đáp:
- Đúng đấy, chớ anh không biết sao?
Dương Qua biết rõ Hoàng Dung là thủ phạm giết cha chàng. Lòng chàng lúc này như tơ vò, nên hai tay không còn nắm chặt cô Ngốc nữa.
Dương Qua ngồi sững sờ, đầu óc cố suy nghĩ lại cuộc đời từ thuở nhỏ đến nay:
- Lúc ta còn nhỏ phải chịu biết bao nhiêu cơ cực, mấy mươi phen bị đời hắt hủi tàn nhẫn. Hoàn cảnh đó chưa phai mờ trước mắt. Nay ta lại biết được người đã giết cha ta. Nừu cha ta không bị người giết, thì mẹ ta đâu có phải sống bằng cái nghề bắt rắn, và bị rắn độc cắn chết như thế! Để đời ta phải chịu cảnh cô đơn không cha không mẹ, đi ăn nhờ ở đợ đổi bát mồ hôi mới được chén cơm thừa cá cặn. Thế mà vẫn bị đời khinh rẻ như kiếp trâu ngựa.
Nghĩ đến đó, chàng hồi tưởng lại lúc chàng còn ở với vợ chồng Quách Tỉnh trên đảo Đào Hoa. Phải rồi, lúc đó Hoàng Dung rất nuông chiều anh em họ Võ, hai đứa nó muốn gì cũng được, còn mình bà mắng chửi bất cứ lúc nào. Tuy bà cũng có vẻ hiền từ, nhân hậu thật, nhưng cái hiền từ nhân hậu đó chỉ là cái lúc hối hận đã nhẫn tâm giết người. Chàng nói lớn như để hả giận:
- Ta không ngờ hai vợ chồng con người, bề ngoài có vẻ hiền từ như Quách Tỉnh và Hoàng Dung mà lại manh tâm giết cha ta!
Cô Ngốc nghe Dương Qua la to tiếng, liền vùng dậy nhảy xuống giường kêu thất thanh:
- Cứu giùm tôi... các người ơi!
Trình Anh bước lại đứng gần Dương Qua nhỏ nhẹ nói:
- Anh Dương Qua, anh đừng giận, cô Ngốc có tánh lừng khừng nói không đâu vào đâu cả. Mà nhất là lúc cô Ngốc lên cơn, lại càng nói bậy bạ lắm! Anh đừng tin cô Ngốc làm gì!
Dương Qua vẫn giữ vẻ mặt căm hờn không thèm trả lời. Chàng chỉ ngồi thừ trên giường, nét mặt luôn luôn thay đổi qua nhiều trạng thái buồn đau lẫn lộn.
Chàng đăm chiêu suy nghĩ một hồi lâu, bỗng đứng phắt dậy bước ra cửa nhảy lên lưng ngựa chạy như bay. Nháy mắt chàng đã cách xa hơn hai mươi trượng, nhưng đằng sau, chàng còn nghe tiếng Trình Anh gọi nheo nhéo:
- Anh Dương! Anh Dương ơi! Trở lại cho em nói chuyện cần đã.
Dương Qua nghe còn rõ, nhưng chàng không thèm đáp một tiếng. Chàng chỉ hậm hực là "Ta phải trả thù cho cha... Ta phải trả thù cho cha ta bằng được."
Chàng đưa tay dùng roi quật ngựa không ngớt. Chẳng bao lâu chàng đã đi quá một trăm dặm. Cảm thấy trên môi hơi đau, chàng đưa bàn tay xoa thử, thấy máu tươi dính cả bàn tay. Thật ra khi chàng quá giận, đã cắn môi nghiến lại, làm máu chảy mà không hay.
Dương Qua lúc nầy càng nghĩ nhiều càng thấy chán ghét cõi đời. Chàng cho rằng dưới bầu trời này, không có người nào tốt cả, toàn là hạng người điêu ngoa xảo quyệt mà thôi.
Nhưng đến khi cơn giận đã lắng xuống, chàng lại có vẻ hối hận thầm nhủ:
- Ta vì quá nóng mà quên cả ân nghĩa sao? Quách bá mẫu tuy đối với ta không tốt, nhưng Quách bá bá vẫn coi ta như con như cháu, và ta cũng một lòng sùng bái kính trọng người "võ nghệ siêu phàm, đức hạnh quán thế".
Nghĩ đến đấy, chàng quá thương tâm, đầu óc nghe choáng váng, đôi mắt hoa lên, không thể nào đi được nữa. Chàng xuống ngựa ngồi nghỉ ở bên lề đường.
Dương Qua ôm đầu khóc! Khóc vì thương cha bị giết tàn nhẫn, khóc vì thương mẹ bạc mệnh phải chịu cảnh cơ hàn, khóc vì thân chàng bị bạc đãi lừa dối.
Lúc nầy trời đất đối với chàng chỉ là một bức tranh sầu thảm, xã hội đối với chàng chỉ là những ảo ảnh. Nhưng cái đau khổ nhất, là khi ra đời chàng đã mất cha, người cha với cái tên "Dương Khang". Chàng nghĩ sao mà tốt đủ điều. Chàng tưởng với cái tên ấy, trên đời này không có ai tốt được như cha chàng cả.
Dương Qua đâu có biết Dương Khang , thân phụ chàng, là người bán nước để cầu danh, nhận giặc làm cha, cậy thế sát hại dân lành của xứ sở, phụ thầy phản bạn, lừa tình. Biết bao nhiêu điều bỉ ổi. Do cái ngang tàng bạo ngược đó mà tự hại lấy thân.
Chàng đang ngồi khóc nức nở, chợt nghe có tiếng vó ngựa dồn dập từ phương Bắc chạy đến. Chàng vội đứng lên nhìn ra xa thì thấy bốn tên kỵ mã, trên tay lăm lăm những cây đoản đao sáng lập loè theo nhịp ngựa, phi đến phía chàng. Hai tên đi đầu trước mũi giáo có găm hai đứa trẻ chưa chết hẳn, còn giãy dụa cất tiếng khóc vang.
Chúng là những tên lính Mông Cổ. Vừa thấy Dương Qua một mình đứng bên đường, một tên trong bọn quát hỏi:
- Thằng nghịch nầy, mày muốn chặn đầu ngựa chúng ông hả?
Miệng nói tay hắn đã đâm đoản đao vào ngực chàng.
Đang trong lúc buồn chán, lại bị người đâm một cách vô cớ, Dương Qua giơ tay nắm chặt lấy đoản đao giật mạnh một cái, tên Mông Cổ té nhào xuống chân chàng. Chàng luôn tiện bồi thêm một đá, tên lính văng ra hơn năm trượng, gãy xương, bể óc chết tốt nằm trên mặt đất.
Cả bọn võ sĩ Mông Cổ thấy chàng có sức mạnh như thần, không tên nào dám chống cự, vất cả khí giới rồi chạy mất hết.
Chàng nghe tiếng khóc oe oe trên mặt đường, liền chạy đến xem, thì ra đó là hai đứa trẻ Trung Quốc bị Mông Cổ đâm vào bụng nhưng chưa chết hẳn. Miệng chúng còn mấp máy như cố kêu "Mẹ ơi!... Mẹ!"
Dương Qua trong lòng đang đau khổ, lại còn gặp chuyện thảm thiết xảy ra trước mắt. Chàng bùi ngùi nhìn hai đứa trẻ bị quân Mông Cổ hành hạ một cách tàn nhẫn, giở sống giở chết như vậy thật quá dã tâm, nên đôi mày chàng cau lại.
Đôi mắt đẫm lệ, chàng biết hai đứa trẻ không thể nào sống được, nếu để lâu chỉ thêm đau khổ, nên nén lòng khẽ dùng chưởng lực giải thoát cho hai bé.
Đoạn, chàng dùng đoản đao của tên lính Mông Cổ đào hầm chôn hai đứa trẻ.
Chàng mới đào được nửa chừng, chợt nghe tiếng ngựa hí và quân hò reo chuyển đất, cát bụi mù trời, gươm giáo lập loè tung lên tứ phía. Đoàn quân Mông Cổ đang rầm rập kéo đến.
Dương Qua chưa kịp chôn, vội vã cầm đoản đao phi lên lưng ngựa và gói xác hai đứa trẻ mang theo.
Con ngựa của chàng đã quen xông pha xa trường, nên khi chàng vừa nhảy lên lưng, nó đã tung vó xông vào trận địa quân Mông Cổ, rồi hí lên những tiếng rùng rợn trợ oai cho chủ.
Dương Qua cầm đoản đao múa tít lên, vừa gạt vừa đâm, trong chốc lát chàng đã giết chết mấy chục tên Mông Cổ. Nhưng quân Mông Cổ lúc bấy giờ càng lúc càng đông. Chàng thấy chúng như một rừng người, liệu không thể nào chống nổi với chúng nên phải quay ngựa chạy.
Phía sau quân Mông Cổ ồ ạt đuổi theo nghe như vũ bão. Chúng giương cung bắn tên theo như mưa. Chàng dùng đao múa tít sau lưng để gạt tên. Lằn tên bị cản lại rớt sau ngựa nghe rào rào như trận mưa lớn rơi trên đá.
Con ngựa của chàng tuy đi nhiều, nhưng chạy rất dài và hay tuyệt đỉnh, nên chẳng bao lâu chàng đã bỏ rơi đám quân Mông Cổ.
Dương Qua lúc này một mình một ngựa lạc loài giữa rừng hoang bát ngát, mà mặt trời đã khuất về phía Tây trong cảnh đìu hiu, u tối. Chàng trông tứ phía đều là cây cối um tùm không có lối bước, lại thêm những núi cao chọc trời, sương chiều đã buông xuống, khí núi như khói bay, chàng lắng tai nghe không còn nơi nào có tiếng người, cả đến tiếng chim chóc cũng vắng! Thật là cảnh hãi hùng của rừng sâu, trong lúc hoàng hôn cô tịch.
Dương Qua xuống ngựa, mở tấm vải lấy thi hài hai đứa bé ra coi, thấy mặt mũi chúng vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống, nhưng nét đau khổ của hai đứa bé vẫn còn hiện rõ trên hai khuôn mặt non tơ của chúng.
Nhìn xác hai đứa trẻ, Dương Qua buồn buồn:
- Chắc cha mẹ hai em nuông chiều hai em lắm đây. Nay hai em lại bị quân Mông Cổ tàn bạo đâm lủng bụng. Hai em chết là hết, nhưng cha mẹ phải đứt ruột héo gan, biết bao giờ hết sầu hận
Nhìn hai đứa trẻ chàng lo lắng:
- Xem tình thế lúc này, chắc quân Mông Cổ sẽ kéo xuống xâm lăng miền Nam, thì biết bao nhiêu trẻ nít vô tội sẽ bị chết thảm thương như thế này nữa!
Chàng sầu liên miên, rồi đào một huyệt dưới bóng cây to mai táng hai đứa hài nhi.
Mai táng xong, chàng nhớ đến cử chỉ sợ hãi của cô Ngốc khi kể lại cái chết của cha chàng nên chép miệng than:
- Hai đứa trẻ này chết được ta chôn như thế này, thế mà khi cha ta chết lại phải phơi thây cho quạ rúc thịt rỉa xương! Trời ơi! Bọn tàn ác vô kể, mi đã giết người, sao còn nỡ tàn nhẫn đến thế! Bọn mi đành để xác người ta làm mồi cho quạ như thế?
Chàng buồn bã thả ngựa cho đi ăn cỏ, còn chàng thì đi tìm chỗ nghỉ ngơi.
Con ngựa của Dương Qua đã mấy ngày liền phải rong ruổi đường rừng, nó cũng nhọc mệt, nên chỉ ăn quanh quẩn gần đấy, chứ không đi ăn xa như mọi ngày.
Dương Qua thẫn thờ đi lại dưới gốc cây, định nằm dưới đất nghỉ, nhưng lại sợ rắn độc cắn lúc ngủ quên. Chàng bèn thò tay vào túi lấy cuộn dây tơ, đem dăng hai đầu dây vào hai cây to, theo đúng cách Tiểu Long Nữ đã dạy, gọi là phép "ngủ dây khi băng qua rừng".
Chàng liên tiếp mấy ngày lo nghĩ, lại phải khó nhọc nên mệt mỏi. Vừa nằm xuống chàng đã chìm vào một giấc ngủ ngon lành.
Khoảng nửa đêm chàng thức giấc, chợt ngửi có mùi hôi tanh nồng nặc theo luồng gió đưa đến, thỉnh thoảng có tiếng gầm gừ và những tiếng rào rào như thứ gì đang rẽ cỏ mà đi.
Dương Qua biết có chuyện lạ, chàng ngồi dậy nhìn về phía có tiếng gầm gừ.
Đêm cuối tháng, không trăng, bốn bề tối đen như mực, nhưng Dương Qua sống trong Cổ Mộ đã quen, nên trong đêm tối mà cặp mắt chàng vẫn trông rõ được mọi vật.
Chàng thấy hình thù như bốn cây đèn lắc lư từ xa tiến đến.
Dương Qua định thần nhìn kỹ thì thấy đúng là hai con cọp, lông đen từ đầu đến chân. Cặp mãnh hổ này vừa cao vừa dài, từ trước đến nay chàng cũng đã từng thấy cọp, nhưng không có con nào to như hai con hổ đen này.
Hai mãnh hổ vừa đi vừa đánh hơi, tiến dần đến chỗ chàng chôn thi hài hai đứa bé lúc chiều. Khi đến mộ hai đứa bé, con nào cũng khì khịt và giương nanh vuốt chực đào bới.
Dương Qua nóng lòng, định nhảy xuống đánh hai con hổ nhưng ác nghiệt thay, lúc nầy chàng không có vũ khí trong tay. Cả đến ngọn đoản đao của tên Mông Cổ chàng cũng để dưới đất.
Chàng thấy hai con cọp nanh vuốt quá dị thường, nếu chàng dùng chân tay không mà đánh với nó thì chắc không nổi, mà sẽ còn bị thương là khác.
Chàng đang lưỡng lự, chợt nghe phía Tây có tiếng "lịch kịch... lịch kịch" vọng lại. Trong chốc lát, tiếng "lịch kịch" tiến đến gần gốc cây chỗ chàng ngồi.
Dương Qua thấy chuyện quái dị liền chăm chú nhìn, thì thấy một cỗ quan tài từ đâu lù lù tiến đến phía chàng.
Chàng cố nhìn xem có người đẩy đi không. Nhưng không thấy một bóng người nào. Tại sao có chuyện lạ lùng, cỗ quan tài tự động biết di chuyển ư? Từ xưa đến nay chưa bao giờ có, mà chàng cũng chưa nghe ai kể đến chuyện lạ như thế này.
Dương Qua lúc nầy ngồi trên dây vừa sợ vừa thắc mắc. Chàng không dám cả thở mạnh.
Nháy mắt, cỗ quan tài đã đến dưới gốc cây trước mặt chàng và đứng yên tại đây.
Hai con cọp thấy thế liền chạy đến rồi lượn quanh cỗ quan tài, dí mũi vào ngửi, nghe rõ tiếng phì phò phì phò... Ngửi một lúc, cả hai đưa chân cào nắp cỗ quan tài.
Bỗng nghe "binh" một tiếng, nắp quan tài tung lên, văng ra xa hơn ba trượng, liền đó có một thây ma nhảy vọt ra, đá con cọp bên phía trái lộn nhào. Con cọp bên hữu phóng ngang qua, vồ trên đầu thây ma. Thây ma lanh như chớp, lách sang một bên, giương tay nắm chặt lấy gáy con cọp, rồi ấn mạnh xuống đất như ta đè đầu con mèo vậy.
Dương Qua kinh sợ nhìn thấy bóng ma ấy ốm nhom, cao lêu nghêu mà có sức mạnh như thần. Chàng sợ quá, mồ hôi ra ướt cả người.
Hai con cọp đen đau quá không dám làm dữ nữa, con nào cũng nằm bẹp xuống đất như đầu phục.
Chợt nghe có tiếng eng éc như tiếng chim mèo từ trong hang núi vọng ra. Dương Qua ngẩng đầu nhìn vào phía núi thấy vô số đom đóm nhấp nháy tiến ra chỗ cỗ quan tài. Hai con cọp đen thấy thế vội nằm mọp, xoãi chân trước kê mõm lên, còn đuôi phe phẩy như chào đón.
Sau đàn đom đóm có một bóng đen. Dương Qua tưởng mình quá sợ nên hoa mắt, chứ không phải sự thật. Chàng bậm gan lấy lại bình tĩnh, thò tay vào túi lấy khăn lau mặt cho kỹ lưỡng.
Chàng từ trên cây chăm chú nhìn về hướng rừng thấy đàn đom đóm rọi sáng cả một góc rừng, và người đi sau đàn đom đóm là một lão già, da mặt đen bóng, râu tóc đen kịt, mặc quần áo đen, đầu đội mũ đen, trên vai trái có một con chim cú đen ngời ngợi đậu, thỉnh thoảng kêu lên như báo hiệu gì.
Bây giờ ánh sáng của đàn đom đóm đã tiến đến chỗ quan tài, nên chàng nhìn đôi cọp đen, chiếc quan tài và thây ma rõ mồn một như dưới bóng trăng tỏ. Tiếp đến lão già lùn cất tiếng hỏi thây ma:
- Cha chả, không nhớ câu "đánh chó phải ngó chủ nhà" sao? Tiểu Tương Tử dám vô lễ thế nầy? Đánh hai con mèo của ta à?
Người lùn, cao không được một thước hai mà tiếng nói nghe như sấm sét, làm cho Dương Qua hai lỗ tai ù ù, nhức cả óc.
Thây ma cười nói:
- Ni Ma Tinh nhân huynh, tôi vô ý đụng phải hai con mèo của nhân huynh, để tôi xin tạ tội vậy.
Thây ma nói rồi chấp hai tay vái trước mặt người lùn một cái.
Dương Qua nhìn kỹ thấy thây ma cao lêu nghêu đó chính là người thật chứ không phải thây ma.
Chàng mỉm cười, thầm bảo:
- Mặt mũi trắng trẻo, vận y phục trắng phau, lại ở trong một cỗ quan tài chui ra, ai không cho đó là một thây ma xuất hiện.
Suy luận một lúc, Dương Qua lẩm bẩm nói:
- Dùng hai tay không mà đánh bại hai con cọp to như thế nầy, phải là một tay cao thủ nhất nhì trong võ phái nào mới được. Con người quê kệch kỳ dị thế kia sao lại có cái hiệu "Tiểu Tương Tử", thế đã kỳ cục rồi, mà cả hai người lại gọi cọp dữ là mèo, thật là một việc lạ lùng ngoài sức tưởng tượng của người đời.
Chàng đang suy nghĩ và cũng chưa biết phải xử trí thế nào, bỗng giật mình khi nghe người lùn nói:
- Tiểu Tương Tử, công việc của Kim Luân Pháp Vương thế nào?
Bốn tiếng "Kim Luân Pháp Vương" làm cho Dương Qua nghe nhởn cả người.
Tiểu Tương Tử cười nhạt, rồi ngồi trên quan tài đáp:
- Thôi, nhân huynh ơi! Nói đến ông ta thêm làm trò cười cho nhân huynh chứ ích gì?
Ni Ma Tinh nói:
- Tiểu Tương Tử nói cho ta nghe với.
Tương Tử nói:
- ông ta đã ỷ tài đơn thương độc mã, chịu tranh hùng với cả tụi võ sư ở Trung nguyên, nên bị thảm bại. Thực đáng buồn cười.
Lão lùn cất tiếng cười hô hố, vang cả khu rừng. Con chim mèo đậu trên vai lão cũng cất tiếng kêu ríu rít.
Lão lùn vừa cười xong, đắc ý nói:
- Thằng Ni Ma Tinh nầy đã lặn lội muôn dặn đèo, băng suối từ Thiên Trúc đến đây. Ngờ đâu bị Kim Luân Pháp Vương lẹ chân hơn, để được lãnh chức "đệ nhất võ sư" do Vương gia Mông Cổ phong cho. Chà chà! Võ công như vậy đã đáng vào đâu mà đòi đệ nhất với đệ nhị chứ!
Tiểu Tương Tử đáp:
- Đúng thế, thiên hạ hiện nay trừ Ni Ma Tinh nhân huynh ra nào ai dám nhận chức ấy!
Ma Tinh có vẻ đắc ý lắm, bèn cất tiếng cười khá khá.
Tiểu Tương Tử cũng cười theo rất tương đắc.
Rừng núi lúc nầy nghe như lung linh, sập đổ trước hai giọng cười như gió thổi mưa sa đó.
Dương Qua nghe chát tai, liền cúi đầu lấy hai tay bụm chặt tai lại.
Lão lùn không cười nữa, hỏi:
- Tiểu Tương Tử! Gần đây nghe tin anh ở Tây Sơn, sao không ra tranh tài với Kim Luân?
Tiểu Tương Tử đáp:
- Mông Cổ Vương gia Hốt Tất Liệt có đem thư lại mời, nhưng lúc đó tiểu đệ còn đang luyện phép "Thọ mộc trường sanh" không thể bỏ đi được. Vì thế, đành chịu để ông ta xưng hùng xưng bá một mình.
Ni Ma Tinh hỏi:
- Hiện nay anh luyện xong rồi, sao không sang đó để tranh tài với ông ta? Hay anh cũng sợ hoà thượng Kim Luân là tay lợi hại mà không dám?
Tương Tử khiêm nhường nói:
- Đúng vậy, tiểu đệ tài hèn đâu dám tranh tài với hoà thượng Kim Luân.
Lão lùn nghe thích chí, nên ngửa mặt lên trời cười một hồi dài, rồi lão lại gằn giọng nói:
- Tiểu Tương Tử, anh có ý cho tôi là sợ hoà thượng Kim Luân đó hả? Như vậy tôi và anh ngay bây giờ thử sức xem sao? Để tôi coi công trình luyện tập "Thọ mộc trường sanh" của anh đã đến đâu rồi, có gì đáng kể không.
Tương Tử liền đáp:
- Muốn thử thì thử, ngại gì.
Tương Tử nói dứt câu, liền phả ra một làn khói đen nghịt bay về phía đối phương. Ni Ma Tinh không còn thấy gì nữa.
Tương Tử nhanh như chớp đẩy nắp quan tài, nhảy vào trong rồi dùng tay kéo nắp đậy kín lại, rồi dùng cả chiếc quan tài đánh vào Ni Ma Tinh.
Lão lùn thấy làn khói đen liền ngồi xuống. Con chim mèo bay lên kêu "chao cháo". Tức thì có những đàn đom đóm từ trong rừng tua tủa bay ra soi sáng, đánh tan luồng khói đen đi mất. Hai con cọp đen quật mạnh đuôi xuống đất rồi phóng mình về sau lưng lão lùn, đứng trụ bốn chân thủ thế.
Lão lùn mới ngồi xuống, đã thấy chiếc quan tài phóng mạnh đè lên đầu. Lão liền dùng thuật "Thích Ca xua voi" ngửa mình ra tung mạnh hai chân và hai tay lên một lượt. Chiếc quan tài bị sức cản của lão lùn quá mạnh, bay bổng lên cao, văng lùi lại hai trượng. Nhưng chiếc quan tài vẫn nguyên vẹn và vẫn tiếp tục phóng lại đánh vào người lão lùn. Cứ như thế, chiếc quan tài phóng qua phóng lại, không khác gì một người đánh trái banh đập vào tường thối ra dội lại.
Hai bên đang đấu nhau hăng hái như thế, bỗng không ai bảo ai, cả hai đều lui ra hơn hai trượng.
Lúc này hai con cọp đen và con chim mèo đều gầm gừ hét lên.
Thử tài đến đó, cả hai đều biết rõ bản lĩnh của nhau. Ni Ma Tinh cất tiếng nói:
- Tiểu Tương Tử tu luyện khá lắm đấy! Hơn ta nhiều lắm!
Tiểu Tương Tử cười khá khá, đáp:
- Tiểu đệ xin bái phục tài nghệ pháp thuật của sư huynh, mới thụ lãnh mấy đòn đã lĩnh hội được thuật huyền ảo tuyệt chúng.
Ni Ma Tinh bình tĩnh nói:
- Đây mới cho sư đệ thấy sơ qua thuật pháp "Thích Ca xua voi" đó, còn có nhiều đòn lạ hơn nữa kia.!
Tiểu Tương Tử luôn miệng khen:
- Nhân huynh qua bên nước của lão Ta Đạt Ma, hèn chi học được nhiều pháp thuật thần thông như vậy.
Ni Ma Tinh quay người, trong nháy mắt đã mất dạng. Hai con cọp đen cũng tung chân nhảy theo như tên bay.
Tiểu Tương Tử cũng chui vào quan tài, lịch kịch biến về phía Tây.
Dương Qua tình cờ, như một người mạo hiểm, được chứng kiến một màn kịch như ảo ảnh, quá quái gở rùng rợn như vậy. Vừa khiếp sợ vừa khâm phục, chàng phải yên lặng một hồi lâu mới hồi phục được tâm trí.
Dương Qua chờ cho hai người đi thật xa, chàng mới tự nhủ:
- Thật là thất phách hồn kinh! Bầu trời bao la, thiên hạ khắp nơi, đâu đâu cũng có những bậc vĩ nhân lạ thường. May phước nếu ta không nằm trên đây như vầy thì mạng ta cũng đi đời rồi.
Tất cả những ảo thuật kỳ quái kia bây giờ đang chen lẫn nhau, chờn quờn mãi trong đầu óc Dương Qua. Chàng cứ thao thức mãi không tài nào ngủ lại được nữa. Chàng lúc này đã hết phần lo sợ, suy nghĩ về võ công của hai kỳ nhân vừa rồi:
- Tuy hai người mới đấu sơ vài đòn, nhưng ta xem cũng được rành rẽ. Những đòn mà lão Ni Ma Tinh gọi là "Thích Ca xua voi" trong đó có cương lẫn nhu, gặp cứng rắn, to lớn thế nào xô cũng được, đến lúc gặp mềm mỏng có thể quấn được như dây. Nhưng không biết tại sao thân hình lão vừa lùn vừa nhỏ mà được một thần bí gì có thể chứa đựng được một nguồn nội công mạnh đến thế.
Còn như Tiểu Tương Tử luyện được thuật "Thọ mộc trường sanh" cũng thật là kỳ quái! Người gì mà lại chịu chui vào trong quan tài rồi dùng cái quan tài ấy để làm thành trì ẩn núp, đến khi giao đấu lại dùng làm khí giới. Thật là tự cổ chí kim chưa thấy ai có thuật kỳ lạ như vậy.
Nằm suy tư, nghĩ ngợi đã quá nửa đêm nhưng Dương Qua không tài nào ngủ được. Chàng cố nhắm mắt để quên bớt sự suy nghĩ. Bỗng nghe có tiếng ngựa hý vang lên, chàng đoán:
- Chắc lại có sự gì đây!
Con ngựa của Dương Qua là một ngựa khôn hết sức. Khi nó nghe hơi hai con cọp đen tiến đến, liền chạy sang khu rừng cách xa đó để tránh. Lúc nầy, khi hai cọp đã đi rồi, nó lại trở về tìm chủ.
Dương Qua thấy trời chưa sáng mà ngựa lại hý, chàng liền nhảy xuống xem có chuyện gì xảy ra. Chàng cúi xuống đất lượm cây đoản đao bỏ dưới gốc cây chiều hôm qua rồi lo vạch bụi rẽ cỏ một lúc mới thấy ngựa chạy lại. Bấy giờ trời đã tảng sáng.
Chàng liền lên ngựa đi về hướng Đông. Chưa đầy một dặm đường, chợt thấy xa xa về phía trước một người nhảy lên hái trái cây, chàng nghĩ:
- Trong rừng hoang núi vắng nầy, sao lại có người giờ nầy vô đây hái trái cây? Mình đến xem thử người đó là ai.
Khi đến gần, chàng thấy đó không phải là ai xa lạ mà chính là đệ tử của Kim Luân Pháp Vương là Đạt Nhĩ Ma đang hái táo. Đạt Nhĩ Ma mỗi lần nhảy lên chỉ hái được ba trái, nên hắn không nhảy nữa mà đưa tay quất ngang một cái, cây táo đứt làm hai, ngọn cành ngã xuống đất, Nhĩ Ma lo hái bỏ vào túi. Dương Qua thấy thế, thầm nghĩ có lẽ Kim Luân Pháp Vương ở gần đâu đây. Chàng nghĩ:
- Mình đối với Kim Luân Pháp Vương không có thù oán gì cả. Chỉ vì Hoàng Dung mà mình cãi vã với ông ta. Hiện nay mình đã biết được Hoàng Dung và Quách Tỉnh là kẻ giết cha mình, thì nay mình đâu có gây sự với ông ta để giúp Hoàng Dung nữa.
Chàng bước lại định làm quen với Đạt Nhĩ Ma. Nhưng lúc này Đạt Nhĩ Ma hái táo đã đầy túi, chạy như bay về hang núi ở phía Tây. Dương Qua thấy Đạt Nhĩ Ma cũng là tay võ công có hạng nên không dám chạy theo sát, sợ Nhĩ Ma tưởng mình khiêu khích. Chàng lẽo đẽo theo sau cầm chừng.
Chợt thấy Nhĩ Ma quay sang nẻo rừng rậm mà đường đi càng lúc càng cao như lên dốc. Dương Qua vẫn cố lòng rượt theo. Sau mãi đến ngọn núi cao nhất, trên đỉnh núi có một túp lều cỏ, bốn bề không phên vách. Trong lều Kim Luân Pháp Vương đang ngồi nhắm nghiền đôi mắt như một vị pháp sư tịnh niệm trên nệm cỏ.
Đạt Nhĩ Ma bày túi táo lên, niệm xong, xoay ra thì nhìn thấy Dương Qua đang leo dốc tiến đến. Nhĩ Ma tái mặt, lo sợ kẻ thù đến ám hại sư phụ mình.
Hắn gọi lớn:
- Đại sư huynh! Sư huynh cố đến đây để hại sư phụ tôi chăng?
Dương Qua trầm tĩnh tỏ ý cho Đạt Nhĩ Ma biết chàng đến đây để giao hảo chứ không gây sự.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 044
THỦY TIÊN U CỐC
Đạt-nhĩ-Ba vẫn không tin, nhảy xổ đến nắm lấy vạt áo Dương-Qua.
Võ công Đạt-nhĩ-Ba giỏi hơn Dương-Qua nhưng vì trong lúc sư-phụ hắn đang tại bệnh, nên hắn bối rối tinh thần thì Dương-Qua đã dùng một thế tầm thường gạt hắn sang một bên, té nhủi xuống đất.
Trước đây đã nhiều lần Đạt-nhĩ-Ba e ngại Dương-Qua, còn Dương-Qua thì đã rõ tài nghệ của đối phương nên vừa đánh xong một thế lại phải lui về một bước.
Chẳng biết lúc ấy do đâu hai đầu gối của Đạt-nhĩ-Ba run lên, hắn té sụm xuống đất, ngẩng mặt nhìn Dương-Qua nói với giọng nghẹn nghẹn:
- Xin đại sư-huynh hãy nghĩ đến ân nghĩa đối với sư phụ tôi. Nay sư-phụ tôi về đây dưỡng bệnh mà sư-phụ động thủ thì...
Chỉ nói đến, hai dòng lệ Đạt-nhĩ-Ba đã tuôn trào, rồi ngất nghẹn.
Dương-Qua tuy chưa hiểu Đạt-nhĩ-Ba muốn nói gì, nhưng nhìn qua vẻ mặt ảo não của hắn, và thấy sư-phụ hắn rũ rượi, đang ngồi tham thiền, thì biết ngay hoàn cảnh của hai người đang gặp lúc nguy biến, nên chàng vội cúi xuống, đưa tay đỡ Đạt-nhĩ-Ba dậy ôn tồn nói:
- Ta không làm hại sư-phụ ngươi đâu! Ngươi cứ an lòng.
Đạt-nhĩ-Ba nhìn thấy nét mặt ôn hòa của Dương-Qua lòng mừng khấp khởi. Mặc dù ngôn ngữ cách biệt, tâm hồn chưa được giao cảm cho mấy. Đạt-nhĩ-Ba cũng rõ Dương-Qua không có ác ý gì.
Giữa lúc đó Kim-luân Pháp-Vương hé mắt nhìn thấy Dương-Qua. Ông ta sợ hãi vô cùng. Vì nãy giờ, ông ta không hề hay biết gì việc Dương-Qua và Đạt-nhĩ-Ba. Giờ đây ông thấy kẻ thù tự nhiên xuất hiện trước mặt, làm sao ông khỏi bối rối.
Qua một tiếng thở dài não nuột, Kim-luân Pháp-Vương lẩm bẩm:
- Uổng công ta tập luyện bao năm, nay lại phải bỏ mình trên đất Trung-Nguyên nầy.
Thật vậy, Kim-luân Pháp-Vương vừa bị một hòn đá lớn đập vào mình, ngũ tạng đến thọ thương, phải ẩn trong chốn rừng sâu nầy để điều trị. Nếu Dương-Qua kẻ thù ông, tìm gặp, ông chỉ còn có cái chết mà thôi.
Lạ thay! Bây giờ ông ta lại thấy Dương-Qua với vẻ mặt hồn nhiên, đầy thiện cảm, bước đến trước mặt ông.
Trong lúc ông ta còn đang ngơ ngác, thì Dương-Qua đã cúi đầu nói:
- Kẻ hèn này đến đây không phải để trả thù, xin chớ "ngại".
Pháp-Vương bối rối, không hiểu gì cả nên lắc đầu lia lịa, mà trống ngực tim đập thình thịch.
Ông ta lập tức vận công lên năm đầu ngón tay để phòng gặp chuyện trắc trở.
Dương-Qua liền nắm lấy đầu ngón tay ông ta, bấm vào huyệt Dương! Đạt-nhĩ-Ba sợ quá, bước tới xô Dương-Qua lùi lại.
Dương-Qua quắc mắt, đưa tay trái gạt Đạt-nhĩ-Ba ra một bên, rồi nghiêm mặt bảo:
- Hãy đứng yên.
Đạt-nhĩ-Ba bị văng ra một bên, liền quay lại nhìn sư phụ, thấy nét mặt ông lại tươi hẳn lên, và trong miệng lại điểm một nụ cười, lòng chàng quá đỗi mừng, và cũng hết sức kinh ngạc như có phép mầu nhiệm huyền diệu gì!
Chàng Nhĩ-Ba đứng sững nhìn Dương-Qua vận nội công truyền khí lực của chàng vào Thông-linh-đài của thầy mình làm rung chuyển tám huyệt trong người của Kim-luân Pháp-Vương phục hồi chẳng mấy chốc, và vết thương trên ngực Kim-luân Pháp-Vương cũng khỏi hẳn, hai gò má của lão trở nên hồng hào khác thường.
Kim-Luân Pháp-Vương đôi mắt như van lơn, cảm tạ Dương-Qua, lão chắp tay nói:
- Cám ơn ngài đã đến đây giúp tôi.
Dương-Qua bình tĩnh đáp:
- Thưa ngài, đây là bổn phận của tôi phải đến tạ ngài. Vì trước kia tôi đã hiểu lầm Hoàng-Dung và Quách-Tỉnh là ân nhân của tôi, nên đã có nhiều lời oán trách ngài. Nhưng ngày nay tôi đã biết được Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung là kẻ đã giết cha tôi trước kia. Nên nay quyết đi tìm kẻ thù để báo cứu. Không ngờ lại gặp Đạt-nhĩ-Ba, tôi theo đến đây để giãi bày sự lầm lẫn trước đây.
Kim-luân Pháp-Vương chắp tay thưa:
- Tôi không ngờ tráng-sĩ lại mang oan nghiệt như vậy, nhưng tôi nhận thấy vợ chồng đại hiệp họ Quách võ nghệ rất cao siêu, nay Dương tráng sĩ muốn báo thù thì e cũng khó lắm.
Dương-Qua trầm ngâm một hồi lâu, rồi nói:
- Như thế thì hai đời họ nhà tôi, phải đành chịu chết dưới bàn tay họ Quách vậy.
Pháp-Vương buồn bã nói:
- Ban đầu tôi cứ ngờ mình là vô địch trong thiên hạ, nên muốn đem sức mình ra áp đảo quần hùng, tranh thủ địa vị trong đám võ hiệp. Chẳng ngờ sau trận ở Kinh-Sài-Quan tôi đã bị đám người võ nghệ ở đó kéo đến chừng bảy tám người, áp đảo quá mạnh, làm tôi phải chịu khuất phục.
Dương-Qua ân cần hỏi:
- Ngày nay có thể giúp tôi để báo thù cha được không?
Pháp-Vương nói:
- Hiện nay tôi vẫn còn muốn tranh hùng với bọn đại-hiệp võ nghệ Trung-Nguyên. Vậy tráng sĩ cứ chịu cùng tôi, tham dự cuộc tranh hùng sắp đến được không?
Dương-Qua định gật đầu nhận, nhưng liền nghĩ đến thảm cảnh quân Mông-cổ sẽ tàn sát dân tộc Trung-nguyên, nên đáp:
- Tôi không thể giúp quân Mông-cổ được.
Pháp-Vương lắc đầu nói:
- Như vậy là tráng sĩ định đương độc một mình để báo thù vợ chồng Quách-Tỉnh sao? Quả thật như thế là khó lắm.
Dương-Qua nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Tôi bằng lòng giúp ngài trong việc đoạt chức minh chủ, nhưng điều kiện là ngài phải giúp tôi báo thù cho cha tôi.
Kim-luân Pháp-Vương vui vẻ, ngửa bàn tay ra nói:
- Chúng ta là bậc trượng phu chỉ nói một lời, xin tráng sĩ cùng tôi đập bàn tay ăn thề.
Kim-luân Pháp-Vương và Dương-Qua đập bàn tay ba lần giao ước với nhau:
Dương-Qua nói tiếp:
- Tôi chỉ chịu giúp ngài trong ngôi minh chủ, nếu như sau này ngài giúp quân Mông-cổ tàn ác thì tôi bỏ lời giao ước nầy.
Kim-luân Pháp-Vương cười hô hô nói:
- Mỗi người đều có chí hướng riêng, không thể cưỡng ép nhau. Nhưng này Dương tráng sĩ ơi! ông bạn đã sống qua rất nhiều môn phái, mỗi môn phái đều có một nền võ tuyệt đỉnh. Thế mà ông bạn không chuyên một phái nào, võ công tạp nham như vậy, thử hỏi nếu muốn tranh hùng với vợ chồng Quách-Tỉnh, kẻ đã vang danh thiên hạ, ông bạn sẽ lấy đâu ra ngón sở trường để ứng đối.
Câu nói của Pháp-Vương làm cho Dương-Qua lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Chàng tuy có tính tham học, đã tập luyện được nhiều môn, trải qua nhiều phái võ, nào là Toàn-chân, Âu-dương-Phong, Ngọc-nữ Tâm-kinh, Cửu âm chân kinh, Hồng-thất-Công v.v... Nhưng xét cho kỹ thì môn phái nào chàng cũng chỉ mới nghiên cứu tạp nhạp, chưa luyện đến độ trác tuyệt. Vì vậy, nếu gặp phải đối thủ tầm thường, thì chàng có thể làm hoa mắt họ để thủ thắng; còn như gặp phải kẻ chân truyền, chàng rất lúng túng, không sao tránh nổi.
Dương-Qua thấy lời Kim-luân Pháp-Vương vừa nói chẳng khác nào như nhát búa đánh vào đầu, rung chuyển đến tim óc, khiến chàng tỉnh ngộ và tự nhủ:
- Võ công ta chẳng khác tâm hồn của ta, chỉ có bề rộng mà không có bề sâu, thay đổi tùy hoàn ảnh của thời gian. Ví như ta đã cùng ước hẹn với Trình Anh và Lục-vô-Song, yêu nhau suốt đời, thế mà đến lúc gặp Hoàng-nhan-Bình, cô gái mỹ miều kia, lòng ta cũng không khỏi xao xuyến.
Chàng buông một tiếng thở dài, đưa mắt nhìn phía trời xa, lẩm bẩm:
- Hoàng-dược-Sư, Âu-dương-Phong, Hồng-thất-Công sở dĩ họ nổi danh trên đời là vì họ chuyên chú rèn luyện theo một môn phái, nghiên cứu đến chỗ uyên thâm. Còn ta, chỉ vì quá ham muốn mà ta đã bao làm môn nầy chưa thông đã bước sang môn khác. Rốt cuộc, không món nào có căn bản! Ôi! Khổ thay! Ta đang học Ngọc-Nữ tâm kinh, thấy "Ngọc tiêu kiếm pháp" của Hoàng-dược-Sư và đả cẩu bổng của Hồng-thất-Công cho là tuyệt diệu, vội bỏ qua Ngọc-Nữ tâm-kinh không học nữa.
Càng nghĩ, gan ruột Dương-Qua càng nóng như lửa đốt.
Qua một lúc chàng tự nhủ:
- Ta phải tập hợp các sở trường của mọi môn phái để tạo ra một phái mới, riêng biệt của ta mới được.
Nghĩ như thế, Dương-Qua mừng khôn xiết. Đôi mắt sáng lên. Mới biết con người muốn sáng tạo sự nghiệp mới, lẽ tất nhiên không nên dựa vào nơi nầy, nơi khác để bắt chước được. Dù sao có giỏi cho lắm, suốt đời con người cũng chỉ ở vào hạng hai, hạng ba là cùng.
Hơn ba ngày trời, cứ từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, Dương-Qua chỉ gặp những chuyện khó nhọc không ăn không ngủ được. Nên lúc nầy chàng đuối sức, và tâm thần bấn loạn lên. Vì các phái võ lâm lần lượt thay phiên nhau xâm chiếm vào đầu óc chàng. Chân tay chàng tự động quay cuồng qua nhiều thứ võ, cứ như thế múa mãi như người điên.
Quá mệt mỏi lại thêm uất ức, nên chàng ngã vật xuống đất bắt tỉnh.
Đạt-nhĩ-Ba từ nãy giờ đứng đàng xa trông lại, thấy cử chỉ Dương-Qua điên điên khùng khùng lấy làm ngạc nhiên. Bây giờ thấy Dương-Qua còn ngã xuống đất, Nhĩ-Ba lại càng kinh hãi hơn, định chạy lại đỡ chàng dậy. Nhưng Kim-luân Pháp-Vương đưa tay cản Đạt-nhĩ-Ba lại nói:
- Con chớ hấp tấp làm loạn tâm của Dương tráng sĩ, để cho tráng sĩ nằm nghỉ cho khỏe.
Dương-Qua nằm thiêm thiếp đến nửa đêm mới tỉnh lại. Nhưng chàng tỉnh lại là vung tay chân, múa võ đến mệt rồi lại ngất xỉu xuống đất nằm thiếp đi. Cứ như thế mà chàng say, tỉnh hơn bảy ngày trời không ăn uống gì cả.
Trong lúc say mê, quyền võ của chàng càng thêm ác hiểm, nên một quả đấm vung ra như muốn xẻ đôi thân, một cái đá bung lên có thể bay một hòn đá lớn Đạt-nhĩ-Ba sợ quá không dám mon men lại gần.
Sang ngày thứ tám, thì quyền cước Dương-Qua đã yếu dần, nên quả đấm hôm trước như trời giáng, nay đụng vào thân cây cũng chả làm cho chiếc lá lay động.
Dương-Qua cảm thấy như tất cả võ công của chàng đã thuần chính rồi, tâm trí của chàng lúc nầy phân định được rõ ràng. Từ từ chàng ngồi thu hình lại, dụng vận hết tâm não, gân mạnh khiến cho cơ thể được hồi phục lại.
Dương-Qua ngồi dậy, nghe bụng đói như cào. Chàng nhớ lại đã hơn mười ngày rồi, chưa có ăn uống gì cả, nên định đi tìm món ăn cho đỡ dạ. Chợt nhìn thấy giỏ trái táo trên nệm cỏ, chàng vội bước lại ăn hết giỏ táo, mà Đạt-nhĩ-Ba đã hái về cho Kim-luân pháp-Vương.
Kim-luân Pháp-Vương mừng rỡ kêu lên:
- Dương tráng sĩ ơi! Tôi xin chúc mừng vũ học của tráng sĩ đã thành công.
Pháp-Vương vừa nói, vừa uốn cong mình như con rắn, rồi thở mạnh một luồng khí lạnh. Dương-Qua vội né mình sang một bên, vung tay gạt mạnh luồng khí lạnh bay tạt ra xa. Pháp-Vương lại phóng thêm một chưởng phong nữa. Dương-Qua lại dùng năm đầu ngón tay chận lại. Chưởng phong của Kim-luân Pháp-Vương gặp năm đầu ngón tay liền quấn lại. Dương-Qua thấy rõ tài nghệ của chàng lúc nầy đã khá hẳn rồi, nên hiểu rõ được Kim-luân Pháp-Vương muốn tỏ cho mình biết vết thương của ông đã lành... Chàng liền nói lớn:
Tôi rất mừng cho vết thương của ngài đã khỏi. Vì những người trong lòng có văn thơ thì hơi thở cũng thơm tho.
Dương-Qua từ lúc phát hiện ra võ phái mới, tuy vóc dáng của chàng còn trẻ, mà đã có vẻ am hiểu rất thấu đáo. Kim-luân Pháp-Vương ngắm nghía Dương-Qua thầm nghĩ:
- Mình được người nầy giúp sức thì hay biết mấy!
Lão nghĩ một lúc rồi nói:
- Dương tráng sĩ ơi! Tôi định dẫn tráng sĩ đến gặp một người tài đại lược, tâm trí cao thượng.
Dương-Qua liền hỏi:
- Thưa ngài, người đấy là ai?
Pháp-vương đáp:
- Người ấy là Vương-tử Hốt-tất-Liệt, cháu trai của Thành-cát Tư-Hãn, con của Hoàng thái-tử Đà-Lôi xứ Mông-cổ.
Dương-Qua từ ngày biết những hành động, tàn ác của quân Mông-cổ, mỗi khi nghe đâu tiếng Mông-cổ là ghét cay ghét đắng, nên chau mày nói:
- Tôi đang nóng lòng muốn báo thù cho cha tôi, nên việc Mông-cổ tôi thấy chưa cần thiết gì mấy.
Pháp-Vương cười nói:
- Tôi đã hứa giúp cho Dương tráng sĩ, thì đâu có dám thất tín. Nhưng hiềm vì Vương-tử Mông-Cổ mời đến không thể nào từ thác được. Vả lại binh tướng của Hốt-tất-Liệt không cách xa đây là mấy, chúng ta có thể cùng đi.
Dương-Qua không biết nói thế nào, để từ thác được, nên thầm nghĩ:
Đơn độc một mình khó mà đánh lại vợ chồng Quách-Tỉnh, chi bằng ta chiều lòng Kim-luân Pháp-Vương, rồi sẽ định liệu sau.
Pháp-Vương thấy Dương-Qua làm thinh, liền nói:
- Thôi bây giờ chúng mình cùng đi.
Kim-luân Pháp-Vương và Dương-Qua cùng băng đèo, vượt suối hơn nửa ngày trời đến Mông-Cổ.
Lúc đến doanh trại Mông-Cổ, quân cảnh vào bẩm với chủ tướng, hai người được mời vào.
Doanh trại Mông-Cổ là những túp lều tuy làm đơn giản, nhưng rất đẹp. Vua quân Mông-Cổ không thích ở cung điện, bởi vì họ đã quen với đời sống chinh chiến.
Dương-Qua thấy nơi ở của Hốt-tất-Liệt rất trang nghiêm, tuy với lối bày biện giản dị không xa hoa. Một vị Vương-tử tuổi trạc hai mươi lăm đang ngồi đọc sách, vừa thoáng thấy hai người, Hốt-tất-Liệt vội chạy ra đón chào niềm nở, mời vào trại.
Kim-luân Pháp-Vương chỉ vào Dương-Qua nói:
- Hôm nay tôi xin giới thiệu với vương tử một vị thiếu niên đại anh hùng, là Dương tráng-sĩ, một người tuổi trẻ lỗi lạc nhất trên đời.
Dương-Qua quá ngạc nhiên, từ trước tới giờ chàng vẫn đinh ninh dòng họ Thành-cát Tư-Hãn rất hung dữ. Không ngờ Hốt-tất-Liệt đứng trước mặt chàng, lại là một thư sinh giống người Hán, mà lại đọc sách chữ Hán. Thật kỳ lạ vô cùng.
Dương-Qua đang mải mê nghĩ ngợi, bị Hốt-tất-Liệt vỗ vào vai làm cho chàng giật mình. Vương-tử vui vẻ mời Dương-Qua uống rượu "mã nhủ". Miệng mời tay cầm một hồ rượu rót vào chén lớn.
Ngày thường Dương-Qua vốn không phải là người thích rượu. Nhưng lần nầy vào chốn vương-gia không lẽ từ chối cách nào được. Chàng nhìn qua thấy Kim-luân Pháp-vương đã uống cạn chén. Không thể ngần ngại gì nữa, chàng cung kính đỡ chén rượu trên tay Hốt-tất-Liệt, rồi uống một hơi. Rượu vào miệng chàng nghe cay sè cả cuống họng. Chưa bao giờ Dương-Qua gặp rượu nặng đến thế, nhưng chàng vãn cố giữ cho vẻ mặt tự nhiên.
Hốt-tất-Liệt cười hỏi:
- Rượu có ngon không, thưa tráng sĩ?
Dương-Qua đáp:
- Thưa Vương-tử, rượu ngon lắm, uống vào như dao cứa cổ, cay đắng lạ thường. Nhưng thế mới thật là rượu của nam tử, người con trai Hán-tộc ai cũng ưa dùng thứ rượu nặng.
Hốt-tất-Liệt quá sung sướng, gọi quân lính bưng thêm rượu ra. Phút chốc mỗi người đã uống tới năm chén lớn, Hốt-tất-Liệt quay sang Kim-luân Pháp-Vương nói:
- Quốc sư tìm được vị đại nhân nầy ở đâu thế? Thật là may mắn cho nước Mông-cổ lắm.
Kim-luân Pháp-Vương liền đem tình đầu câu chuyện, thuật lại cho vương-tử Mông-cổ nghe, và hết lời xưng tụng Dương-Qua.
Nếu như gặp người khác, thì chắc khó tin ngay lời của Kim-luân Pháp-Vương xưng tụng quá mức một người trẻ tuổi như Dương-Qua. Nhưng Hốt-tất-Liệt cũng là một thần đồng, trẻ mà tài trí cao xa xuất chúng, khí độ rộng rãi, nên không chút nghi ngờ lời của Pháp-Vương.
Hốt-tất-Liệt ra lịnh cho quân lính làm tiệc thiết đãi, và nói với Kim-luân Pháp-Vương:
- Đợi hội đây cho đông đủ, tôi sẽ giới thiệu với quốc-sư mấy vị cao nhân khác.
Hiện thời Hốt-tất-Liệt trở thành một vị vương tử Mông-cổ. Tuy nhiên đó là một việc khó khăn, trắc trở vô cùng. Vì Thành-cát Tư-Hãn lúc mang quân đi thôn tính các nước phía Tây, gặp cuộc chinh chiến quá gay go dằng dai cho nên Thành-cát Tư-Hãn luôn luôn vắng mặt ở triều đình, khiến cho triều đình xục rục giữa con trưởng và con thứ tranh nhau chức vị, đến nỗi họ mưu hại nhau. Lúc đó con thứ ba là Oa-khoát-Đài với con thứ tư là Đà-Lôi thì liên kết nhau.
Thành-cát Tư-Hãn lại ghét tính hung bạo của người con trưởng và người con thứ hai, nên trước khi chết, ông lưu lại chiếu phong cho Oa-khoát-Đài kế vị. Sở dĩ Oa-khoát-Đài được lên ngai vàng cũng là nhờ Đà-Lôi một phần lớn.
Năm Tân-Mão, Oa-khoát-Đài thân chinh đánh nước Kim, bỗng nhiên bị cấm khẩu. Đà-Lôi vì quá thương anh nên nguyện với trời Phật chịu chết thô. Khi đó có một vị pháp-sư đến cứu Oa-khoát-Đài, nhưng buộc phải có người trong anh em thế mạng mới được. Thái-Tử Đà-Lôi nghe cứu được anh nên mừng quá, nhận uống ly rượu độc do Pháp sư ban phép. Lạ thay Đà-Lôi uống xong ngã vật xuống chết, thì bệnh của Oa-khoát-Đài cũng khỏi.
Vì vậy Oa-khoát-Đài suốt đời cảm kính ân sâu của Đà-Lôi, đã chịu chết thay cho mình, nên đối với vợ con Đà-Lôi rất ân hậu. Đến lúc Oa-khoát-Đài chết đã di chiếu lập con của Đà-Lôi là Mông-Ca lên kế vị.
Khốn thay lúc đó, quyền hành lại rơi vào tay Hoàng-hậu. Bà nầy không nghe theo di chiếu của chồng, đã dùng mưu lung lạc một vị đại thần trong triều, gạt bỏ di chiếu tiên vương, tự mình lên chấp chánh bốn năm. Sau bốn năm truyền ngôi cho con bà là Quý-Do. Quý-Do lên ngôi chưa đầy một năm bị mất quyền hành lại trở về tay Hoàng-hậu.
Trong triều thần không chịu cho Hoàng-hậu giữ việc triều đình, vị họ nhớ đến công đức của Đà-Lôi. Nhờ mưu kế của Hốt-tất-Liệt, Mông-Ca được tôn lên vương-vị. Để trả ơn cho Hốt-tất-Liệt, Mông-Ca phong cho Hốt-tất-Liệt làm hoàng-thất-đệ, sau nầy sẽ được nối ngôi mình.
Như vậy, sau Mông-Ca thì đến quyền hành của Hốt-tất-Liệt. Hốt-tất-Liệt đã từng ở Trung-Nguyên lâu ngày, rất khâm phục nền văn minh Trung-Nguyên, nên đã thường cùng với đám nho-sĩ học hỏi đàm đạo thi thơ, lại luôn luôn tìm tòi các vị võ nghệ cao cường làm vây cánh, để xâm chiếm nhà Tống.
Yến tiệc bày ra, Hốt-tất-Liệt mời các quan khách an tọa, Hốt-tất-Liệt ngồi bên Dương-Qua. Uống lưng chén rượu, bỗng Hốt-tất-Liệt gọi lớn:
- Nào, xin mời các tiên sinh ở Chiêu-hiền ra mắt.
Rồi quay sang Dương-Qua nói nhỏ:
- Tôi được gặp mấy vị cao nhân tại Chiêu-Hiền, mấy vị hợop ý tôi lắm, tuy nhiên cũng ngại không vừa lòng quốc-sư và tráng-sĩ.
Vừa lúc, quân hầu vào bẩm:
- Thưa Vương-tử khách đã vào.
Tấm màn kéo lên, xuất hiện bốn người. Dương-Qua ngạc nhiên, khi nhìn thấy bốn người vừa bước vào.
Người thứ nhất thân thể như một xác chết khô.
Người thứ hai vừa lùn, vừa đen.
Hai người này không ai xa lạ, chính là Tiêu-tương-Tử và Ni-ma-Tinh mà Dương-Qua đã thấy ở Sơn-cốc-Trung, trong một đêm tối trời bữa nọ.
Người thứ ba thân cao chừng tám thước, tay to, chân lớn, hai mắt trắng đục như khu tộ.
Người thứ tư mũi cao, mắt sâu hoáy, râu vàng khè, dáng điệu người Hô, nhưng ăn mặc theo kiểu người Hán, cổ đeo hai viên ngọc sáng, tay có vòng chuỗi đá quý, trông không ra nam, mà cũng không ra nữ.
Hốt-tất-Liệt đưa tay mời bốn vị an tọa, rồi giới thiệu với tân khách. Người cao, lớn thuộc giống Hối-cương, tên là Mã-quang-Tổ, từ nhỏ đã có sức khỏe lạ thường, tay không vật chết voi, cọp như chơi. Lớn lên lại được tập võ nghệ.
Mã-quang-Tồ người to lớn, nhưng tay, chân quá thô kệch, nên võ nghệ không đến mức siêu đẳng. Tuy vậy, mà nhờ sức khỏe hơn người, nên chỉ thua bậc anh hùng siêu thế, chớ người nào võ tầm thường gặp phải Mã-quang-Tổ khó mà thoát chết.
Hốt-tất-Liệt chỉ vào người đeo ngọc sáng ở cổ, nói:
- Người này là vợ Hồ tên là Doãn khắc Tây, chuyên nghề buôn ngọc. Doãn-khắc-Tây từng giang hồ đi khắp nơi, nên học khá nhiều võ nghệ đặc biệt, được phái võ chân truyền ở xứ Ba-Tư thu dụng làm đồ đệ. Doãn-y-khắc-Tây sắp tu luyện "thành tài", nhưng nghe tin Hốt-tất-Liệt thu dụng hiền tài, không quản đường xa tìm đến ra mắt.
Ni-ma-Tinh và Tiểu-tương-Tử đến đưa mắt nhìn Dương-Qua, thấy chàng còn non trẻ nên có vẻ coi thường. Hai người chỉ chăm chú nhìn Kim-luân Pháp-Vương, thấy lão tỏ vẻ khinh thường không coi hai người vào đâu cả.
Rượu chừng vài ba tuần, Ni-ma-Tinh có tính nóng nảy, ngồi yên không chịu được nữa, liền đứng dậy thưa với Hốt-tất-Liệt:
- Kính vương-gia, nhà Đại-Mông quơ lưới quét hiền tài anh liệt. Chắc hẳn anh hùng tứ xứ qui tụ nơi đây cũng khá đông đảo.
Rồi lão lùn đưa tay chỉ vào Kim-luân Pháp-vương nói:
- Vị hòa thượng được vương-gia phong cho làm đệ nhất quốc sư, có lẽ tài nghệ phải siêu thế lắm! Anh em chúng tôi muốn cho hòa thượng chỉ dạy vài điều hay.
Hốt-tất-Liệt nghe Ni-ma-Tinh nói thế, chỉ mỉm cười làm thinh Tiểu-tương-Tử đứng dậy tiếp lời:
- Ni-ma-Tinh từ ngày ở Tây-Trúc về đây, nhưng nghề võ Tây-Tạng do Tây-Trúc truyền tới. Lẽ nào màu xanh lại có thể đậm hơn màu tím được.
Tiểu-tương-Tử dụng ý khiêu khích, để được xem một trận đấu thử thách giữa Kim-luân Pháp-vương với Ni-ma-Tinh. Tiểu-tương-Tử sẽ thủ vai ngư ông đắc lợi.
Kim-luân Pháp-Vương chú ý nhìn Tiểu-tương-Tử, thấy hai gò má có ánh xanh, thì biết ngay, Tương-Tử có sức nội công tu luyện cũng đã đến mức phi thường, Pháp-vương trông thấy ở đây, chỉ có Tương-Tử có dáng lợi hại hơn hết.
Pháp-vương tuy nghe lời khiêu khích, nhưng nét mặt vẫn bình thản. Bỗng trong bàn tiệc có tiếng cười ré lên. Mọi người chăm chú nhìn về phía tiếng cười, thì đúng là tên buôn ngọc.
Doãn-khắc-Tây vừa cười đắc ý, vừa nói:
- Chà làm tới quốc sư, chẳng qua cũng nhờ ân-sư vương-gia thôi! Chắc gì đã xứng đáng thế.
Rồi hắn ngoảnh mặt nhìn Ni-ma Tinh với vẻ khiêu khích.
Kim-luân Pháp-Vương vẫn bình thản, đưa đũa ra gắp một miếng thịt lớn giơ lên nói:
- Miếng thịt này lớn nhất ngư-phủ tôi không dám ăn, chỉ vì sự ngẫu nhiên gặp phải nó, nhà Phật gọi sự ngẫu nhiên ấy là pháp duyên. Vậy tôi xin nhường chư vị gắp lấy.
Trong bàn tiệc có Mã-quang-Tổ tâm địa còn khờ dại, nên không hiểu được ý định của Kim-luân Pháp-Vương. Chỉ thấy Pháp-Vương gắp miếng thịt dơ lên, tưởng là quốc sư tự nhận lão không đủ tài với chức quốc sư, nên tự ví mình như miếng thịt kia, nhường cho khách.
Mã-quang-Tổ liền đưa đũa ra tiếp, nào ngờ đầu đũa của Mã-quang-Tổ vừa chạm đũa Kim-Luân Pháp-Vương thì tay Quang-Tổ như bị điện giật tê cứng. Vì nội công của Kim-Luân Pháp-Vương truyền ra đũa, nhập vào mạch máu của Quang-Tổ tê điếng người. Quang-Tồ nhào xuống đất, mắt méo xẹo. Quan khách trong bữa tiệc, ai nấy đều kinh ngạc, luôn miệng trầm trồ:
- Quốc sư làm gì hay thế?
Mã-quan-Tổ ngượng quá, nói lớn:
- Đó chẳng qua là một yêu thuật! Vậy có dám cùng ta đấu võ chăng?
Hốt-tất-Liệt cả cười, la lớn:
- Mã-tráng-Sĩ, đừng nóng thế! Chúng ta muốn tranh hùng đâu có muộn gì? Để ăn xong tiệc rồi sẽ trổ tài có hay hơn không?
Mã-quang-Tổ nín thinh ngồi dậy.
Ni-ma-Tinh lúc nầy vẫn khinh thường Kim-Luân Pháp-Vương, bây giờ thấy quang cảnh trước mắt hết lòng lo nghĩ. Nhưng chẳng lẽ trước mắt chư anh hùng lại ép mình chịu nhục nhã thế nầy sao?
Ni-ma-Tinh vốn gốc người ở Tây-Trúc, nên ăn bốc, không ăn bằng đũa, thấy Mã-Quang-Tồ không giật nổi miếng thịt trong đôi đũa của Kim-Luân Pháp-Vương. Ni-ma-Tinh mái ôn tồn nói với Mã-quang-Tổ:
- Mã-huynh, hãy nhìn đệ lấy miếng thịt đó?
Vừa nói, vừa dùng năm đầu ngón tay cứng như năm thanh sắt, vụt ra chụp lấy miếng thịt.
Kim-Luân Pháp-Vương lanh như cắt, dùng hai ngón tay tách đôi chiếc đũa, chặn vào năm đầu ngón tay của Ni-ma-Tinh. Năm ngón tay của Ni-ma-Tinh bị đũa gài vào, ngồi chết khựng không cử động được.
Kim-Luân Pháp-Vương dùng nửa chiếc đũa để chặn đòn Ni-ma-Tinh, nên vận dụng được hai đầu đũa để giữ chặt miếng thịt lại. Ni-ma-Tinh cũng chẳng vừa, lão liền vận dụng hết nội lực vào năm đường gân ngón tay, gân nổi lên cồm cộp búng mảnh đũa ra ngoài. Thế là lão lùn gỡ được đũa gài, bớt sự thẹn mặt, nhưng vẫn ngồi yên không dám dành miếng thịt nữa.
Ngồi xem các anh-hùng hiệp khách đấu thuật với nhau, Dương-Qua từ lúc đầu đến giờ chỉ mỉm cười. Đột nhiên nghe có tiếng vọng vào!
- Quách-Tỉnh, Quách-Tỉnh ở trong đó mau ra đây!
Tiếng hô nghe từ hướng Đông dội đến. Nhưng thoáng qua lại nghe từ hướng Tây vang lại. Lạ thật! Đông và Tây cách xa nhau, ai đâu mà nhanh đến thế, chắc là có hai ba người gì đó? Nhưng giọng nói vẫn một giọng!
Trong lúc nầy cuộc dành thịt, tiếp tục giữa Kim-Luân Pháp-Vương với Tiểu-tương-Tử bắt đầu. Kẻ nửa cân người tám lạng. Rốt cục miếng thịt phân làm ba mảnh tung lên, Dương-Qua lanh mắt liền vung đũa ra kẹp lấy một mảnh. Cả ba người cùng nhìn nhau cười ngất. Mỗi người định đưa mảnh thịt phần mình lên miệng, thì thoáng một cái, một bóng đen xuất hiện và một người bay vèo ra, giơ tay thu cả ba miếng thịt cho vào miệng, nhai tóp tép, đưa mắt trừng trừng nhìn chung quanh như chẳng thèm coi ai ra gì hết.
Tất cả đều thất kinh, ngơ ngác nhìn nhau. Kim-luân Pháp-Vương, Dương-Qua và Tiểu-tương-Tử đâu phải tài nghệ tầm thường, thế mà miếng thịt bị giật mất một cách trắng trợn, không ai chống đỡ nổi. Người nào cũng lo định thần, nhìn theo bóng người ngang ngược là ai! Chỉ thấy một cụ già, râu tóc bạc phơ, hai má đỏ hồng, miệng tươi cười, đôi mắt sáng quắc, tuổi tác khó mà đoán được là bao nhiêu.
Bọn quân canh ồ ạt tứ phía chạy vào, vây quanh dùng gươm, giáo chĩa tua tủa vào ông lão, đồng thanh hô to:
- Tiến nhanh bắt người quái khách.
Cụ già ung dung khẽ đưa nhẹ hai ngón tay quét qua, hơn hai chục ngọn giáo văng vào một góc. Lũ quân canh nhào sắp lớp. Ngoảnh mặt nhìn về phía Dương-Qua cụ già gọi:
- Chú em! Hãy đưa thêm rượu thịt ra đây, bụng lão kiến đang bò nhiều quá.
Kim-luân Pháp-Vương, Ni-ma-Tinh, Tiểu-tương-Tử và Mã-Quang-Tổ liền liên kết nhau chống lại để trổ tài cho vui lòng Hốt-tất-Liệt.
Bốn vị Mông-cổ nhất tề xông lại áp đảo cụ già. Chống trả sự áp đảo của bốn vị dũng sĩ, cụ già đánh như dỡn cợt, mà bốn dũng sĩ mồ hôi đã ra nhễ nhại. Họ không thể tiến đến cụ già được nửa tấc.
Dương-Qua nghe lời cụ già đưa đĩa thịt lên mời. Lạ thay! Thịt trong đĩa cứ tự động bay tòn tọt vào miệng cụ già.
Kim-Luân Pháp-Vương thấy thế quá sức kinh ngạc, nên hết lòng thán phục sức nội công của khách lạ đã đến mức tuyệt diệu với lối vận công ra miệng tạo thành sức hút kỳ dị ấy.
Hốt-tất-Liệt đã từng dự nhiều cuộc chơi lạ thường, nhưng chưa bao giờ được thấy một quang cảnh lạ thường như thế! Vương-Tử cũng ngây người như gỗ, miệng luôn luôn tấm tắc khen ngợi:
- Thường thường người nào có nội công giỏi lắm, cũng phải thêm sức gió của bàn tay vụt qua mới thâu vật bày trên đĩa được. Đằng này lại không cần gì đến tay cả, mà tự nhiên các vật ở đĩa cứ lần lượt bay tuột vào miệng, thật chân nhán, kỳ tài trong thiên hạ chưa từng có.
Trong chúng anh hùng bắt đầu run sợ, cụ già vẫn khoan thai nuốt hết miếng này, đến miếng khác. Phút chốc trên bàn tiệc hết trơn thức ăn.
Ăn xong, cụ già nhảy vọt lên đứng sững trên bàn, đưa tay phải vẽ trên không trung một vòng cánh cung. Bàn tay vẽ nhanh và mạnh đến nỗi mọi người trông thấy cả vệt sáng. Thuật nầy gọi là "Thái cực hình". Bàn tay càng lúc, càng nhanh, càng mạnh, khiến cho chén đũa trên bàn bị sức hút nhổm lên, nối đuôi nhau bay vun vút. Trong nháy mắ trên bàn tiệc sạch trơn.
Tiêu-tương-Tử nhìn từ lúc đầu đến giờ mới hỏi:
- Dám hỏi tiền bối, như tiểu đệ không lầm ngài có phải là họ Châu không?
Cụ già cười khanh khách, nói:
- Đúng đó, ngươi cũng nhận ra ta ư?
Tiêu-tương-Tử chắp tay lạy chào:
- Thật không ngờ Lão Ngoan-Đồng Châu-bá-Thông tiền bối lại có mặt nơi đây!
Kim-Luân Pháp-Vương và Ni-ma-tinh biết rất ít về các cao thủ ở Trung-Nguyên, nhưng nghe lời Tiêu-Tương-Tử gọi lão Ngoan-Đồng so với tánh ương ngạnh ban nãy cũng hiểu rõ người rồi.
Thấy cụ già có quen biết với Tiêu-tương-Tử, nên ai nấy đều bỏ ý tưởng tỵ hiềm đổi bộ mặt ganh tỵ ra vẻ mừng vui thân ái.
Kim-luân Pháp-Vương đứng lên, khẩn khoản nói:
- Xin tiền bối lượng thứ lỗi vô lễ. Tiện đây, kính mời tiền-bối vui lòng dùng bữa cùng Vương-gia, mong hiền tài chấp thuận cho! Vương-tử trông thấy cao-nhân, chắc lòng hoan hỉ.
Hốt-tất-Liệt cũng đứng lên thi lễ.
- Thật may mắn trăm phần, xin tiền bối vui lòng dùng bữa cùng chúng tôi và nhờ tiền bối chỉ dạy cho tôi vài điều.
Châu-bá-Thông chỉ lắc đầu lia lịa, nói:
- Ta ăn đã đủ lắm rồi! Chẳng dám nài thêm. Nhưng Quách-Tỉnh người ấy có đây không?
Dương-Qua nghe nói đến Quách-Tỉnh, lòng rộn ràng không yên, liền hỏi:
- Hỏi Quách-Tỉnh có việc gì?
Châu-bá-Thông xưa nay rất quý mến đám thanh niên trẻ tuổi thấy Dương-Qua không cung kính gọi mình là lão tiền-bối, chỉ gọi trống không, thật lấy làm lạ. Ông ta đáp:
- Quách-Tỉnh là anh em kết nghĩa với ta. Chú em có biết hắn không? Tính hắn rất thích giao du với người Mông-cổ cho nên ta mới đến đây tìm.
Dương-Qua nhíu đôi mày, hỏi gạn:
- Nhưng hỏi Quách-Tỉnh để làm gì mới được chứ?
Châu-bá-Thông đâu biết được tâm sự của Dương-Qua, nên cứ bình tĩnh trả lời:
- Quách-Tỉnh gửi thư thăm ta mời đi dự anh hùng yến, nhưng cách xa hàng ngàn dặm. Đi dọc đường vì gặp nhiều chuyện cản trở, nên đến chậm trễ mất một ngày. Ta tới đó anh hùng yến đã giải tán, ta luôn tiện đến đây.
Dương-Qua nói:
- Vậy Quách-Tỉnh không để thư lại sao?
Nghe Dương-Qua tra vấn mãi, Châu-bá-Thông ngạc nhiên hỏi:
- Chú em! Tại sao chú cật vấn ta nhiều vậy? Chú em có biết Quách-Tỉnh không?
Dương-Qua hằn học trả lời:
- Sao tôi không biết? Có phải vợ Quách-Tỉnh là Hoàng-Dung không? Có phải con gái Quách-Tỉnh là Quách-Phù không?
Châu-bá-Thông đập hai tay vào nhau chan chát, cười khà khà nói:
- Sai rồi, lầm rồi! Hoàng-Dung là một con bé con, làm gì có con gái lớn.
Châu-bá-Thông nói làm cho Dương-Qua ngẩn người. Nhưng chàng cố bình tĩnh hỏi lại:
- Ông không gặp vợ chồng Quách-Tỉnh đã bao lâu rồi?
Châu-bá-Thông giơ tay ra tính lẩm nhẩm, rồi đáp:
- Ta cách vợ chồng hắn đến nay gần hai chục năm.
Dương-Qua cười khúc khích, nói:
- Không gặp đã hai chục năm, mà không tin Hoàng-Dung có thể có con gái. Thật đúng với cái tên Lão Ngoan-Đồng.
Châu-bá-Thông cười khà khà, nói:
- ừ, thì chú em đúng! Chú em đúng hơn ta! Nhưng lão muốn chú em kể thử đứa con gái đó như thế nào?
Dương-Qua nói:
- Đứa bé đó giống Hoàng-Dung nhiều hơn giống Quách-Tỉnh.
Châu-bá-Thông lại cười hô hố nói:
- Chú em định cho con gái hơi giống Quách-Tỉnh để nhát ai, với đôi lông mày đinh ngược, với hai gò má vừa đen vừa cao đó?
Dương-Qua thấy Châu-bá-Thông có ý tin nên nói tiếp:
- Tôi với cha ruột Hoàng-Dung, là Hoàng-dược-Sư chúa đảo Đào-Hoa là bạn thân với nhau.
Châu-bá-Thông nghe nói lạ lùng nghĩ thầm:
- Thằng nầy tuổi nó là bao nhiêu, mà nói là bạn Hoàng-dược-Sư.
Nghĩ thế ông liền hỏi:
- Như vậy sư phụ của chú là ai?
Dương-Qua đáp:
- Tên sư phụ tôi lớn lắm! Nói ra chỉ làm cho ông run sợ thôi!
Châu-bá-Thông quá giận, nói:
- Chú em đừng lo.
Dứt lời Châu-bá-Thông dừng tay trái quất mạnh vào cái bàn, cái bàn bay vút vào mặt Dương-Qua.
Dương-Qua không chút nao núng xòe năm ngón tay trái ra đỡ. Chỉ nghe tiếng răn rắc, cái bàn đã bể vụn ra từng mảnh rơi lã chã.
Châu-bá-Thông thấy người thiếu niên dùng võ công của phái Toàn-Chân, đỡ nổi đòn lợi hại, lòng rất thích thú.
Còn Kim-luân Pháp-Vương, Tiêu-tương-Tử, Mã-quang-Tồ người nào, người nấy ngồi nhìn sững sờ.
Thứ nhứt là Tiêu-tương-Tử và Ni-ma-tinh từ lúc đầu mới đến, thấy Dương-Qua, coi chàng không được nửa con mắt. Lúc nầy thấy cảnh ấy, lòng tự bảo:
- Cái bàn vụt mạnh như thế, chỉ có nước né, chứ ai nào dám đỡ, nếu như sơ ý một chút là bị gãy xương ngay; thế mà người trẻ tuổi này chỉ cần dùng năm ngón tay thôi! Chẳng hiểu ở nơi đâu lại sinh ra bậc kỳ nhân sơn như vậy?
Châu-bá-Thông lòng thầm khen ngợi, và đoán biết Dương-Qua đã tinh luyện được võ công của phái Toàn-Chân, bèn hỏi:
- Chú em quen với Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ chăng?
Dương-Qua nói:
- Hai tên hèn ấy quen làm gì?
Châu-bá-Thông lại càng thích! Sở dĩ Châu-bá-Thông thích ý là vì được gặp người tri kỷ, Bá-Thông đã từng làm đệ tử của phái Toàn-Chân, nhưng Bá-Thông là con người phóng đạt, không ưa giới luật câu nệ, nên không được trong môn phái mến chuộng.
Châu-bá-Thông bình tĩnh rất khâm phục Vương-trùng-Dương và Cửu-chỉ Thần-Cái Hồng-thất-Công, nên ghét lối câu nệ quá của Mã-Ngọc và Khưu-xứ-Cơ. Nay lại nghe Dương-Qua gọi Mã-ngọc và Xứ-Cơ là kẻ hèn thật là hiệp ý.
Châu-bá-Thông tiếp:
- Còn Xích-đại-Thông chú em nghĩ sao:
Dương-Qua nghe đến "Xích-đại-Thông" đôi mày dựng ngược tỏ vẻ giận dữ, nói:
- Thằng khốn ấy, có lần tôi đã cho nó bị khốn.
Châu-bá-Thông liền hỏi:
- Cho nó khốn khổ bằng cách nào?
Dương-Qua nói:
- Tôi đã trói chặt nó, rồi đạp vào cầu tiêu, nhốt mấy ngày đêm.
Châu-bá-Thông thở dài, nói:
- Ta là sư thúc của Xích-đại-Thông đó!
Trong cuộc nói chuyện với Châu-bá-Thông, Dương-Qua nẩy ra một ý nghĩ:
- Lão này võ nghệ cao kỳ lắm, dụ lão để cùng ta diệt vợ chồng Quách-Tỉnh, chắc không thể nào được: nhưng không dụ được thì lão sẽ giúp Quách-Tỉnh thêm một sự khó cho mình. Chi bằng ta lập mưu giết lão rảnh.
Dương-Qua bản tâm không phải con người gian ác, nhưng chàng quá nóng lòng báo thù cha, dù phải làm gì khó khăn, nguy hiểm đến đâu cũng không sờn lòng. Bởi vậy chàng quên nghĩ việc làm có độc ác hay không?
Còn Châu-bá-Thông đâu có biết tâm sự đau khổ, hận thù của Dương-Qua, đã phát hiện một ác ý như vậy? Nên Châu-bá-Thông vẫn thực thà hỏi:
- Bây giờ chú em có đi bắt thằng Xích-đại-Thông nữa không?
Dương-Qua hỏi lại:
- Nếu tôi đi ông có cùng đi với tôi không?
Châu-bá-Thông ngẫm nghĩ hồi lâu, nói:
- Ta có nhận được bức thư của Quách-Tỉnh, lưu lại ở Lục-gia-Trang, có lời dặn là quân Mông-Cổ sắp tràn xuống phía Nam để hạ thành Tương-Dương. Phần Quách sẽ xuất lãnh hào kiệt Trung-Nguyên để bảo vệ Tương-Dương, nên có lời mời ta giúp hắn. Nay đến đây tìm hắn không có, chắc bây giờ đến Tương-Dương sẽ gặp.
Hốt-tất-Liệt, Kim-luân Pháp-Vương nghe câu chuyện Châu-bá-Thông nói với Dương-Qua, nét mặt không vui. Hốt-tất-Liệt khẽ bảo Pháp-Vương:
- Lúc này họ tụ tập nhiều tay anh kiệt ở Trung-Nguyên bảo vệ Tương-Dương, thì làm sao hạ được thành ấy theo dự định hả quốc sư?
Giữa lúc mọi người đang suy tư định lại võ công, chợt thấy tấm da trước doanh trại tung ra, một vị hòa thượng hiến đến, vội vàng đi vào.
Hòa thượng trạc hơn bốn mươi tuổi, dung mạo nho nhã, thần sắc như một thư sinh. Hòa thượng đi thẳng đến trước mặt Hốt-tất-Liệt khẽ cúi chào, rồi ghé miệng sát vào tai Vương-tử nói nhỏ một hồi lâu.
Sự thật, hòa thượng vừa vào vốn là người Hán, pháp danh Tử Thông, chính là mưu sĩ của Hốt-tất-Liệt.
Tử-Thông lúc cha mẹ sinh ra đặt tên là Lưu-Khâm, khi còn nhỏ làm viên đại sứ tại một huyện, về sau mới xuất gia đi tu. Theo nhiều người ca tụng thì Tử-Thông hiểu biết rộng, sách nào cũng đã đọc qua, lại rất thâm thúy kinh dịch, có tài thiên văn, giỏi tướng số. Nói chuyện thiên hạ dễ dàng như đọc trên bàn tay, được Hốt-tất-Liệt yêu quý lắm.
Châu-bá-Thông thấy vị Hòa-Thượng đứng cạnh Hốt-tất-Liệt, che khuất Dương-Qua làm Bá-Thông nói chuyện không được với Dương-Qua, nên nói:
- Xin hòa thượng xích sang một bên, để cho lão nói chuyện với chú em. à còn chú tên là gì?
Dương-Qua nói:
- Tôi họ Dương tên Qua.
Bá-Thông vồn vã hỏi tiếp:
- Sư phụ của chú em là ai?
Dương-Qua bình tĩnh nói:
- Sư phụ của tôi là một người đàn bà đẹp tuyệt trần, võ nghệ huyền diệu vô song. Nhưng tên của người tôi không được phép nói cho ai rõ.
Châu-bá-Thông nghe đến người đàn bà đẹp, mồ hôi toát ra như tắm, hồi tưởng lại một người tình cũ là nàng Anh-Cô, Châu-bá-Thông đứng nín lặng hồi lâu, rồi phất tay áo một cái bụi cát bay tung, miệng cười khà khà, nói:
- Ta đi đây...
Hòa-thượng Tử-Thông lễ phép nói:
- Kính xin lão trượng hãy khoan bước. Tài nghệ lão trượng khiến anh em chúng tôi thán phục vô cùng, vậy tiện đây bần tăng kính dâng lão trượng một ly rượu.
Vừa nói Tử-Thông vừa nâng ly rượu cao khỏi đầu.
Châu-bá-Thông cười, nói:
- Tốt lắm, tốt lắm!
Miệng nói tay đốp lấy ly rượu uống tọt vào miệng. Tử-Thông liền nâng ly rượu nữa, nói:
- Đây là ly rượu của vương-gia.
Châu-bá-Thông cũng uống luôn. Tử-Thông toan rót ly khác, thì nghe Châu-bá-Thông kêu lên:
- á, á ta đau bụng, buồn tiểu tiện quá!
Kêu xong ngồi sụp xuống cởi quần "bịch" luôn ra trước mặt quan khách, khiến mọi người ngơ ngác. Châu-bá-Thông nói tiếp:
- Đau bụng quá! Chịu không nổi, chịu không nổi!
Dương-Qua đưa mắt nhìn Tử-Thông, chàng thấy cử chỉ và nét mặt nham hiểm của Tử-Thông, đoán biết trong rượu Tử-Thông có pha chất độc. Nhưng chàng thấy Châu-bá-Thông là người chất phác và đối với chàng rất có cảm tình, nên ý hại Châu-bá-Thông lúc này chàng không còn nữa. Và khi thấy Châu-bá-Thông bị trúng độc, lòng thương hại không nỡ để cho Châu-bá-Thông chết thảm thương, vô lý như thế.
Dương-Qua liền ghé miệng nói nhỏ vào tai Châu-bá-Thông:
- Hãy tóm lấy Hốt-tất-Liệt, buộc hắn phải bắt Tử-Thông mang ngay thuốc giải độc.
Châu-bá-Thông lắc đầu cười hô hố, nói:
- Không phải, tự rượu độc uống có ít quá, nên làm ta sinh đau bụng. Hòa thượng hãy rót nhiều nữa đi cho ta uống.
Cả mọi người lấy làm lạ ngơ ngác nhìn nhau. Còn Tử-Thông lo sợ Châu-bá-Thông trước khi chết sẽ tác uy mạnh, nên nghe Châu-bá-Thông gọi, mà không dám mon men bước đến.
Trông thấy Tử-Thông không rót rượu nữa, Châu-bá-Thông đứng bật dậy. Kim-luân Pháp-Vương sợ Bá-Thông hãm hại Hốt-tất-Liệt, nên phóng mình lại đỡ cho Vương-tử.
Nhưng không! Châu-bá-Thông chỉ vươn tay chợp cả vò rượu, mà Tử-Thông đặt ở góc bàn uống ừng ực. Một lúc vò rượu cạn khô.
Ai nấy đều thất-phách hồn kinh, mặt mày xám ngắt.
Châu-bá-Thông cười khà khà, nói:
- Trong bụng ta đã chứa nhiều chất độc, nên phải lấy độc khử độc. Nói xong ông ta há miệng thật lớn rượu từ trong bụng phụt mạnh ra miệng, thành luồng sáng sắc như hai lưỡi kiếm.
Châu-bá-Thông đã vận khí toàn thân, để đưa rượu ra thành một chưởng khí. Bá-Thông hướng rượu vào phía Tử-Thông. Tử- thông trúng luồng chưởng khí rượu té nhào xuống đất bất tỉnh, Kim-luân Pháp-Vương lẹ tay đưa chiếc bàn sắat che cho Tử-Thông. Luồng rượu làm cho chiếc bàn sắt thủng một lỗ như cái bát.
Châu-bá-Thông lại quay sang phía khác, luồng rượu đập mạnh vào cột gỗ giữa doanh trại. "Rầm" một cái, cột gãy ngang làm đôi, tiếp theo tiếng ào ào, răn rắc, cả tấm bạt da căng doanh trại ngã ầm xuống, úp đè lên đầu Hốt-tất-Liệt, Kim-luân Pháp-Vương cùng bao nhiêu anh hùng hiệp khách trong doanh trại.
Mọi người lại thất thanh, lính quýnh tìm chỗ thoát.
Châu-bá-Thông thấy cả bọn bò lổm ngổm, khoái chí cười hô hố, rồi nhảy lên trên doanh trại chạy đạp lung tung. Không ngờ Kim-luân Pháp-Vương dùng một ngọn cưới phóng lên làm Châu-bá-Thông sơ ý ngã nhào. Kim-luân Pháp-Vương liền cất tiếng cười khanh khách, kêu lớn:
- Thú quá! Thú quá!
Kim-luân Pháp-Vương đưa Hốt-tất-Liệt ra khỏi doanh trại. Hốt-tất-Liệt vẫy tay gọi hơn trăm lính hầu, dựng doanh trại lại để tiếp tục bày tiệc.
Mọi người quay nhìn tứ phía tìm kiếm Châu-bá-Thông, nhưng chỉ thấy bốn bề vắng lặng. Châu-bá-Thông đã cao bay xa chạy mất.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương, Tiêu-tương-Tử quá xấu hổ vì sự phòng vệ sơ sót của mình, nên đến trước mặt Hốt-tất-Liệt tạ tội.
Hốt-tất-Liệt vốn là người quảng đại, nên nét mặt chẳng lộ chút gì giận dữ, trái lại còn rất tán thưởng cái trò chơi quái gở của Châu-bá-Thông.
Vương-Tử vui vẻ, nói:
- Tôi rất tiếc là gặp được người hào kiệt tuyệt vời như Châu-bá-Thông, mà mình không đủ sức giữ người ấy ở bên cạnh, thật là uổng!
Sau đó tiệc rượu tiếp tục. Hốt-tất-Liệt đứng lên nghiêm nghị, nói:
- Đại quân Mông-Cổ đánh Tương-Dương nhiều lần, mà không thể hạ được thành chỉ vì đồn Tương-Dương là nơi tụ hội nhiều hào kiệt, anh tài, nay lại có thêm Châu-bá-Thông thì mong gì chiếm được. Chẳng biết chư vị ở đây có kế hoạch gì hay hơn không?
Ni-ma-Tinh quá nóng, không nghĩ ngợi hơn, kém gì cả, liền nói:
- Thưa Vương-tử. Châu-bá-Thông tuy võ nghệ giỏi nhưng bọn ở đây chưa chắc đã kém hắn. Vương-Tử cứ việc lo lệnh tấn công Tương-Dương, có gì là quân đổi quân, tướng đổi tướng, nếu Trung-Nguyên có lắm hiền tài thì Tây-vực ta thiếu chi hào kiệt?
Hốt-tất-Liệt khoan thai giảng giải:
- Lời Ni-ma-Tinh nói cũng đúng, nhưng từ xưa đến nay về chiến trận muốn thắng cần phải nhờ mưu lược. Mà muốn có mưu lược, trước nhất phải biết được địch tình. Nếu bên nào tính giỏi hơn là bên đó thắng.
Tử-Thông cung kính đứng dậy, nói:
- Vương-gia thật là một vị thánh minh.
Tử-Thông vừa dứt lời, thì bên ngoài có tiếng vọng vào:
- Ta đã bảo đừng đi, là đừng đi! Đồ vô dụng!
Mọi người nghe rõ tiếng Châu-bá-Thông, nhưng không hiểu được lý do gì, mà Châu-bá-Thông còn trở lại dùng lời ngạo nghễ.
Hốt-tất-Liệt hối hả, nói:
- Chư vị hãy mau đi tìm Châu-bá-Thông về đây cho ta.
Mọi người đều chạy ra ngoài tìm Châu-bá-Thông, nhìn khắp tứ phía chợt thấy Châu-bá-Thông từ nơi xa tít trên gò bằng phẳng hướng Đông, với bốn người lạ mặt.
Kim-luân Pháp-Vương gọi lớn:
- Chúng ta cùng đến đó.
Kim-luân Pháp-Vương, Ni-ma-Tinh, Tiêu-tương-Tử, Mã-quang-Tổ, và Y-khắc-Tây cùng chạy như bay về hướng bốn người lạ mặt và Châu-bá-Thông. Thấy bốn người kia đều mặc áo màu xanh rườm-rà, cổ lỗ. Trong đó có ba người nam, đội mũ cao lêu nghêu, một người giữa bụng thắt chiếc giải xanh bay phất phới trước gió. Cả bốn người trông rất hiền hậu, trông có vẻ thanh nhã. Một người trong bốn người nói:
- Chúng tôi không muốn làm khó dễ đâu chỉ vì tôn huynh đã đạp bể nồi linh đơn, bẻ gãy linh chi, xé nát đạo thư của thầy chúng tôi, nên chúng tôi muốn mời tôn huynh về cho thầy tôi rõ nếu không chúng tôi sẽ bị rầy la.
Châu-bá-Thông vỗ đùi, cười lớn:
- Mày là thằng quê mùa, xấc láo! Như vậy là mầy không may đã gặp phải tao.
Người kia bình tĩnh trả lời:
- Tôn huynh nhất định không theo chúng tôi sao?
Châu-bá-Thông lắc đầu lia lịa, la lớn:
- Lui ra kẻo toi mạng hết!
Người kia bỗng reo lên:
- A cho mau, chớ bọn họ đến kia rồi!
Chớp mắt, bốn người mặc áo xanh tung ra một cái lưới phủ trùm Châu-bá-Thông vào trong rồi gút lại. Châu-bá-Thông như cọp mắc bẫy, nằm cong queo trong lưới. Bốn người kia hai người khiêng Châu-bá-Thông, còn một nam một nữ theo sau. Họ chạy đi như bay.
Sự biến chuyển không thể nào lường được. Không ai ngờ tài nghệ như Châu-bá-Thông mà bị bắt một cách dễ dàng như thế.
Dương-Qua thấy Châu-bá-Thông vô cớ bị bắt, nên quá thương tâm liền vận lực để khí, tung mình lên cao đuổi theo bọn áo xanh, và gọi lớn:
- Các ngươi đem Châu-bá-Thông đi đâu?
Bọn Pháp-vương cũng nối theo Dương-Qua. Trong nháy mắt đã đuổi theo hơn hai chục dặm đến bờ một dòng suối lớn. Bốn người đưa Châu-bá-Thông xuống thuyền thả dây xuôi dòng. Tức khắc chiếc thuyền đã biết mất dạng.
Ni-ma-Tinh nhảy vọt lên ngọn cây để chạy theo bọn áo xanh. Còn năm người trong bọn, nhảy sang bờ suối về hướng Nam, đoạt một chiếc thuyền vô chủ xuôi theo lối của Ni-ma-Tinh chỉ.
Bốn người áo xanh cho thuyền vào một lạch nhỏ phía Tây. Con lạch nhỏ bị nhiều cây lớn sum sê che lấp mất, phải nhờ Ni-ma-Tinh đi trên đọt cây cao chỉ lối, bọn Dương-Qua mới khám phá được con rạch và gọi đồng bọn đuổi theo. Tất cả đều quay thuyền theo hướng Ni-ma-Tinh hướng dẫn. Chèo đi một khoảng xa thì đá hai bên lỏm chởm, khiến cho lối xuôi thuyền bị nghẹt lần lại. Bầu trời đối với họ chỉ còn là một vệt trắng như lưỡi kiếm.
Mã-quang-Tử kêu lên:
- Hỏng rồi, hỏng rồi! Hết lối chèo rồi!
Mọi người nhìn về hướng trước mũi thuyền, thấy chín mỏm đá trông tựa bức bình phong, đứng sừng sững chận hết lối qua lại.
Tiêu-Tương-Tử liền nói:
- Hoàn cảnh này phải nhờ Mã-quang-Tổ đem thuyền lên mới được.
Mã-quang-Tổ nói: - Tôi làm sao cho có đủ sức lực, mời đại-ca thử xem.
Kim-luân Pháp-Vương đang trầm tĩnh tìm kế đưa thuyền qua, miệng lẩm bẩm:
- Tấm bình phong cao, rộng như thế nầy, làm sao có thể đem thuyền qua được.
Dương-Qua thấy mọi người lo nghĩ, liền nói lớn:
- Quốc sư ơi! Chúng ta cùng họp sức nhấc thuyền qua.
Pháp-Vương mừng quá, nói lớn:
- Hay lắm! Tôi và Tráng-sĩ ở bên nầy, còn ở bên kia do bốn người mau cùng nâng lên!
Mọi người đồng tình đáp ứng lại lời của Pháp-Vương vang dội cả khu rừng. Mười hai cánh tay nâng bổng chiếc thuyền lên, lao qua chín tảng đá. Chỉ nghe tiếng véo thuyền bay lên không trung, cả sáu người đều dùng thuật khinh thân phi theo thuyền, rồi dịu dàng để thuyền xuống nước, như một chiếc lá rụng.
Sáu người ban đầu mới gặp nhau có nhiều điều khích bác tị hiềm nhau, nhưng bây giờ cùng chung sức làm một việc, tự nhiên họ có tình đoàn kết.
Tiêu-tương-Tử ngồi trước mũi thuyền, nói:
- Chuyện trước mặt chúng ta cần thiết nhất là tìm cứu cho được vị cao thủ Châu-bá-Thông mới là giỏi. Còn như hành động chúng ta trước đây không có gì đáng ngợi khen cả.
Ni-ma-Tinh tiếp lời:
- Lời Tiêu đại-ca nói đúng lắm, nếu đem so với bọn áo xanh ban nãy, chúng chỉ có bốn người lại còn đèo thêm một nhân mạng nữa, mà cũng làm nổi việc một cách dễ dàng. Còn chúng ta đến sáu người, nhưng theo không kịp chúng thì chưa đáng gọi là anh tài.
Nghe Ni-ma-Tinh nói mọi người đều lấy làm lạ, chỉ có bốn người mà có thể đem thuyền lại còn khiêng được Châu-bá-Thông nữa thì thật là một hành động kỳ lạ.
Ma-Tinh nói:
- Hay chúng nó ẩn núp đâu đây, chứ bọn nó có bốn người, trong đó lại có một cô gái mới mười bảy, mười tám tuổi, còn đèo thêm một mạng phải khiêng nữa thì tài nào đi mau như thế.
Pháp-Vương cười nói:
- Chớ nên nhìn bề ngoài mà đánh giá tài nghệ. Như Dương-Qua đây với số tuổi chừng ấy trên đầu, ai nhìn thấy bề ngoài có thể biết là kẻ siêu nhân. Nếu không có con mắt tinh đời như Kim-luân Pháp-Vương nầy, chắc khó lòng nhận thấy.
Dương-Qua khiêm tốn nói:
- Tiểu đệ chỉ là một kẻ hậu tiến không đáng kể. Xin chư vị hãy lưu ý đến bọn áo xanh đó, chúng đã bắt Châu-bá-Thông một cách rất dễ dàng, như thò tay lấy một vật trong túi!
Mọi người đã tán thưởng nghệ thuật của Dương-Qua, nhưng nghe chàng nói như vậy, lòng thắc mắc lo nghĩ lại càng tăng gấp bội.
Trong sáu người, chỉ có Dương-Qua là ít tuổi, nhưng tài nghệ được mọi người mến phục nhất.
Pháp-Vương, Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh đều là người ở Tây-vực Tiêu-tương-Tử thì chỉ lo luyện tập ở rừng sâu, nên chỉ có một mình Doãn-y-khắc-Tây là hiểu biết rõ các giang hồ, về tông tích lai lịch các võ phái Trung-nguyên. Thế mà Doãn-y-khắc-Tây chỉ vò đầu, không thể tìm ra người con gái trong bọn áo xanh là ai.
Cùng nhau chuyện trò chưa bao xa, thuyền đã đi được một quãng xa, lạch nước đã cùng đường, thuyền hết lối. Sáu người đi sâu tiến vào rừng, vượt qua những hố sâu, đèo cao, băng qua rừng lá rậm rạp. Bỗng trước mặt sáu người hiện ra một con đường hẹp chạy thẳng lên núi.
Cả bọn không chút ngần ngại, vận sức tiến nhanh. Càng đi lên càng thấy cao chót vót, cuối cùng ai nấy đều lạc lối, tựa hồ như ma đưa lối, quỉ dẫn đường cứ quanh co mãi.
Pháp-Vương vốn võ nghệ cao cường, nên cứ vững tâm, không tỏ vẻ sợ sệt. Chỉ có Mã-quang-Tổ võ công chưa đến mức chân truyền nên thở hồng hộc, loạng choạng, vấp ngã như người say rượu, nhờ có Ni-ma-Tinh dìu đi, mới khỏi lao đầu xuống vực thẳm.
Mã-quang-Tổ trong lòng quá thẹn. Gặp việc gian nan, nguy hiểm mới biết sức vóc mình chả thấm vào đâu.
Quanh quẩn một lúc, bóng chiều đã tắt. Màn đêm bắt đầu hiện xuống núi rừng, bọn áo xanh vẫn biệt tăm biệt dạng.
Mọi người đang lo ngại, thì chợt đàng xa có ánh lửa lập lòe làm cả bọn mừng rỡ, nghĩ thầm:
- Trong rừng sâu núi thảm thế này mà có người ở cũng lạ, nếu quả là bọn áo xanh thì chắc chúng là ma mị lắm đấy.
Kim-luân Pháp-Vương chăm chú nhìn về hướng ánh lửa, nói:
- Anh em, hãy vận khinh công tiến nhanh đến đó xem thế nào?
Trong chớp mắt họ đã bay đến bốn đống lửa. Mã-quang-Tổ vì đuối sức phải lểnh mểnh theo sau.
Lúc đến nơi, thấy một khoảng đất trồng. Trên đỉnh núi chỉ có bốn đống lửa đỏ rực, giữa mỗi đống lại có một ngôi nhà bằng đá.
Ni-ma-Tinh đã từng học đạo "Du già" ở Tây-Trúc nên thấy lửa không chút gì e sợ, liền vận sức phóng mạnh vào đống lửa, tông mạnh cánh cửa đá của tòa nhà phía Đông.
Cửa mở toang! bên trong vắng vẻ! Giữa nhà một thanh niên hai tay chắp lại, nét mặt đượm vẻ u buồn. Ni-ma-Tinh lấy làm lạ, không hiểu người nầy ngồi chịu cực hình gì đây, hay luyện nội công?
Ni-ma-Tinh bước lại nhìn kỹ, thấy những dây sắt quấn kín hai chân của người thanh niên chừng hai mươi lăm tuổi.
Ni-ma-Tinh lần lượt đi sang nhà thứ hai, thứ ba, thứ tư: người nào cũng đều có chung một cảnh tượng như vậy.
Duy có nhà thứ tư, người ngồi chịu cực hình lại là một cô gái chừng mười bảy mười tám tuổi. Đúng là bọn bắt Châu-bá-Thông. Nhưng Châu-bá-Thông hiện ở đâu?
Năm người trong bọn cùng nối gót theo Ni-ma-Tinh, đi luôn vào các gian nhà đá, nhưng không thấy Châu-bá-Thông. Họ chỉ thấy những thanh niên ngồi trong đống lửa đỏ hừng hực cháy, ai nấy đều tỏ vẻ thương hại, sợ những người thanh niên ấy cháy thành than.
Dương-Qua tính từ xưa nay, làm một việc không cần biết đến hậu quả. Nay lòng lại chất chứa mối tình sầu nên không dè dặt trong mỗi hành động nữa. Chàng đi qua nhà đá nhìn mặt ba gã thanh niên không tỏ vẻ gì thương hại. Nhưng đến nhà đá thứ tư, chàng thấy một thiếu nữ yêu kiều lộng lẫy, bỗng thở một hơi dài não ruột. Chàng phóng mình nhảy lên một cây cao gần đó bẻ mấy cành lá đập đống lửa đang cháy xung quanh thiếu nữ áo xanh. Giữa lúc đập túi bụi thì Mã-quang-Tổ vừa đến nơi, cũng lăng xăng giựt các cành lá đập giúp. Tức khắc đống lửa tắt ngóm.
Đập xong đống lửa thứ nhứt, Dương-Qua toan bước sang đập đống lửa khác, chợt nghe thiếu nữ lảnh lót nói:
- Xin quý khách hãy dừng tay, để chúng tôi khỏi bị trách phạt.
Dương-Qua nghe nói, ngạc nhiên nhìn. Chàng định cất tiếng hỏi lại, thì có một người nói vọng ra giọng sang sảng:
Động chúa ra lệnh cho các đệ tử biết nếu có viễn khách đến thì hình phạt ngưng, bốn trò hãy tiếp đón viễn khách cho ân cần.
Thiếu nữ áo xanh dịu dàng nói:
- Xin đa tạ động chúa.
Người kia truyền lệnh xong, liền tung mình lộn tròn như quả bóng, nhào qua các đống lửa, dùng chìa khóa mở trói cho bốn người áo xanh.
Dương-Qua định thần, nhìn thấy người này mặc áo màu xám khác với ba chàng áo xanh và cô thiếu nữ đang bị hành hạ.
Hình phạt được hoãn lại, bốn người áo xanh chắp tay chào khách, nói:
Chúng tôi xin mừng viễn khách, và mời viễn khách tạm ngồi nơi nệm cỏ nghỉ, vì trong nhà bị đốt lửa nóng không được vào.
Xin cứ an lòng, anh em chúng tôi thấy lửa nóng càng thích.
Ni-ma-Tinh miệng nói chân đi thẳng vào trong ngôi nhà đá nóng bỏng ấy, ngồi chễm trệ trên chiếc ghế đá tròn, nhìn ra các bạn đồng hành cười sằng sặc, tỏ ý thích chí lắm:
Tiêu-tương-Tử không chịu được cũng hô vài tiếng rồi bước thẳng vào nhà, Doãn-y-khắc-Tây cười nói:
- Xin các anh chớ lo đến tôi, đối với lửa tôi đã từng tự thiêu nhiều lần rồi.
Kim-luân Pháp-Vương thấy vậy sợ mất uy quyền quốc sư, nên cũng bay tọt vào.
Còn Mã-quang-Tổ lểnh mểnh vừa đến nơi, hơi nóng tạt ra cháy tóc khét nghẹt, đành ôm đầu lui ra, nói vài câu đỡ gượng:
- Ôi Mã-quang-Tồ này xin chịu thua quí huynh.
Nói xong, chàng tập tễnh trèo lên cây bẻ cành đậy lửa.
Dương-Qua vừa bước vào chợt nghe tiếng trêu cợt:
- Nếu quí khách có sợ nóng xin mời lên cây.
Nàng vừa nói vừa cười trong trẻo khiến cho Dương-Qua lính quýnh.
Từ lúc Dương-Qua đập tắt lửa, lòng thiếu nữ áo xanh đã thấy cảm mến Dương-Qua. Vì chàng đã tỏ lòng lo sợ cho nàng. Bây giờ thâm tâm nàng cũng sợ Dương-Qua bị nóng. Chẳng ngờ Dương-Qua không tỏ vẻ gì sợ sệt, bình tĩnh bước vào nhà, khiến nàng quá cảm phục.
Một người thanh niên trong bọn áo xanh nói:
- Chính tôi không dám đường đột hỏi quí tinh cao danh!
Doãn-y-khắc-Tây chưa nghe hết câu đã hấp tấp nói:
- Tôi chính là người Hồ nước Ba-Tư, tên là Doãn-y-khắc-Tây. Ngoài việc ăn chơi hàng ngày, chỉ còn biết nghề buôn ngọc quí. Còn về phần võ nghệ tôi không dám sánh với anh em tôi.
Người áo xanh đáp:
- Chúng tôi ở nơi hang sâu núi thẳm, hầu như xa cách hẳn với nhân thế, nên không có lúc nào được tiếp đón với bạn hữu đông vui như thế này. Chẳng hay quí khách đến đây có điều chỉ dạy bảo.
Doãn-y-khắc-Tây cười nói:
- Anh em chúng tôi đến đây với mục đích tìm lão Ngoan-Đồng Châu-bá-Thông, chẳng ngờ gặp nhiều chuyện kỳ quái thế này.
Hai người chủ khách say sưa chuyện trò, thì khí nóng trong tòa nhà mỗi lúc một tăng. Tiêu-tương-Tử, Ni-ma-Tinh, vì phải vận hết sức nội công để chống lại áp độ của nhiệt khí, đến nổi phải quỳ gối xuống.
Doãn-y-khắc-Tây lúc nầy thở hổn hển, miệng khô như đốt, đôi mắt nhắm lại. Trong lúc đó bọn áo xanh vẫn tươi cười vui vẻ như ngồi trong gió mát, và tiếp tục hỏi Doãn-y-khắc-Tây:
- Thế thì quý vị là kẻ cùng môn phái với lão sao?
Doãn-y-khắc-Tây mệt quá cố sức đáp lời nhưng không đáp được hết câu:
- Chúng... tôi... với...!
Tuy Kim-luân Pháp-Vương cố giữ được vẻ đĩnh đạc, nhưng thật ra đã quá sức mệt. Ông ta thầm trách Ni-ma-Tinh tài nghệ tu luyện chưa được đến bao nhiêu, mà phách lối đưa cả bọn vào thế khó xử.
Pháp-Vương bực quá đưa mắt nhìn Ni-ma-Tinh, té ra Ni-ma-Tinh đôi mắt đã nhắm nghiền, miệng thở phì phào.
Riêng Dương-Qua vì trước đây, đã nằm liền mấy năm trên Hàn-ngọc-Sàn, nên đã có phép điều tiết nóng lạnh trong khi gặp nóng đến mức nào, chàng cũng chẳng cần phải vận nội công, cho nên cả bọn đều mệt nhừ mà Dương-Qua vẫn như thường.
Người áo xanh nói:
- Lão ta quá lắm, đã đến tận đây phá phách.
Dương-Qua nói:
- Có phá phách gì nhiều không? Tôi nghe hình như tôn chủ đây trách ông ta đốt sách, đập bể cái gì đó?
Ngay từ lúc đầu thấy sự bình thản của Dương-Qua trong nóng bức, ai nấy đều khen ngợi, giờ lại thấy chàng nói rất thản nhiên âm thanh không hề bị xao động tí nào, nên mọi người càng khâm phục hơn.
Người áo xanh nói tiếp:
- Mấy hôm trước, lão ta đến đây giả điên giả cuồng, trêu chọc đủ điều, rồi lại đá bể nổi thuốc linh đơn của thầy chúng tôi.
Thiếu nữ áo xanh cũng xen vào:
- Không phải như thế thôi đâu! Lão nghịch đó còn đạp rụi mất hai cây lan thảo thần nữa chứ!
Dương-Qua lắc đầu có vẻ than phiền nói:
- Cái lão Ngoan-Đồng đó quấy phá! Lan thảo thần phải trồng mất đến bốn trăm năm mà lão nỡ đưa chân ra đạp rụi như thế!
Đoạn Dương-Qua nói sang chuyện khác:
- à! Thật chúng tôi quá sơ suất. Vào nhà người mà quên hỏi danh tánh chủ nhân. Vậy tiện đây xin cho biết đại danh của quí nương.
Thiếu nữ đôi má ửng hồng, ngập ngượng muốn đáp, nhưng một người áo xanh rước lời:
- Điều ấy rất khó lòng, vì chúng tôi chưa được thầy cho phép xưng danh. Mong quí khách tha thứ cho!
Dương-Qua ngẫm nghĩ:
- Bọn nầy là ai mà cố ý ẩn dật, không muốn xưng tên cho ai biết. Nếu như thế cũng không có gì lạ lắm.
Chàng liền hỏi:
- Vậy bây giờ thân phận của Châu-bá-Thông ra sao rồi?
Câu chuyện đang hỏi han, lễ nghĩa thì Doãn-y-khắc-Tây lại hét lên, rồi hổn hển chạy ra ngoài, vì hắn không thể chịu nổi sức nóng quá cao trong nhà đá ấy nữa.
Người áo xanh thứ ba vẫn tự nhiên, như không lưu ý đến tiếng hét của Khắc-Tây, chỉ theo dõi lời nói của Dương-Qua, rồi đáp:
- Châu-bá-Thông còn phải chịu thêm một tội lớn nữa là đã đốt nhiều sách quý trong động, làm cho sư phụ và các huynh trưởng chúng tôi quá giận đuổi theo đánh, nhưng lão đã cao bay xa chạy, trốn mất rồi, nên sư-phụ chúng tôi tức giận lão lắm!
Người áo xanh nói chưa dứt lời, đã nghe tiếng hét của Tiêu-tương-Tử. Tiêu-tương-Tử không chịu nổi nên phải chạy ra ngoài.
Dương-Qua tiếp lời người áo xanh nói:
- Châu-bá-Thông võ nghệ siêu quần, hành động cổ quái, khó mà bắt lão lắm!
Bọn áo xanh rất thích nói chuyện với Dương-Qua, vì chàng với bọn áo xanh như cùng một lứa tuổi, và chàng cũng chịu nóng như họ.
Trong lúc Dương-Qua và bọn áo xanh đang nói chuyện về Châu-bá-Thông, dùng tài thuật kỳ quái chống lại với động-chúa, thì Kim-luân Pháp-Vương bỗng gọi lớn:
- Dương tráng-sĩ mau mau ra khỏi nơi nầy. Nhiệt độ nầy sẽ làm hại đến sức khỏe không ít. Chớ nên ở lại nữa.
Nói xong, Pháp-Vương thu mình lại như cánh cung, vọt ra ngoài như một vệt khói.
Thiếu nữ thấy đồng bọn Dương-Qua lần lần thoát ra ngoài hết, nàng hơi e thẹn nói:
- Thưa tôn khách, các bạn của tôn khách đã ra ngoài hết cả. Xin tôn khách chớ lưu lại nơi nầy, hãy ra bóng mát nghỉ ngơi cho đỡ mệt.
Dương-Qua quá bối rối, cúi đầu đáp:
- Đa tạ cô nương.
Dương-Qua quay sang phía Ni-ma-Tinh gọi:
- Ni-ma-Tinh! Thôi chúng mình đi ra.
Ni-ma-Tinh từ lâu vẫn nhắm nghiền đôi mắt, tham thiền nhập định không còn nghe ai nói chi nữa. Dương-Qua thấy vậy bước lại vỗ vào vai, thì lão lùi đã ngã ngửa ra như pho tượng gỗ. Chàng thất kinh vội ôm xốc Ni-ma-Tinh lên.
Người áo xanh nói:
- Sức nóng đã làm ông lão choáng váng, hôn mê rồi. Vậy tôn khách hãy mang ra nơi có không khí mát mẻ, hòa diệu là lão tỉnh lại.
Dương-Qua bồng Ni-ma-Tinh, vận sức nhảy vọt ra khỏi tòa nhà quái dị đó.
Cả bọn áo xanh trông thấy đều tỏ lời thán phục Dương-Qua không ngớt.
Một người áo xanh nói:
- Bốn anh em mình ở đây chưa gặp người nào võ công như người nầy.
Một người áo xanh nữa nói tiếp:
- Nội công của Dương-Qua chắc không kém gì nội công của sư-mẫu chúng ta.
Dương-Qua nghe nói sư mẫu, liền hỏi lại:
- Sư-mẫu của chư vị là ai thế?
Ba người áo xanh thấy bọn mình lỡ lời nhắc đến chuyện kín, trố mắt nhìn nhau sợ hãi.
Tiếp đó cả bọn cố tìm cách nói sang chuyện khác để cho Dương-Qua quên mất hai tiếng sư mẫu. Một người áo xanh cung kính nói:
- Chắc quý khách từ phương xa đến chưa dùng bữa, vậy tiện đây mới chư vị sang phòng bên này dùng cơm thường với anh em chúng tôi.
Mã-quang-Tổ đang đói, nghe nói đến ăn uống lòng mừng khấp khởi, đôi mắt sáng lên.
- Quý chủ có lòng tốt đối với chúng tôi quá!
Ni-ma-Tinh ra ngoài gió mát tỉnh lại, bụng cảm thấy nhột nhạt, xốn xang như kiến bò. Chợt nghe bọn áo xanh mời ăn, vội đứng dậy tay đấm vào lưng thụi thụi, chân bước theo hướng chỉ của chủ nhân.
Nơi ăn cũng là một tòa nhà bằng đá, bên trong bày biện rất sơ sài. Trên bàn ăn toàn là một màu xanh, gồm đủ các thứ rau không có món xào, món mặn nào lộn vào.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 045
THIẾU NỮ ÁO XANH
Mã-quang-Tổ vào mâm cơm không có thịt, cá chi cả, mặt này buồn xo.
Người áo xanh thứ nhất nói:
- Chúng tôi ở đây chỉ ăn chay trường, nên không có trữ sẵn thịt, cá mong chư vị lượng tình.
Mã-quang-Tổ lẩm bẩm nói:
- Sợ lửa hay sao mà phải ăn rau sống như vậy? Nếu sợ lửa thì việc gì ban nãy lại đốt lửa dữ như thế.
Người áo xanh thứ hai mỉm cười nói nhỏ:
- Sở dĩ đốt lửa như vậy, chính là một cực hình để sư phụ phạt chúng tôi.
Người áo xanh thứ ba lễ phép mời:
- Xin chư vị dùng bữa!
Miệng nói tay cầm một chiếc bình rót vào chén mỗi vị khách. Mã-quang-Tổ tưởng rượu nhưng không thấy hơi rượu, lại càng chán ngán nghĩ bụng:
- Đã không cá, thịt bây giờ rượu cũng không hơi, chủ nhân gì mà hà tiện như vậy.
Người áo xanh thứ nhất thấy vẻ mặt của Mã-quang-Tổ lộ vẻ bất bình, nên nhỏ nhẹ hỏi:
- Thưa chư vị! ở đây chỉ dùng có thanh thủy, chớ tuyệt đối không được dùng rượu. Đó là phép tắc của tiên tổ từ mấy trăm năm về trước. Xin quý khách cảm phiền cho.
Thiếu nữ áo xanh nói tiếp:
- Anh em chúng tôi ở đây không bao giờ được nói đến tiếng rượu, chứ đừng nói đến việc uống rượu nữa. Vì rượu sẽ làm cho tính tình con người bấn loạn, sanh ra cuồng nhiệt không tốt.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương đều là những tay giang hồ, phóng đãng đã quen, nay thấy bọn áo xanh tuổi còn măng trẻ, mà miệng ít nở những nụ cười tự do, thái độ quá câu nệ, lễ độ quá cổ kính, nên ông ta cũng không dám nói nhiều.
Bữa cơm qua một lúc yên lặng. Món ăn toàn là hoa quả, rau dưa không được ngon miệng, nên cả bọn ăn qua loa cho rồi. Riêng Mã-quang-Tổ tuy chê thiếu thịt, rượu nhưng ăn hơn hai chục chén mà vẫn nghe chưa thấm vào đâu.
Ăn cơm xong, Mã-quang-Tổ ghé mồm nói nhỏ với đồng bọn:
- Chúng ta nên thừa lúc trời tối mát mẻ trở về nhà!
Nhưng năm người kia không đồng ý, vì người nào cũng muốn lưu lại để xem xét những bí mật trong động nầy.
Doãn-y-khắc-Tây nói:
- Mã-huynh ơi, lẽ nào chúng ta lại bỏ về thình lình quá như vầy đâu có được. Cần phải yết kiến động chúa đã.
Mã-quang-Tổ cằn nhằn:
Ăn không được bao nhiêu cơm, còn đói quá, có thịt rượu gì nữa mà ở nán lại.
Tiêu-tương-Tử nghiêm nghị nói với Quang-Tổ:
- Sao anh nhỏ mọn quá vậy? Anh không sợ người ta cười hay sao?
Quang-Tổ vì sợ cái "thây ma" của Tiêu-tương-Tử nên làm thinh.
Đêm khuya mọi người chưa gặp được chúa động, tất cả ra nằm trên phiến đá lớn lạnh buốt cả lưng. Nhìn cảnh đìu hiu cô tịch của núi rừng, ai cũng có ý lạ chẳng hiểu bọn nầy là ai, tuổi còn trẻ mà đã xa lánh nhân thế!
Ni-ma-Tinh cất tiếng hỏi:
- Kim-Luân tiên sinh! Ngài là người hiểu rộng biết xa, bây giờ ngài dạy chúng tôi thế nào, để đối phó với chủ bang. Theo ngài thì chúa động là người hiền hay ác? Ngày mai chúng ta gặp chúa động phải đối đãi thế nào? Thân thiện hay chống đối.
Kim-luân Pháp-Vương nói:
- Chưa thấy mặt người ta mà biết thế nào được? Ngày mai chúng mình sẽ tùy cơ ứng biến!
Doãn-y-khắc-Tây nói nhỏ:
- Bốn đứa học trò của hắn, mà đã giỏi giang như vậy, huống hồ là sư phụ. Vậy ngày mai chúng mình phải hết sức thận trọng đừng để mắc mưu bọn nầy, bỏ mạng nơi đây thì thật là uổng đời. Doãn-y-khắc-Tây bề ngoài tuy có vẻ sợ sệt, nhưng trong thâm tâm có nhiều mưu mẹo, rất chín chắn.
Mã-quang-Tổ thì đang mải tưởng tượng đến thịt, rượu, không muốn nói gì.
Dương-Qua nhìn nét mặt buồn rười rượi của Quang-Tổ, vỗ vai nói đùa:
- Này Mã-huynh! Ngày mai nên trổ hết tài lực đối phó với bọn chúng, chứ không để bọn chúng bắt nhốt chúng ta vào cho ăn lối nầy thì nguy lắm đấy!
Mã-quang-Tổ nghe nói đến chuyện bắt nhốt cho ăn rau muối thì thất kinh, nói cuống cuồng:
- Dạ dạ tôi nghe lời Dương-huynh!
Đêm đã khuya, nhưng mọi người ái ngại lo nghĩ khó ngủ được. Riêng có Mã-quang-Tổ vô tư, chỉ chốc lát đã ngáy như sấm rền.
Dương-Qua rón rén ngồi dậy, lặng lẽ đi ra ngoài vườn, đứng ngắm trời đất. Đêm khuya canh vắng, bốn bề mờ mịt, lá hoa trên cây tỏa ra một mùi thơm ngát, dưới vòm trời đầy sao.
Chàng mải mê, lững thững ngắm cảnh, nhìn theo những cánh hoa trắng phau bay tung theo luồng gió lạnh của đêm khuya, như cơn mưa nặng hạt, chợt thấy xa xa phía trước có một bóng người lả lướt đi tới.
Dương-Qua liền tiến đến thì thấy thiếu nữ áo xanh, đang hái hoa miệng hát nho nhỏ.
Gặp Dương-Qua thiếu nữ bẽn lẽn cúi chào:
- Quý khách không ngủ được ư? Có việc gì mà quí khách lo lắng?
Nàng nói xong có vẻ luống cuống bứt vội hai búp hoa đưa cho Dương-Qua để đỡ ngượng.
Dương-Qua đưa tay nâng hoa, lòng ngây ngất. Chàng bâng khuâng nói:
- Hoa ăn chắc ngon lắm phải không nương nương?
Nàng thẹn thùng nói trống:
- Dạ, ăn được.
Rồi nàng lặng lẽ, đưa mấy ngón tay búp măng uyển chuyển bẻ từng cánh hoa, đưa lên ăn. Mùi hoa làm dịu cả không gian.
Dương-Qua cũng bắt chước nàng đưa hoa lên miệng ăn ngon lành.
Mới đầu chàng nhai thì nghe ngọt dịu, sau dần nuốt vào thấy đắng đắng, chát chát. Nhưng trước mặt mỹ nhân, dầu có đắng chát thế nào cũng cố nuốt đi cho xong. Chàng chăm chú nhìn thì thấy đây là một thứ hoa rất lạ, cành đều có hoa nhọn hoắc, lá to hơn lá hồng, còn hoa thì tuyệt đẹp, đẹp hơn cả hoa hồng là chúa của loài hoa nữa.
Dương-Qua liền hỏi:
- Nương nương! Hoa nầy là hoa gì thế? Tôi chưa từng thấy bao giờ?
Cô gái mỉm cười đáp:
- Thưa quý khách đây là hoa "Tình hoa". Chốn nhân gian rất hiếm. Chẳng hay quí khách có ưa mùi vị nó không?
Dương-Qua đáp:
- Mới ăn thì ngọt, sau lại đắng.
Nói rồi chàng đưa tay ngắt một hoa thấy cây có gai, chàng hái cẩn thận. Nào ngờ không tránh khỏi, vì dưới cánh hoa lại còn có gai nhọn nữa. Chàng mới để tay vào thì một mũi nhọn đã đâm vào tay chàng rớm máu.
Thiếu nữ áo xanh nói:
- Tôi nghe thầy tôi thường nói: "Thứ "Tình hoa" này rất ưa máu người. Chắc mấy giọt máu của quí khách sẽ làm cho hoa nở thêm diễm kiều. Còn động này tục gọi là động "Tuyệt tình".
Dương-Qua cười nói:
- Là động "Tuyệt tình" mà ở đây lại có nhiều bông "tình hoa" kể cũng kỳ lạ, phải không nương nương!
Hai người mải mê trò chuyện, bước thong dong trên nệm cỏ vai sát vai lúc nào không hay.
Dương-Qua say sưa nói:
- Trong chốn u tịch này lại có cái động gọi là "Tuyệt tình cốc" nghe thoát tục quá nhỉ!
Thiếu nữ lắc đầu nói:
- Thưa tôn khách, tôi không hiểu tại sao lại gọi như thế. Chỉ có thầy tôi mới rõ lai lịch tên ấy.
Vườn hoa càng khuya càng tiết hương thơm ngào ngạt, cả bầu trời lung linh,
thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua, những đám cây xạc xào như những tiếng thì
thầm của đôi trai gái đang sánh vai bước nhẹ trong chốn"tuyệt tình".
Dương Qua miệng ko ngớt chuyện trò, nhưng đầu óc vẫn quay cuồng trong
mộng ảo.
-Đáng yêu lắm!Đáng yêu biết là bao! Nếu ta có ng yêu bên cạnh, cùng đi
với nhau tay trong tay, ta sẽ thề cho đến trăm năm đầu bạc ko rời nàng nữa.
Bỗng nhiên chàng cảm thấy dau nhói và buốt tới xương sống và bị cành gai
vừa chích. Chàng khẽ kêu:
-ối chao!
Rồi đưa tay lên miệng, cắn chặt lấy vết gai đâm.
Thiếu nữ áo xanh vẫn điềm nhiên cười duyên dáng nói:
-Tại tôn khách mơ tới ý trung nhân.
Dương Qua thấy nàng đoán đúng tâm sự của chàng, hai tai nóng bừng lên,
chàng nói:
-Làm sao cô nương biết?
Thiếu nữ phá lên cười sang sảng nói:
-Tôn khách ko biết đó? Phàn đã bị gai của "Tình hoa" châm vào thì tuyệt
đối cấm tương tư trong ba ngày. Nếu trong vòng ba ngày ấy mà nghĩ đến tình
nhân thì tay sẽ bị đau buốt ko chịu nỗi.
Dương Qua nghe nói lạ liền hỏi:
-Lại có thứ gai kỳ dị đến thế ư?
Thiếu nữ đáp:
-Thưa tôn khasck! Đúng như vậy! Thầy tôi có dạy"Tình Hoa" có gai độc thế!
Mới ăn thì ngọt dịu, nhưng sau đắng cay, toàn thân như bị gai châm đau buốt.
Dù với tình nào, dầu có đề phòng đến đâu đi nữa cũng khó lòng tránh khỏi
thương đau. Bởi vậy nên thứ hoa này mới đặt tên "tình hoa"
Dương Qua nói:
-Như thế tức tôi ko được nghĩ đến ng yêu của tôi trong ba ngày hay sao?
Khổ lòng tôi lắm! Tôi chịu thôi!..
Chàng nói một hơi dài, trong lúc thiếu nữ nhìn chàng với đôi mắt đen lay
láy. Mặt chàng ngơ ngác như ng mê mới tỉnh, hổ thẹn vì đã lỡ lời bày tỏ tâm
hồn mình trước ng đẹp. Thiếu nữ vẫn tự nhiên kể tiếp:
-Thầy tôi bảo gai của tình hoa độc lắm! Ai bị nó châm phải nén lòng đừng
nghĩ đến tình yêu, để cho tình thần được vô tư thì ko sao, bằng để dục vọng
nổi lên, là chất độc sẽ biến theo chất máu làm cho toàn thân nhức nhối. Dương
Qua nửa tin nửa ngờ. Phút chốc thái dương chói loà ánh bình minh rực rỡ.
Chàng nhìn lại cây tình hoa, thấy hoa đã kết thành quả, lòng rất ngạc nhiên.
Tại sao mới thấy trong chốc lát đã trở thành quả? Còn hoa thì đẹp thế kia,
bây giờ quả nó xấu xí như vậy. Màu xanh, màu đỏ, màu đen lẫn lộn, lại có lông
tua tủa. Dương Qua nói:
-Sao hoa đẹp đến thế kia mà quả xấu như thế? Chắc ăn ko được hả cô nương?
Thiếu nữ đáp:
-Thưa tôn khách, quả ko ăn được, vì nó vừa chua, vừa chát vừa hôi.
Dương Qua cười nói:
-Không có thứ quả nào ăn được hả cô nương?
Thiếu nữ áo xanh đáp:
-Cũng có quả rất ngọt, rất bùi, nhưng rất khó chọn, bở chúng ta chỉ trông
thấy bề ngoài của quả, nên ko biết được. Có nhiều quả ngoài đẹp nhưng ăn lại
đắng. Có quả xấu xí mà ăn lại ngon ngọt.
Dương Qua thầm nghĩ:
Loài hoa mà cũng hàm ý của đời! Trời ơi! Tình hoa mà cũng hàm chứa đủ mùi
như vậy! Mùi vị ái tình ban đầu thì trước ngọt sau cay, như hai kẻ yêu nhau
rồi khi xa cách cũng đau khổ biết chừng nào. Trời ơi! Ta cũng sẽ như tình
hoa? Hỡi những ng yêu của ta! Tương lai rồi đây sẽ ra sao?
Chàng thầm than thở như vậy, lại càng tưởng nhớ đến Tiểu long Nữ. Đột
nhiên ngón tay chàng nổi lên đau buốt đến xương, làm cho cánh tay như rồi rã.
Bây giờ chàng mới tin lời thiếu nữ áo xanh nói là đúng. Thiếu nữ nhìn thấy
mặt Dương Qua cảm thấy thương xót, nhoẻn một nụ cười an ủi! ánh nắng ban mai
chiếu lên gò má nàng đỏ hây hây. Đôi làn mi thanh nhã làm sao! Bao nhiêu nét
thanh nhã ấy cũng đủ gợi cho nàng một nhan sắc lộng lẫy. Dương Qua ngây ngất
nói:
-Ngày xưa vua U Vương đời Chu mất nước chỉ để đổi lấy một nụ cười của Bao
Tự. Nay được thấy nụ cười của cô nương thì bị đau khổ là phải.
Nàng nhìn chàn cố nhịn cười, nhưng tiếng cười vẫn thốt ra trên đôi môi đỏ
mọng như gieo vào cảnh núi rừng một tiếng ngọc thanh tao. Từ trước, Dương Qua
tưởng nàng lạnh nhạt với tình, cho nên chàng rất e dè. Nay thấy nàng cười nói
thân mật quá, khiến tâm tình ko ngăn cách nữa. Chàng mừng rỡ tiếp lời: -Người
đời cho nụ cười nghiêng nước nghiêng thành. Nhưng tôi cho rằng nụ cười của
nương nương còn khó kiếm hơn.
Thiếu nữ áo xanh nghe nói quá thẹn thùng. Nét mặt ngây thơ đôi mắt lay
láy như hai viên ngọc quý, nàng mỉm cười nói:
-Tôi khách nói nụ cười nghiêng nước nghiên thành là thế nào?
Dương Qua vui vẻ nói:
-Đó là nụ cười mà có thể làm cho ng say mê đắm đuối, quên cả sự nghiệp to
tát, chỉ mong được theo nuông chiều mỹ nhân.
Thiếu nữ nghe Dương Qua nói vui vẻ quá nên cười khúc khich mãi. Dương Qua
được trổ tài du thuyết.
-Cũng như tôi muốn được mỹ nhân thân mật trao đổi nụ cười tươi tắn thì
cũng hải quên mình chịu đau đớn vì thứ gai "tình hoa"
Thiếu nữ áo xanh thỏ thẻ:
-Thưa tôn khách, tôi đâu phải là một mỹ nhân, vì chưa một ai ở đây khen
tôi đẹp. Vậy tôi xin tôn khách đừng nhọc lòng nghĩ đến tiếng cười của tôi.
Dương Qua thở dài nói:
-Không hiểu ai đã đặt tên chốn này là động "Tuyệt tình".Theo ý tôi muốn
đặt tên khác mới phải.
Thiếu nữ nói: - Tôn khách muốn gọi động này là gì?
Dương Qua đáp: - Nên gọi là động "mù".
Thiếu nữ nhìn Dương Qua hỏi lớn: -Sao vậy?
Dương Qua bình tỉnh nói:
-Tại vì kẻ nào ko biết Tây thi đẹp đều coi là mù.. Cũng như ở đây ko ai
khen nương nương là đẹp, thì bọn ng ở đây đều mù mắt hết cả.
Thiếu nữ áo xanh cười dòn. Dung mạo nàng nếu đem so với Tiểu long Nữ thì
chưa bằng. So với vẻ ẻo lả của Trình Anh thì còn thua sút, so với kẻ sắc nước
hương trời như Lục vô Song thì chưa phải là đối thủ. Nhưng thiếu nữ áo xanh
có điểm đặc sắc là vẻ đẹp thoát tục với dáng điệu thanh lịch siêu phàm, nực
mùi tiên phong đạo cốt. Nàng lớn lên ở đây chưa hề được ai ca tụng đến nhan
sắc nàng mà chỉ có lời răn dạy phải tiết dục gần như kẻ tu hành. Cho nên
những ng sống chung với nàng ở đây cũng đều theo một giáo lý như những kẻ nhà
tu trong một tu viện. Họ chỉ nhìn nhau với vẻ tự nhiên, ko hề biết rung cảm.
Có đôi lúc lòng họ trở về trần tục nhưng họ cũng chẳng hé môi. Nay gặp Dương
Qua ca tụng đủ điều làm cho nàng thấy hứng thú quá! Con ng của Dương Qua vốn
là con ng linh nghiệm chốn nhân gian, gần gũi với tình đời, cho nên những lời
ca tụng của chàng rất thần tình. Chàng lại có một dáng điệu của một thiếu
niên phong nhã, khiến cho thiếu nữ áo xanh cảm thấy trong lòng hoan hỉ lạ
thường.
Dương Qua thấy nét mặt đoan trang nghiêm chỉnh của nàng, cũng muốn tìm
hiểu tâ lý, vì đâu đã xa cách với nhân thế!
Thiếu nữ nghiêm trang nói:
-Tôi chỉ sợ tôn khách mắt ko được sáng, trước ng xấu xí tưởng là mỷ nhân.
Dương Qua nói: - Tôi tin chắc ko lầm! Rồi đây cô nương sẽ thấy! Động này
tuy yên tĩnh, nhưng khi có nụ cười cô nương, thì trước sau cũng phải nổi
phong ba bão táp, cảnh yên lành ko thể tồn tại được nữa.
Đôi mắt ngọc tròn xoe, thiếu nữ tỏ vẻ lạnh lùng hỏi:
-Tại sao như vậy hả tôn khách?
Dương Qua bình tỉnh giảng giải:
-Xưa nay sắc đẹp đã làm nghiêng thành đổ nước, thì sắc đẹp của cô nương
cũng phải làm nghiêng ngửa động này chứ sao?
Thiếu nữ cười ngặt nghẹo nói:
-Xin đa tạ tôn khách đã quá khen! Tôi chẳng dám nghĩ đến đại hoạ như thế.
Dương Qua say sưa nhìn những nét uyển chuyển trên thân nàng! Chao ôi! sao
mà kiều diễm như thế. Chàng tưởng tượng kẻ nào chiếm được tấm thân ngà ngọc
ấy thì hạnh phúc biết chừng nào? Lòng chàng rào rạt tình yêu dâng lên!Tay
chàng bỗng đau buốt tận xương khiến chàng buột mồm kêu:
-ối chao! Đau quá.
Nghe tiếng kêu đau, nàng tỏ ý hờn giận nói:
-Tôn khách hình như ko muốn nói chuyện với tôi nữa là phải? Tôn khách
đang nghĩ mãi đến tâm tình cùng kẻ khác kia mà!
Dương Qua tỏ lời thanh minh:
-Oan uổng cho tôi quá cô nương ơi! Cái cơn đau vừa rồi chính là tại cô
nương đấy!
Thiếu nữ mặt ửng hồng, sung sướng chạy vút đi.
Dương Qua đứng một mình bâng khuâng ngơ ngác, chàng cảm thấy hối hận tự
trách:
Sao ta lại quên hẳn lời hứa với Tiểu long Nữ! à! thế ta phải cương quyết
xua đuổi sắc đẹp con bé này ra khỏi đầu óc ta mới được.
Kể ra Dương Qua ko phải bạc tình, lãnh đạm với ng yêu. Nhưng bẩm sinh
chàng đã mang sẵn dòng máu kinh bạt giang hồ của cha chàng, và di lưu tâm
tính đa tình, đa cảm của mẹ chàng, làm sao chàng có thể như Quách Tỉnh chất
phác si mê Hoàng Dung. Chàng là con người thích đi vào những cuộc phiêu lưu tình ái, để thoả mản lòng rung cảm và vơi bớt nỗi đau khổ của đời chàng.
Thiếu nữ áo xanh chạy vài chục bước bỗng dừng chân đứng tựa vào một tình
hoa, nét mặt ngây ngất nhìn lại phía Dương Qua nói:
-Tôn khách có muốn ta ko?
Dương Qua ko ngờ mình được dịp may như vậy nên vội vã chạy đến bên nàng
nói như van lơn:
-Xin cô nương tha cho! Tôi đã khổ lắm rồi!
Thiếu nữ ko hiểu gì, nói tiếp:
-Tôi xin một điều, tôn khách phải hứa ko được gọi tên tôi trước mọi ng,
và ko lọ tên tôi cho một ng thứ ba nào biết.
Dương Qua thấy hay hay gật đầu lia lịa nói:
-Tôi xin giữ theo lời dawajn của cô nương.
Thiếu nữ áo xanh nói:
-Cha tôi tức là sư phụ tôi, họ Công Tôn...
Rồi nàng kể loanh quanh mãi mà chưa nói đến tên nàng, Dương Qua sốt ruột
hỏi vặn:
-Vậy tên của nương nương là gì?
Thiếu nữ đáp:
-Tên tôi là Lục Ngạc.
Dương Qua thẩn thờ, bấc giác thầm khen:
-Tên với ng cùng đẹp ngang nhau.
Công tôn Lục Ngạc đã xưng danh nàng cho Dương Qua biết nên nàng e dè dặn
Dương Qua:
-Tôn khách đừng quên lời tôi dặn. Nếu cha tôi rõ được, thì tôi phải chịu
những hình phạt đớn đau nữa.
Dương Qua nói:
Tôi hiểu lắm! Công tôn Lục Ngạc ơi, tôi chưa từng thấy trên thế gian này
có ng nào như thân phụ của Lục Ngạc. Ai đã nỡ trừng phạt con gái thân yêu
bằng cách nướng sống trên lò lửa như thế.
Rồi mắt nàng bỗng dưng đẫm lệ ngập cả làn mi. Nàng thổn thức:
-Cha tôi xưa kia cũng nuông chiều tôi lắm. Nhưng từ ngày mẹ tôi mất, cha
tôi trở nên cực kỳ nghiêm khắc. Ko biết hôm nay cha tôi lấy vợ khác sẽ đối xử
với tôi như thế nào. Lòng tôi quả lo ngại sợ có những cực hình cay nghiệt hơn
nữa!
Dương Qua vỗ về an ủi:
Lục Nương đừng lo! Thân phụ lấy vợ sẽ vui lên mà nuông chiều Lục Nương
hơn trước chứ.
Nàng lắc đầu thở một hơi dài não ruột nói:
-Tôi thấy cha tôi còn hung dữ hơn khi chưa có vợ mới..
Dương Qua đã từng trãi cảnh côi cút, nên chàng rất thông cảm với ng bạn
gái bị đau khổ. Chàng muốn khơi thêm tâm sự với nàng:
- Tôi đoán chắc người mẹ mới của cô nương, không đẹp bằng một nửa vẻ đẹp của cô nương.
Nàng lắc đầu nói:
- Tôn khách lầm. Mẹ mới của tôi đẹp lắm! Và còn giỏi cả võ nghệ nữa. Hôm qua bắt được Châu-bá-Thông, nếu cha tôi và mẹ mới của tôi không mãi lo tranh tài cao thấp, thì chắc là Châu-bá-Thông không tài nào trốn thoát được.
Dương-Qua liền hỏi:
- Cuộc so tài ấy ai thắng?
Lục-Ngạc trả lời:
- Tất nhiên cha tôi phải thắng, nếu thua thì đời nào người ấy chịu làm mẹ mới của tôi được.
Ngưng một lát, nàng nói tiếp:
- Ngày mai là ngày lễ thành hôn của cha tôi với người đàn bà đẹp ấy, cho nên cha tôi muốn mời chư vị lưu lại để dự tiệc.
Hai người đang say mê đàm đạo thì mặt trời ngả sang trưa lúc nào không hay. Lục-Ngạc hoảng hốt nói:
- Xin tôn khách lui gót, để lỡ ai trông thấy về mách lại với cha tôi thì nguy hại lắm đấy!
Dương-Qua hiểu được tình cảnh đau khổ của nàng, lòng quá xót xa thương hại. Chàng đưa tay nắm chặt lấy tay nàng, như thầm hứa hẹn sẽ luôn luôn che chở.
Chưa vào đến cửa, Dương-Qua đã nghe tiếng Mã-quang-Tổ phàn nàn ngọt với đắng. Vào đến nơi chàng nhìn thấy trên bàn có bày mấy đĩa "Tình hoa". Người nào người nấy nét mặt buồn xo không muốn nói Dương-Qua niềm vui buồn lẫn lộn, chàng bước đến toàn đàm chuyện với Kim-luân Pháp-Vương. Đột nhiên, có người thanh niên áo xanh bước vào cung kính, nói:
- Thưa chư vị động chủ muốn gặp chư vị.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương đương là những vị tôn-sư của một phái, đi đến đâu cũng được đón rước trọng hậu, ngay cả đến Hốt-tất-Liệt là một vị Vương-tử mà đối với họ cũng rất kính nể. Còn lão chúa động ở nơi thuận sơn nầy, sao lại vô lễ thế. Cả bọn tỏ vẻ hậm hực bảo nhau:
- Chúng mình cứ đến xem mặt mũi hắn, rồi cho hắn một bài học đích đáng là hơn.
Sáu người lần lượt theo chân người áo xanh. Đi được vài chục bước thấy một khu trúc mọc xanh um, ai nấy đều chăm chú nhìn. Lúc đi khỏi khúc rừng trúc lạ nghe phưởng phất mùi hương cả trăm hoa ở đâu tỏa đến làm cho tất cả lâng lâng như thấy tâm hồn mình thoát tục. Rồi tiếp đến mấy chục mẫu đất toàn là hoa thủy tiên hiện ra trước mắt. Mọi người đều ngơ ngác nhìn cảnh vật vô cùng ngoạn mục.
Kim-luân Pháp-Vương luôn miệng khen:
- Thật như cảnh tiên! Hoa thủy tiên mọc dưới nước như thế nầy chưa từng có!
Muốn đi đến phòng chủ động phải vượt qua mấy cây trầm hương quí, thả trên mặt nước những người đi qua được phải là tay khinh công siêu-phàm mới khỏi gãy.
Sáu người đến đó đều phải để khi cho thân mình nhẹ. Duy có Mã-quang-Tổ kém tài nên bị ngã nhào xuống nước làm cho từng cụm hoa thủy tiền ngã nát.
Qua khỏi hố thủy tiên thấy sừng sững một tòa nhà đá. Ngoài cổng có hai chú tiểu đồng, mỗi chú trong tay cầm cây phất trần.
Trông thấy khách, một chú vội vã chạy vào, còn một chú mở cổng đón khách.
Dương-Qua thầm nghĩ:
- Chẳng hiểu chúa động bận việc chi mà không ra đón tiếp?
Lòng chàng có ý không vui. Đột nhiên có một tia chớp xanh hiện đến như một luồng khói, và trước mặt mọi người hiện ra một ông lão hình dung cổ quái. Ông ta cũng mặc áo xanh, nhưng màu xanh hơi thâm đen, thân hình cao chừng một thước ba, râu lại dài hơn ba thước. Thân hình lùn tịt như thế lại thêm khuôn mặt rất kỳ dị.
Hai gò má nhô lên, đôi mắt xếch ngược.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Con gái ông ta dung nhan đẹp đến thế mà chúa động lại cổ quái như vậy sao?
Ông lão cúi đầu chào sáu vị khách, nói:
- Quý khách giáng lâm, thật muôn vàn hân hạnh! Xin mời quý khách vào nhà đàm đạo.
Ni-ma-Tinh khoan khoái gặp được người lùn như mình, nói lẩm bẩm:
- Thật hạnh ngộ!
Nói rồi sấn đến cầm tay ông lão bước vào.
Thực tình Ni-ma-Tinh muốn thử tài ông lão nên vận gân cốt nội công nắm tay ông lão thật mạnh. Nếu người thường bị Ni-ma-Tinh vận "tam kinh" nắm lấy, chắc tay sẽ bị nát nghiền, nhưng lão ta vẫn như không.
Ni-ma-Tinh lại quá vận thêm "tam kinh" cộng là "lục kinh" mà tay lão ta vẫn trơ trơ như gỗ đá. Ni-ma-Tinh quá tức vận thêm tam kinh" cộng là "cửu kinh" chỉ thấy mặt lão có ánh xanh thoáng qua rồi tay lão vung cao như thanh sắt.
Ni-ma-Tinh toát mồ hôi, nhưng sức lực chỉ còn có một kinh lực. Ma Tinh không dám vận công thêm vì sợ đối phương đánh trả lại thì sẽ hết lực, và bị thương tới lục phủ ngũ tạng.
Hắn vôi đổi thái độ, cười ha hả rút tay về trông rất hiền hậu.
Việc thử sức nầy, những người bên ngoài, tưởng như không ai hơn kém. Nhưng với Ni-ma-Tinh thì nghĩ khác. Hắn không biết lão đó có ý nhượng bộ hay không đủ khả năng phản công.
Vì vậy hắn suy tính:
- Xưa nay ta chỉ dùng đến công "tam kinh" rờ đến tay địch thủ thì biết được sức lực đối thủ thế nào rồi.
Nay tay của chúa động không có phản ứng rõ rệt, nên khó lòng phân biệt được tài nghệ cao hay thấp.
Kim-luân Pháp-Vương rất tinh ý, biết ngay Ni-ma-Tinh thất bại nên Pháp-Vương không tiến lên thử sức với lão già đó.
Mã-quang-Tổ lầm lì đi sau đang tức bực, vì không được uống rượu, ăn thịt, chợt thấy râu chúa động kéo lê thê dưới đất, hắn rình rình bước tới dậm lên một cái.
Lão già vẫn dịu dàng quay lại nói:
- Xin quý khách lưu ý.
Mã-quang-Tổ giả vờ không biết, hỏi:
- Ông bảo sao?
Ông lão làm thinh lắc đầu một cái, sợi râu ở dưới chân Mã-quang-Tổ bị giật mạnh khiến Quang-Tổ té lộn ngược ra sau.
Dương-Qua thấy Mã-quang-Tổ bị té ngược liền tung ra một chưởng đỡ vào lưng Quang-Tổ. Nếu Dương-Qua không đỡ kịp thì Quang-Tổ đã ngã xuống vỡ sọ rồi!
Lão già vẫn điềm nhiên như không có việc gì xảy ra, hướng vào trong nói lớn:
- Quý khách đã đến, kính mời động chúa ra tiếp khách.
Dương-Qua lấy làm lạ thầm nghĩ:
- Ta đã tưởng lầm rồi! Lão lùn nầy không phải là chúa động.
Tiếng mời vừa dứt, từ bên trong hơn hai mươi nam nữ áo xanh kéo ra đứng sắp thành hàng hai. Chỉ phút chốc sau bình phong rung động, một người oai nghi bước ra vui vẻ nói:
- Mời quý vịi an tọa.
Dương-Qua trông lên, thấy chúa động trạc độ bốn mươi tuổi, mặt hào hoa tuấn nhã. Chàng thầm nói:
- Hai mươi năm về trước với dong mạo ấy người nầy đã làm tan nát bao nhiêu con tim của thiếu nữ. Tuy bây giờ tuổi cao tác lớn song nét hào hoa vẫn chưa phai.
Chúa động ngó xuống! mười cặp nam nữ áo xanh, người nào việc ấy dâng trà lên mời khách.
Chúa động cũng mặc áo xanh, nhưng màu xanh loang loáng làm cho mắt người trông vào phải bị lòa đi.
Mã-quang-Tổ nhìn chén trà, thấy không có hơi nóng bốc lên liền đưa tay sờ vào chén. Nước lạnh như băng! Trên mặt chén nổi lều phều vài bông trà. Hắn buột miệng nói:
- Thưa chủ nhân! Thịt không ăn, rượu không uống, lại thêm trà nguội, như thế tài nào chủ nhân nét mặt không đượm màu bệnh khí?
Chúa động điềm nhiên nói:
- Trà nầy uống không cần đến lửa.
Mã-quang-Tổ cười, hỏi:
- Vậy trà nầy là nước trường sinh à?
Chúa động đáp:
- Tổ tông tôi đến đây từ đời Đường-huyền-Tôn tính đến nay đã mấy trăn năm, lề lối đã thành tục lệ con cháu không dám bỏ.
Kim-luân Pháp-Vương đứng lên, nói:
- Thưa chủ nhân. Đến bây giờ chúng tôi mới được biết thể phủ thiên cư vào đây đã nhiều lời. Nhưng phong thái vẫn như xưa, thật là thế trạch miên trường.
Chúa động nói:
- Đa tạ quý khách! Chúng tôi đâu dám nghĩ thế!
Tiêu-tương-Tử xen vào nói:
- Tổ tông chủ nhân đã nhìn thấy Dương quý-phi chưa?
Mọi người đều kinh ngạc nhìn Tiêu-tương-Tử. Không phải vì lời nói buồn cười mà vì tiếng nói của Tiêu-tương-Tử có vẻ khác thường! Lạ thay cả mặt mày Tiêu-tương-Tử biến đổi. Tiêu-tương-Tử dung mạo vốn đã như một xác chết, bây giờ lại còn hơn một bóng ma rõ rệt.
Chúa động từ tốn nói:
- Tổ tông tôi, trước làm quan dưới triều vua Đường-huyền-Tôn. Vì lúc đế Vương-quốc-Trung bị khốn loạn nơi triều đình nên phải mang toàn gia đi ẩn náo.
Tiêu-tương-Tử phá lên cười:
- Thế thì tổ tông ông chắc đã được hưởng biết bao nhiêu của phi nghĩa Dương-quý-Phi?
Mọi người đều thất sắc trước câu nói của Tiêu-tương-Tử. Vì câu nói ấy khác nào như một chiến thư, mà ai nấy đều phải đề phòng.
Pháp-Vương cau mày lo nghĩ:
- Quái thật! Tiêu-tương-Tử xưa nay vẫn là người am hiểu, sao hôm nay hắn lại ngạo nghễ đến thế!
Tuy vậy, chúa động thanh sắc vẫn điềm tĩnh, chỉ khẽ đưa mắt nhìn lão lùn râu dài. Lão râu dài liền quắc mắt nhìn Tiêu-tương-Tử, rồi nói lớn:
- Chúa chúng tôi đãi khách kính trọng, xin người đừng ăn nói hồ đồ.
Tiêu-tương-Tử liền cười hô hố, nói:
- Ta tin chắc là tổ tông ông đã được hưởng nhiều của phi nghĩa của Dương-quý-Phi!
Tiêu-tương-Tử càng nói dáng điệu lại càng kiêu hãnh hơn nữa. Giọng nói hắn oang oang lên:
- Hà hà. Đã được hưởng của phi nghĩa của Dương-quý-Phi mới ăn năn hối hận không dám ăn thịt chứ gì?
Kim-luân Pháp-Vương quá áy náy, nên quay lại nói nhỏ với Tiêu-tương-Tử:
- Sao Tiêu-huynh nói vậy? Ăn uống là theo thói quen.
Lão lùn râu dài không nhịn được liền nhảy lên bực đá, nói lớn:
- Tiêu-tương-Tử! Hãy cùng ta quyết đấu.
- Tương-Tử cười, nói:
- A ha! Tốt lắm! Nhưng lão đã biết tánh danh ta, vậy hãy xưng danh cho rõ thì cuộc đấu mới công bằng.
Lão lùn râu dài quá giận, nhưng thấy Tiêu-tương-Tử không phải hạng thường, liền quay nhìn chúa động.
Chúa động bảo:
- Ngươi hãy xưng danh cho Tiêu-tương-Tử rõ.
Lão lùn râu dài nói:
- Ngươi hãy nghe ta xưng danh, tên ta là Phàn-Nhất-Ông.
Tiêu-tương-Tử liền hỏi:
- Ngươi dùng binh khí chi? Mang ra đây ta xem.
Phàn-nhất-Ông nói:
- Ngươi muốn đấu bằng binh khí hả? Điều đó đâu có khó gì?
Rồi Phàn-nhất-Ông hô lớn:
- Chưa hầu hãy mang binh khí ra đây.
Phút chốc thấy mươi thanh niên áo xanh lễ mễ khiêng ra ngọn bổng. Phàn-nhất-Ông chỉ vào ngọn bổng nói:
- Ta dùng binh khí kêu là "Long đầu cương trượng"
Dương-Qua nhìn cây trượng thấy dài gấp ba lần người Phàn-nhất-Ông, ngạc nhiên thầm nói:
- Ông lão lùn chừng ấy làm sao sử dụng cây trượng dài gấp ba thân mình?
Tiêu-tương-Tử đưa tay vào túi rút ra một cái kéo lớn, nói:
Mọi người thấy Tiêu-tương-Tử rút kéo ra đều kinh hãi lo sợ cho Tương-Tử.
Dương-Qua lại ngạc nhiên hơn. Chàng đưa tay sờ vào túi, cái kéo đã mất, mới biết cái kéo của chàng đã về tay Tiêu-tương-Tử lúc nào rồi. Nguyên nhân đó là do Phùng-mặc-Phong rèn cho Dương-Qua, dùng để lấy chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu. Nhưng Tiêu-tương-Tử đánh cắp của chàng trong đêm vừa rồi.
Tiêu-tương-Tử vận công sử dụng cái kéo, tiếng sèn sẹt vang lên chát chúa.
Tương-Tử quát lớn:
- Tên lùn râu dài kia! Ngươi chắc chưa biết tên vũ khí của ta, đây cho người rõ đây?
Phàn-Nhất-Ông bĩu môi, nói:
- Binh khí ư? Binh khí của bọn tà đạo nhà người làm gì có tên cao nhã.
Tiêu-tương-Tử cười hô hố nói:
- Ngươi đoán đúng lắm! Vì tên của nó là "cẩu mạo tiêu".
Dương-Qua nghe Tương-Tử tự đặt tên cho cái kéo của mình, mỉm cười không nói.
Tiêu-tương-Tử nói tiếp:
- Ta biết ở đây có quái vật râu dài, nên ta mới mang kéo đến để xén bộ râu dài đó.
Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh và Doãn-khắc-Tây bụm miệng cười sằng sặc.
Riêng Kim-luân Pháp-Vương với chúa động vẫn nghiêm trang ngồi nhìn như chẳng để ý lời cãi vã gì.
Phàn-nhất-Ông cử "Long đầu cương trượng" lên quay tròn vù vù, và quát mắng Tương-Tử:
- Râu ta dài thật, nhưng ngươi là đứa hèn hạ, đâu đủ khả năng để làm cái việc sửa râu cho ta. Hãy cúi đầu xin lỗi tội vô lễ trước đã.
Tiêu-tương-Tử không thèm nói, chỉ để khí giương thẳng cái kéo lao vèo tới Phàn-nhất-Ông.
Nghe tiếng kéo xắp sựt sựt, Phàn-nhất-Ông không kịp đỡ, vội đánh mạnh một chưởng vào vai Tương-Tử. Tiêu-tương-Tử né qua một bên, nhưng chưa có một sợi râu nào rụng, và cứ như thế người cố cắt râu, người cố đánh liên tiếp.
Lúc này trong nhà chỉ nghe tiếng vun vút, sèn sẹt, thỉnh thoảng kéo chạm cương trượng tóe lửa.
Trận giáo đầu hơn một tiếng đồng hồ, thì Phàn-nhất-Ông bị sơ hở một chút nên cái kéo của Tiêu-tương-Tử đã vút thẳng vào hàm râu, cắt đứt ba sợi râu.
Ba sợi râu bay vụt qua bàn, cuốn quấn mấy chén dĩa trên bàn rơi xuống đất
bể sạch.
Dương Qua biết ngay là Tiêu tương Tử dùng phép "lộng huyền" thổi khí đi
mạnh làm rơi bát, dĩa xuống đất, chớ ko phải do ba sợi râu cuốn mạnh đến thế.
Mã quang Tổ chẳng biết gì, vỗ tay đôm đốp miệng ko ngớt tiếng khen:
-Hay quá! Hay quá Tiêu huynh ơi! Mấy cái râu quèn đó mà Tiêu huynh cũng
biến nó trở nên lợi hại thế? Thật là kỳ tài!
Tiêu tương Tử nghe khoái chí cười khà khà, vung kéo xắp sừng sực, miệng
nói lớn:
-Lão râu dài kia lại đây.
Tuy nhiên, ai cũng thấy nét mặt của Tiêu tương Tử lúc này đã tái mét, vì
nội công chỉ luyện đến thế là cùng.
Phàn nhất Ông bị khinh miệt, nên mặt nóng phừng phừng, quay lại phía chúa
động, nói:
-Thưa sư phụ, thứ lỗi cho đệ tử hôm nay về tội thất kính với khách.
Dương Qua lấy làm lạ! Phàn nhất Ông đáng tuoir cha của chúa động, sao lại
gọi ng trẻ tuổi như con bằng sư phụ?
Chúa động nhìn Phàn nhất Ông khẽ gật đầu. Lập tức cây thiết trượng Phàn
nhất Ông vút thẳng vào đầu Tiêu tương Tử. Rất may, Tiêu tương Tử né kịp,
thiết trượng giáng xuống kệ đá vẹt ra một tia lửa sáng loè.
Thiết trượng vút ngược lên, Tiêu tương Tử lao mình qua đưa tay cướp lấy thiết trượng.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 046
KINH THIÊN ĐỘNG ĐỊA
Phàn-nhất-Ông thấy đối thủ cướp thất trượng, liền giật mạnh xuống, phất ngang chân đối thủ.
Đòn ấy tưởng Tiêu-tương-Tử phải gãy hai chân té úp xuống đất bể mặt rồi.
Không ngờ Tiêu-tương-Tử lao mình qua thiết trượng phất ngang dưới chân, liền lao đầu xuống chống hai tay dưới đất, quật ngược hai chân lên cao, lộn ngửa người ra đứng dậy.
Phàn-nhất-Ông được trớn vận sức xoay người vút thiết trượng vào đầu địch thủ. Tiêu-tương-Tử vừa đứng lên, thấy thiết trượng đã đến ngay đầu, liền né sang bên phải.
Tiêu-tương-Tử cố ý trêu cợt nên nhảy vọt lên cao hơn một trượng, phóng qua khỏi Phàn-nhất-Ông.
Mọi người thấy thế, vỗ tay rầm rập, khen ngợi:
- Tiêu-Huynh hay quá! Hay tuyệt!...
Phàn-nhất-Ông mặt nóng phừng phừng, nhưng thấy đối thủ võ công cao cường nên cố sức bình tĩnh vận thêm sức, múa thiết trượng vút như gió lộng.
Lão thầm nhủ: Ta đánh trúng đối thủ không dễ, nhưng ta có thể đập nát vũ khí của đối phương, để chiếm phần thắng.
Tiêu-tương-Tử lúc này dùng vũ công "thần xuất quỷ nhập". Tay phải cầm dao chém tới, tay trái trổ phép "tầm mã" chờ lúc đối thủ hở cơ, đoạt lấy thiết trượng.
Hai người lao sát vào nhau, xoắn xuýt giữa đại sảnh, chớp mắt đã đấu mấy mươi hiệp. Nhưng vẫn không phân thắng bại Tiêu-tương-Tử vừa đánh vừa ngồi trên ghế, nhưng không coi Phàn-nhất-Ông ra gì.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Tiêu-tương-Tử thân mình hình như chết khổ! Thế mà lại có thủ đoạn cao cường đến thế?
Hai người đấu tiếp mấy hiệp, cây thiết trượng của Phàn-nhất-Ông phất qua dưới hai chân đối phương. Nhưng Tiêu-tương-Tử cứ nhảy chập chờn đôi chân lên xuống, mỗi lúc một lẹ hơn.
Chúa động chợt kêu lớn:
- Đừng đánh chân ghế nữa! Nếu ngươi đánh như thế không đánh được đâu!
Phàn-nhất-Ông giật mình tỉnh ngộ:
- à! Hắn ngồi trên ghế! Thế mà mình tưởng hắn đứng dưới đất, nên nãy giờ cứ đánh dưới chân ghế mãi. Nếu hắn để ý nhảy xuống đã hớt được râu mình rồi.
Phàn-nhất-Ông liền đổi chiến thuật, vung thiết trượng múa tít mù, loang loáng như một vùng ánh sáng.
Mọi người chỉ còn trông thấy một người lùn râu dài, mặc áo màu xanh lục, được lớp ánh sáng trắng như bạc bao bọc.
Bên ngoài vòng ánh sáng bạc ấy là một hình nhân mặt như xác chết, nhảy lòm chòm trông thật lạ mắt.
Doãn-khắc-Tây rất thông hiểu các võ phái, nhưng xem thuật phép sư trượng Phàn-nhất-Ông và Tiêu-tương-Tử, cũng ngơ ngác không hiểu được. Theo trượng pháp đại khai đại hợp, môn hộ được phép giữ kín đáo lạ thường. Khác hẳn với các nhà võ công nội ngoại, không hiểu lão râu dài thuộc môn phái nào!
Chúa động thấy rõ Tiêu-tương-Tử có ý trêu lừa Phàn-nhất-Ông cho mỏi mệt, thầm nghĩ:
- Nếu để đấu nữa, nhất định Phàn-nhất-Ông phải bại.
Lão ung dung đứng dậy bước ra bảo:
- Nhất-Ông và Tiêu-tương khách! Hãy tạm nghỉ đã! Đánh lâu rồi, mà không thể phân thắng bại được. Thôi, Nhất-Ông lui ra.
Phàn-nhất-Ông nghe lệnh chúa Động truyền, nên cất tiếng nói:
- Xin tuân lời sư phụ.
Nhất-Ông đập mạnh thiết trượng xuống đất một cái, nhảy tung lên, toan chạy ra khỏi phòng đấu.
Nhưng Tiêu-tương-Tử lại kêu lên:
- Không! Không được!
Liền nhúng mình vọt ra khỏi ghế, bay lên đập vào cây thiết trượng. Chỉ nghe một tiếng "bốp" cái ghế bự, bị thiết trượng đập nát vụn ra. Nhưng cây thiết trượng đã bị Tiêu-tương-Tử dùng tay trái chộp giữ và lấy chân trái đạp lên trên, đồng thời tay phải đưa thẳng cái kéo xấp mạnh hàm râu Phàn-nhất-Ông.
Vừa phát ra một tiếng sẹt. Nhất-Ông lanh như chớp, né hàm râu qua bên phải, rồi phát hàm râu qua bên trái, quấn chặt vào cán kéo của đối thủ một cách dễ dàng.
Tiêu-tương-Tử thấy râu lão quấn chặt vào kéo không thể chuyển được, thầm khen:
- Bộ râu lão nầy đã được tập luyện công phu, lợi hại thay.
Tiếp đó Tiêu-tương-Tử lại nói lớn:
- A! Lão già lùn! Bộ râu của ngươi lợi hại lắm đấy! Tiêu-tương-Tử nầy khen ngươi đó.
Lúc này mọi người chỉ trông thấy hai người đứng sát vào nhau, không còn đánh gì nữa. Nhất-ÔNg dùng râu và tay trái giữ chặt cán kéo. Còn tay trái và chân trái của Tiêu-tương-Tử lại bám lấy thiết trượng, giằng qua giật lại một hồi, nhưng không ai giật được của ai cả. Tiêu-tương-Tử phá lên cười ha hả, nói:
- Thú quá! Thú quá! A ha! Thú quá!
Đột nhiên một bóng người áo xanh ngoài cửa chạy vào nhanh như tên, đưa hai tay chụp vào cổ Tiêu-tương-Tử giật ra:
Chúa động quát hỏi:
- Ai đó! Làm gì thế?
Mọi người đều đứng lên nhìn. Mã-quang-Tổ nói lớn:
- Không được! Một người đánh với một người chứ? Đừng chơi vậy xấu lắm!
Tiêu-tương-Tử đưa tay trái phát mạnh vào bụng người lạ mặt và dùng chưởng lực gỡ thoát mình ra. Người lạ nổi giận quát lớn:
- Thằng khốn kiếp! Mau ra sức cùng tao đấu một sống một chết.
Bọn Dương-Qua nhìn ra ai nấy đều thầm đoán:
- Người mới chạy vào mặt mũi đúng là Tiêu-tương-Tử, sao lại mặc quần áo, mũ giầy theo người trong động này? Có lý nào một biến ra thành hai? Mà dù có biến hóa "phân thân" của hắn? Tương-Tử có thuật lừa dối thế nào?
Phàn-nhất-Ông thoáng thấy có người xông vào giúp mình, chưa biết là ai, nhưng thấy hắn mặc đồng phục với trong động, liền thu thiết trượng lui lại phía sau, tránh ra một bên để người ấy đánh với Tương-Tử.
Lúc ấy, người mới vào xòe mười ngón tay nhọn hoắt, quấp lấy Tương-Tử lôi lại, miệng quát mắng:
- Mày dùng lối lừa gạt đánh người sao đáng mặt anh hùng?
Bấy giờ Dương-Qua đã nhận ra:
Người cầm kéo ấy là kẻ đã lấy trộm mặt nạ của mình để đeo lên mặt, rồi lấy áo quần của Tương-Tử mặc vào, đề giả Tương-Tử mà vào địa sảnh quấy động này. Vì vẻ mặt của Tiêu-tương-Tử thường ngày giống vẻ mặt người chết. Vả lại từ lúc hắn giao đấu Phàn-nhất-Ông, thuật pháp cao cường khác hẳn Tiêu-tương-Tử nhiều.
Dương-Qua định thần nhìn kỹ kẻ đeo mặt nạ đang cầm kéo, rồi gọi lớn:
- Này! Lão-ngoan-Đồng Châu-bá-Thông! Hãy trả mặt nạ và cái kéo cho tôi.
Dứt lời, nhảy vọt tới nơi, đoạt chiếc mặt nạ và cái kéo trên tay người ấy.
Sự thật người mà ai cũng tưởng là Tiêu-tương-Tử, đánh với Phàn-nhất-Ông từ lúc mới vào đại sảnh đến bây giờ, chính là Châu-bá-Thông. Vì trong lúc vô ý, Châu-bá-Thông bị bốn đệ tử của động "Thủy tiên" dùng lưới phủ bắt đem về động. Lão ta vốn có tính bướng bỉnh, diễu cợt, nhưng rất thần thông quảng đại. Cho nên lão điềm nhiên, để cho bọn đệ tử trong động khiêng về đến nơi thì lão phá lưới thoát ra đi mất. Bốn vị đệ tử bị chúa Động phạt ngồi vào lửa.
Châu-bá-Thông thoát được lưới, ra núp sau núi đá, định ý phá động Thủy-tiên cho kinh thiên động địa.
Bỗng lão thấy bọn Kim-luân Pháp-Vương tìm đến nơi nên chiều hôm ấy, lão ngầm ra tay đánh trộm, điểm trung huyệt đạo của Tiêu-tương-Tử, làm cho Tiêu-tương-Tử bất tỉnh, rồi đem xác Tiêu-tương-Tử ra khỏi nhà đá, lột hết áo quần mặc vào, giả dạng Tiêu-tương-Tử.
Xong, Châu-bá-Thông lại trở vô nhà đá, nằm bên Dương-Qua. Chưa thôi, lão còn mò vào túi Dương-Qua lấy trộm chiếc mặt nạ và cái kéo. Sáng hôm sau, mọi người thức dậy, vô tình không ai để ý cứ gọi lão là Tiêu-tương-Tử.
Còn Tiêu-tương-Tử bị Châu-bá-Thông điểm huyệt bất ngờ, cố vận ngầm nội lực để tự vệ, nhưng vì phép điểm huyệt của Châu-bá-Thông quá lợi hại, nhưng mãi đến năm giờ sau, tay chân Tiêu-tương-Tử mới vận chuyển được. Lúc ấy Tiêu-tương-Tử chỉ mặc một chiếc quần ngắn, nên lão vừa thẹn vừa giận, đưa mắt ra nhìn thất đệ tử trong động mặc quần áo xanh đi qua. Tương-Tử liền chận đánh người áo xanh ngã xuống, lột hết quần áo, mặc vào mình. Cho đến lúc này Tiêu-tương-Tử cũng tưởng người trong động "Thủy tiên".
Tương-Tử vừa bước vào đại-sảnh, đã thấy Châu-bá-Thông mặc bộ quần áo của mình, đang ác đấu với lão lùn râu dài.
Hắn giận điên người, vận gân cốt hai tay, cố chộp lấy Bá-Thông quật chết. Nhưng Bá-Thông gỡ ra được, và hai người trở lại đánh nhau quyết liệt. Đánh được mấy hiệp, thì Dương-Qua xông vào giúp sức Tiêu-tương-Tử đánh Châu-bá-Thông.
Châu-bá-Thông vốn rất giỏi lối đánh "phân thân" ông đã tập luyện công phu hơn mấy chục năm. Đến khi gặp Quách-Tỉnh trên đảo Đào hoa ông lại tiến bộ hơn trước kia nữa.
Lão thấy Dương-Qua cũng xông vào đánh mình, liền vung tay trái đối phó với Dương-Qua, tay mặt phải cầm kéo, khi mở khi thu khiến cho Tiêu-tương-Tử không dám xông vào. Tiêu-tương-Tử căm giận, nhưng xưa nay rất sợ tài nghệ của Châu-bá-Thông, nên không dám kinh công xuất thủ.
Dòng dõi vị chúa đảng đã mười mấy đời truyền lưu sống nơi đây, kể từ lúc gặp dị nhân truyền đến nay kể đã mấy đời, từ đời nọ sang đời kia, song trong giới võ lâm có tục lệ hẹp hòi "Thầy truyền cho trò như có ý lo sợ học trò mai sau gian ác, sẽ phản thầy, ngạo bạn, hại đời, nên thầy nào cũng giữ lại vài ngón bí hiểm, không dạy hết cho trò. Do đó võ công tuyệt kỹ, lần lần thất truyền.
Chỉ có võ công gia truyền là tồn tại hơn cả.
Tỉ như ông bà truyền cho cha mẹ, cha mẹ truyền cho con cháu thì mới truyền hết cái hay. Có nhiều con cháu thông minh, lại có thể cải tiến thêm những ngón võ độc đáo hơn đời trước.
Chúa động "Thủy tiên" ngày nay là một người thông minh, lại được võ công gia truyền, nên võ công của chúa động có thể hơn những bậc tiền nhân trong phái ông.
Vì vậy Chúa động có lúc tự bảo rằng:
- Nếu ta ra khỏi động, chu du trên khắp thiên hạ, thì không thể có một ai dám đem võ công so với ta nữa.
Nhưng hôm nay Châu-bá-Thông từ phương nào đến làm rung chuyển cả động.
Khi Châu-bá-Thông đấu với Phàn-nhất-Ông, chúa động đã thầm lo ngại. Kế đến Châu-bá-Thông đấu với hai người một cách dễ dàng, lại càng làm cho chúa động thầm phục hơn.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương khi biết được Châu-bá-Thông ai nấy đều lo nghĩ:
- Thật đúng với tên Lão-ngoan-Đồng! Mưu mẹo đủ điều, không ai đoán được! Bây giờ bắt lão chưa chắc đã được mà còn sợ lầm mưu lão nữa là khác.
Chúa động thấy Tiêu-tương-Tử hai bàn tay xòe ra mười ngón tay như mười mũi sắt xông vào, nhưng không tài nào đụng được Châu-bá-Thông. Còn Dương-Qua thì lanh lẹ, tiến lui rất nhanh, đôi tay loang loáng, nhưng cũng không áp đảo được ai, ông thầm lo:
- Trời đất bao la, nhân tài không thiếu gì. Nay ta mới biết. Nếu cứ để chúng đánh nhau mãi, e thiệt hại đến động nầy. Lão bèn đứng lên gọi lớn:
- Xin tam vị hãy ngừng tay; để tôi biện minh điều này đã.
Dương-Qua cùng Tiêu-tương-Tử cùng nhảy lùi ra sau một bước.
Châu-bá-Thông giở mặt nạ ra cột vào cái kéo ném trả cho Dương-Qua và nói:
- Thôi chơi thế đủ rồi! Ta đi đây!
Dứt lời Châu-bá-Thông nhún một cái, toan thân bay vút lên xà nhà cao hơn năm trượng.
Công-tôn Lục-Ngạci và bọn đệ tử sợ hãi, kêu lên:
- Lão già! Lão già thoát lưới hôm qua!
Châu-bá-Thông ngồi vắt trên xà, cười ha hả nhìn mọi người như đùa cợt.
Tuy trong nhà lúc này có nhiều tay cao thủ, nhưng không ai nhảy lên trên đó được.
Trong động "Thủy tiên" chỉ có Phàn-nhất-Ông là tay đệ tử tuổi đã cao hơn cả chúa động, nhưng tài nghệ thì ngoài chúa động, ai ai cũng nhận rõ võ công của lão là đệ nhất. Thế mà bị Châu-bá-Thông chọc tức, nên lão quá giận, quay sang nhìn chúa động xin lệnh:
- Xin sư phụ cho phép đệ tử bắt thằng nghịch đó?
Chúa động không nói gì chỉ khẽ gật đầu.
Phàn-nhất-Ông vươn mình lên, ôm chầm lấy cây cột, rồi thoăn thoắt trèo lên như con vượn.
Châu-bá-Thông trông thấy rất thích chí, vì được dịp nô đùa để phá phách trong thạch động. Lão nhìn xuống cười lớn:
- Bộ mầy lùn tịt, thân không cao quá ba thước, sao lại ì ạch như vậy.
Phàn-nhất-Ông bò lên gần tới thì Châu-bá-Thông đã đưa tay ra đón.
Phàn-nhất-Ông tưởng địch khinh mình nên lúc Bá-Thông vừa đưa tay ra. Nhất-Ông đã vận sức chọc ngón tay điểm vào khủy tay, đã đóng kinh huyệt đạo, làm cho bắp thịt cứng lại.
Phàn-nhất-Ông vội thụt tay lại, tưởng mình thò tay vào lửa. Châu-bá-Thông với tay đập vào mu bàn tay của Nhất-Ông một cái "bép" rồi phá lên cười khà khà nói:
- Ta đã đưa tay cho ngươi vịn leo lên, sao lại thụt đi?
Phàn-nhất-Ông nén giận, vận kình lực, phun lên một làn khói vào mặt địch thủ, rồi tiếp quất mạnh bộ râu quấn vào ngực Châu-bá-Thông. Châu-bá-Thông thấy làn khói và tiếng gió vút mạnh, biết là thuật lợi hại, vội đưa chân trái đạp mạnh một cái, tay trái nắm vững xà ngang, toàn thân treo lơ lửng.
Bá-Thông lại cười khà khà nói:
- Lão lùn ơi! Người dùng bộ râu đó không làm gì ta được đâu.
Tiêu-tương-Tử nhìn lên thấy thế biết Phàn-nhất-Ông không thể nào đánh nổi Châu-bá-Thông, và nếu có hắn xông lên giúp sức, cũng không thể thắng nữa. Hắn quay lại nhìn đồng bọn nói:
- Các đại huynh ơi, thằng già kia khinh rẽ sáu anh em mình! Thật quá lắm! Bây giờ chúng ta cho nó một trận đi!
Ni-ma-Tinh vốn tính táo bạo, nghe nói khích không nén giận được, còn Mã-quang-Tổ thì khờ khạo, không rõ phải trái, nên khi nghe Tương-Tử nói, cả hai đều nổi giận đùng đùng đứng dậy, thét lên:
- Thằng già kia! Mày đã tới số rồi!
Hai người phóng mình lên cây xà ngang, bốn tay quắp lấy Châu-bá-Thông.
Bá-Thông liền vung hai tay đánh mạnh ra. Ma-Tinh văng ra bấu lấy đầu cột, còn Quang-Tổ văng luôn xuống đất, lòm khòm đứng dậy nhưng chưa dám leo lên.
Tiêu-tương-Tử nói với Doãn-khắc-Tây:
- Doãn huynh ơi! Doãn huynh khoanh tay đứng nhìn vậy sao?
Doãn-khắc-Tây bình tĩnh nói:
- Huynh lên trước rồi đệ xin giúp sức.
Tiêu-tương-Tử rú lên một tiếng đột nhiên vọt thẳng lên cao hơn bốn trượng. Chỉ thấy thân minh Tương-Tử thẳng đứng như khúc gỗ, đâm thẳng vào bụng Châu-bá-Thông. Bá-Thông liền thu mình lại như con mèo nên hai tay Tương-Tử đâm hụt, cả thân mình vụt lửng lơ trên không, nháy mắt đã rơi xuống đất. Nhưng giận chưa thôi, vừa rơi xuống Tương-Tử lại phóng lên như một chày giã gạo vậy.
Bấy giờ Phàn-nhất-Ông đã bám chặt vào xà ngang, vội quất bộ râu để quấn địch thủ. Còn Ni-ma-Tinh, Mã-quang-Tổ và Tương-Tử cứ nhảy vọt lên, rớt xuống, cố hết sức để đánh Châu-bá-Thông.
Doãn-khắc-Tây mỉm cười nói:
- Lão già này thật phi thường! Ta cũng hợp sức đánh thử một phen coi.
Miệng nói tay thô vào mình rút ra một vật sáng lấp lánh. Đó là con roi Nhiễu tiên. Roi này kết bởi những sợi vàng sợi bạc và gắn nhiều ngọc quí.
Thật ra, Doãn-khắc-Tây võ nghệ chưa có gì đặc biệt mấy, chỉ là một tay phóng lãng giang hồ, đi đâu cũng mang theo của quí để lòe thiên hạ.
Doãn-khắc-Tây nhảy lên quấn vun vút. Dương-Qua thấy thích mắt thầm nghĩ:
Nắm tay này đều trổ thần thông vây đánh một lão bướng bỉnh, nhưng lão vẫn coi thường. Nếu ta không xuất thủ giúp sức thì lão khinh khi cả bọn chúng ta.
Chàng lấy mặt nạ, đeo lên, rồi thét một tiếng, lượm cây thiết trượng của Phàn-nhất-Ông bỏ dưới đất, quặp vào chân, nhún mình nhảy vọt lên cao, ngang với Châu-bá-Thông, và nói:
- Lão già bướng bỉnh hãy xem cái kéo này!
Chàng ngồi trên xà nhà trước mặt Châu-bá-Thông, đưa kéo xắp bộ râu bạc của ông. Bá-Thông bình tĩnh né đầu qua một bên, và bảo:
- Chú em ơi! Phép nầy của chú cũng khá đấy! có thể dùng được việc!
Dương-Qua gắng giọng nói:
- Lão già bướng bỉnh kia! Ta có gì vô lễ mà lão lại đem bọn ta ra làm trò cười.
Châu-bá-Thông cười hà hà nói:
- Chú em ơi! Hãy dùng cây kéo vào việc khác. Thuật hớt râu của chú không thua ta đâu. Chú em có món vũ khí đó mà không biết dùng.
- Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại không biết sử dụng.
Bá-Thông cười ha ha:
- A! Chú em chưa hiểu ư? Nhưng rồi sẽ biết.
Châu-bá-Thông chợt thấy cái roi vàng của Doãn-khắc-Tây vút tới, liền vung tay đập mạnh. Roi quật ngược vào lưng Khắc-Tây, cả người lẫn roi đều rơi xuống đất. Bá-Thông gọi lớn:
- Cái roi lòe loẹt của ngươi, thế mà thú đấy!
Dứt lời, Phàn-nhất-Ông bay vút tới, Bá-Thông liền nhích qua một bên rồi cười, nói:
- Bộ râu rậm rạp kia thỉnh thoảng cũng quấy rầy kẻ khác được đấy chứ?
Đoạn lão đưa tay vút hàm râu của lão, cười ngạo nghễ:
- Râu ta để vuốt chơi cho thanh nhã, chứ không phải như ngươi dùng râu để làm cái chổi đánh người.
Nói chưa dứt, đã bị bộ râu Nhất-Ông quật trúng vào má, Bá-Thông cảm thấy ran rát, chứ không đau đớn mấy.
Nếu Châu-bá-Thông có võ công vững chắc thì bị một cái vụt râu của Phàn-nhất-Ông đã choáng váng, mà rơi xuống đất rồi, nhưng lão vẫn bình thản, nét mặt tươi vui, không tỏ một cử chỉ nào tức giận, cười lớn:
- Này, chú râu dài! Râu ta ngắn hơn râu chú, thì chúng ta đừng đọ nữa nhé!
Nhất-Ông vừa quất trúng địch một đòn lòng hiu hiu tự đắc không thèm nghe lời diễu cợt của Châu-bá-Thông, lão quất tiếp một lần nữa. Bá-Thông không dám khinh thường tung một trái dùng "Không minh quyền" đấm ra một cái. Râu lão lùn bị gió quá mạnh, đẩy tạt trở lại. Vừa lúc Mã-quang-Tổ tung mình lên đánh Bá-Thông thì râu Nhất-Ông lại quất mạnh vào mặt Quang-Tổ, mù cả mắt. Hắn liền đưa hai tay chợp lấy bộ râu.
Râu Nhất-Ông xưa nay có mãnh lực phi thường, nhưng lúc ấy vừa bị cái đâm "Không minh quyền" của Bá-Thông tống ra, lại gặp bàn tay Quang-Tổ dùng sức kinh công vớ chặt, Nhất-Ông giật mình, dùng sức đoạt lại, nhưng bị Mã-quang-Tổ nắm cứng. Thế là Mã-quang-Tổ và Phàn-nhất-Ông dính chung một đùm, nhào xuống đất. Hai người đều tức giận, quắc mắt nhìn nhau.
Nhất-Ông gắng giọng nói:
- Sao ngươi tóm râu ta, lại không chịu thả?
Mã-quang-Tổ đã bị chân lão lùn đạp trúng vào bụng đau quá, lại bị lão lùn mắng nữa, liền quát lại:
- Ta không thả thì ngươi làm gì?
Vừa quát hắn vừa luồn tay phải vào bộ râu xoay mấy vòng. Nhất-Ông đánh vào mặt một chưởng. Hắn nghiêng đầu tránh, nào ngờ tay trái lão lùn đánh một quyền ngay vào sống mũi, Mã-quang-Tổ đau quá hét lên:
- ái! Lão quái nầy!
Tuy bị đánh Quang-Tổ vẫn không thả hàm râu, dùng tay trái đấm trả lại cho hả giận. Thực ra võ công của Mã-quang-Tổ kém hơn Nhất-Ông, nhưng khốn nổi bộ râu của lão bị quấn chặt vào tay Quang-Tổ, thành thử đầu cổ lão không cựa được, đành để cho Quang-Tổ đấm đá thình thịch.
Lúc ấy, hai đấu thủ một cao một lùn, thoi đấm nhau huỳnh huỵch dưới đất. Lão lùn tay đè trên mình Quang-Tổ, nhưng không rút bộ râu ra được.
Kim-Luân pháp-vương thấy đại sảnh náo động, và sáu người cùng bọn không đánh nổi lão già bướng bỉnh, nên quá thẹn lo nghĩ:
Lão bướng bỉnh nầy ta phải lừa dịp hại lão cho xong, chứ không có tài nào bắt sống được.
Định ý như vậy, Pháp-vương thò tay vào túi, lấy ra hai vòng tròn một vòng đồng, một vòng bạc, như hai cái đĩa, ném tung lên mặt Châu-bá-Thông. Hai vòng kim khí bay thành hai vòng cung, kêu rít nghe rợn người. Bá-Thông không biết vũ khí lợi hại, kêu hỏi:
- A! Vật gì quái thế?
Vừa hỏi lão vừa đưa tay ra toan bắt.
Dương-Qua thấy Kim-luân Pháp-Vương cố dùng vũ khí giết Châu-bá-Thông, trong lúc vô ý, chàng cảm thấy thương hại, vội la lớn:
- Tránh đi đừng có bắt!
Đồng thời chàng dùng thiết trượng lên gạt hai vòng kim khí. Nghe "choang" một tiếng, hai vòng ấy tạc ngang vô tường, tung ra những tia lửa sáng lòe, rồi lại vút bay lên trần nhà. Lúc đó Châu-bá-Thông mới biết Kim-luân Pháp-Vương võ nghệ cao cường, thầm nghĩ.
- Thôi, bây giờ mình đã mệt rồi mà trêu ghẹo lâu, họ đồng tâm hợp lực lại, thì mình không thoát được.
Bá-Thông liền nhảy xuống đất kêu:
- Kính chào quí vị! Hôm nay lão chưa có dịp gặp quý khách. Thôi, để ngày mai chúng ta chơi lại.
Dứt lời lão chạy vút ra cửa. Nhưng ngoài cửa đã có bốn người áo xanh giăng lưới rồi. Châu-bá-Thông đã bị mắc lưới ấy một lần, nên hoảng hốt la lên:
- A! Nguy thay!
Lão chạy vụt về phía Đông, toan nhảy ra cửa sổ. Nhưng phía ấy cũng thấy căng lưới sẵn có bốn người mặc áo xanh đứng rình. Lão chạy vô giữa nhà, đảo mắt nhìn tứ phía, thấy cửa nào cũng có bốn đệ tử áo xanh, và lưới đã căng sẵn hết.
Hết lối đi, lão lại vọt lên xà nhà, dùng tay đánh tống lên định chui lên nóc.
Vừa mới lô đầu lên, tấm lưới đã phủ lên đầu! Lão phải nhảy xuống đất, chỉ tay vào mặt chúa động, cười nói:
- Ông giữ lão già nầy lại để làm gì? Ngày nào cũng ăn rau, uống nước lã, thì nuôi ta sao được?
Chúa động nghiêm nghị nói:
- Ngươi đã lấy sách đạo của ta. Bây giờ ngươi muốn ra khỏi động nầy, thì phải trả các vật ấy cho ta lại đây?
Châu-bá-Thông ngạc nhiên nói:
- Ta lấy sách đạo của các ngươi để làm gì? Về bản lĩnh của ta đâu có kém hơn người, mà phải cần các thứ đó?
Lão chúa động thong thả bước lại gần Châu-bá-Thông nói:
- Nếu hôm nay không có ngày vui của ta, thì ngươi đã lãnh giáo ít đòn rồi! Nếu biết điều trả lại đây, rồi thong thả ra về.
Châu-bá-Thông nổi giận hét lớn:
- Ngươi dám nói thế sao? Ta mà đi trộm của ngươi à? Ngươi nói thế thì coi cho kỹ đây, có cái gì của nhà ngươi thì lấy lại.
Lão vừa nói, vừa đưa tay cởi áo tháo quần. Chỉ trong nháy mắt lão đứng trần trục. Chúa động luôn miệng quát:
- Thôi...! Đi... đi...!
Nhưng lão không nghe, cứ cầm áo cầm quần dũ thật kỹ, quả nhiên không có vật gì rơi xuống.
Bọn đệ tử trong động hoảng quá, vội vã quay đầu bịt mặt. Thật là một việc quá sỗ sàng, không ai làm được.
Chúa động cúi đầu suy nghĩ:
- Thật là! lão nầy không có lấy những vật ấy! Vậy thì có một tay nào lợi hại lắm, mới dám vào phòng ta lấy sách được. Nếu ta không tìm được thủ phạm, thì động ta sẽ có điều quan hệ đây?
Châu-bá-Thông vỗ tay nói:
- Xem ngươi đã cũng đúng tuổi, sao không biết kính nể người già, bịt mặt những chuyện vô lý, để làm xấu ta trước mặt mọi người. Ngươi không sợ người đời chê cười sao?
Lão chúa động không biết nói sao cả, chợt nghe có tiếng thình thịch, quay đầu nhìn lại thì thấy Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ còn vật đánh nhau. Lão bèn quát:
- Nhất-Ông! Hãy đứng dậy!
Châu-bá-Thông cười nói:
- Người ta bỏ việc nầy thì không nói, để đi la cái chuyện họ không hỏi đến.
Chúa động cau mày nói:
- Lão bảo rằng giữa chỗ đại sảnh đông người, mà làm việc xấu xa, như thế đâu có can hệ gì đến ta. Câu nói ấy chính ngươi tự trách ngươi đấy thôi.
Châu-bá-Thông cười nói:
- Khi lọt lòng mẹ ta, ta cũng không áo quần, thì lúc nầy ta bỏ áo quần ra, tấm thân thiên nhiên của ta cũng trong sạch đường hoàng có gì là xấu. Chứ ông đã già rồi, muốn giữ vẻ nghiêm trang của bề ngoài, mà lương tâm lại muốn cưới con gái đáng con cháu mình thì thật khó coi! Hà! Hà... Như thế là thân hình ông đẹp lắm đấy!
Câu nói như mũi dùi chít vào tai. Chúa động đôi mắt đỏ ngầu, mặt xám lại, miệng như không nói được.
Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ vẫn cứ đè vật nhau mãi. Nhất-Ông nghe chúa động gọi, muốn đứng dậy, nhưng khốn nỗi bộ râu bị Quang-Tổ quấn chặt, không cách nào rứt ra được. Còn Mã-quang-Tổ bị lão đè lên trên, và đánh thùi thụi, hắn ỷ sức mạnh nên cứ việc quấn ghì chặt bộ râu xuống đất, không cho lão đứng dậy.
Mọi người chưa biết phải làm sao để chữa hai người thì Châu-bá-Thông kêu lên:
- Ôi chao! Ta quên mặc quần áo lạnh quá!
Chưa dứt lời, lão chạy vụt ra cửa. Bốn đệ tử vừa thấy bóng người chạy ra cửa, vội tung lưới chụp xuống gút miệng rất nhanh. Người mắc vào lưới dãy quá mạnh. Bốn người áo xanh túm bốn đầu dây lại cột thật kỹ, để khiêng đến trình chúa động.
Thứ lưới này rất bền, nhờ kết bằng sợi kim khí, nên dao chém cũng không rách. Lại thêm bốn tay căng lưới, đã được tập luyện rành rẽ, họ tung giật nhanh như chớp, dẫu cho tay cao thủ cũng không kịp đối phó, để thoát thân.
Bấy giờ bốn tay bắt được địch thủ, ai nấy đều hớn hở, lo khiêng vào để trước mặt chúa động. Một người áo xanh đứng cúi đầu thưa:
- Thưa sư phụ, bốn đệ tử cửa chánh đã bắt được lão già trốn thoát bữa qua.
Chủ động chăm chú nhìn vào lưới. Bỗng nhiên biến sắc mặt, quát lớn:
- Bọn mi không có mắt hay sao?
Bốn đệ tử vội nhìn vào lưới, người nào, người nấy, thất vía hồn kinh, mặt không còn chút máu. Họ luống cuống xúm nhau lại mở lưới, thả hai người trong lưới ra. Thì đó là Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ!
Sự thật Châu-bá-Thông tuột quần áo, đứng tần ngần, để mọi người mắc cỡ không để ý đến, lại tiếp nói những câu sách hạch để cho chúa động xấu hổ không còn tinh thần sáng suốt đề phòng được.
Mọi người đều nghĩ rằng lão đang còn nói nhiều với chúa động và có ra đi cũng phải mặc quần đã.
Nhưng Châu-bá-Thông đã dự định sẵn. Lão vừa nói với chúa động vừa xem xét tứ phía. Khi nói gần hết lời lão lướt qua phía gần Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ, nắm gáy hai người quăng vào lưới và thừa lúc gã đệ tử phủ lưới xuống, lo túm cột lưới, lão phóng mình qua, không ai hay biết. Thật là một lối thoát thân "Dương đông kích tây".
Chúa động quá thẹn mặt trước mọi người. Vì chỉ có một lão ương ngạnh đó mà đã dùng mưu đánh Phàn-nhất-Ông, làm cho Nhất-Ông bị đồng bọn đánh rồi bị mắc vào lưới. Còn chúa động cũng phải chịu những lời xỉ mạ quá đau đớn.
Bọn Kim-luân Pháp-Vương cũng không khỏi hổ thầm:
- Mình cũng là tay giỏi trong võ lâm, mà nay đến bao nhiêu người họp sức đánh bắt không được một lão điên điên, khùng khùng, mà lại còn bị lão làm trò cười, thì thật là bất tài!
Riêng Dương-Qua là không buồn. Chàng thầm nghĩ:
- May là lão bị bắt, thì bây giờ mình lo cứu giúp cũng khổ.
Kim-luân Pháp-Vương ý muốn dò hỏi lai lịch của vị chúa động, nhưng lúc nầy lão thấy chúa động dồn dập nhiều việc buồn khổ, nên tỏ ý hỏi dò đồng bọn và muốn rút lui khỏi động. Thấy năm người cũng đồng ý, Kim-luân Pháp-Vương đứng dậy chắp tay, nói với động chủ:
- Rất cảm thịnh tình động chủ hậu đãi chúng tôi, đăng ký nên ở để được lãnh giáo nhiều nữa. Nhưng mọi người chúng tôi đi đây, đều có việc cần riêng. Vậy xin được cáo biệt.
Lúc đầu, chúa động có ý nghi ngờ sáu người nầy cũng một bọn với Châu-bá-Thông, nhưng sau thấy Tiêu-tương-Tử, và cả bọn Pháp-Vương đều lăng vào ác đấu với Châu-bá-Thông, nên ông ta có phần lưu luyến.
Chúa động bèn đứng dậy chắp tay nói:
- Tiểu đệ có một chút việc muốn nói, chẳng hiểu chư vị có thể nhận lời cho chăng?
Pháp-Vương nói:
- Nếu điều đó chúng tôi có thể làm được, thì chẳng dám từ chối.
Chúa động nói:
- Chiều hôm nay, tiểu đệ làm lễ tục huyền, muốn mời chư vị ở lại chia vui. Nơi đây là núi hẻm thôn cùng, đã mấy trăm năm nay ít có bóng người tìm đến.
Hôm nay lục vị quý khách chu du đến đây thăm, thật là hắn mạnh vô cùng cho tiểu đệ!
Mã-quang-Tổ nói:
- Động chủ có uống rượu không?
Chúa động chưa kịp trả lời, đột nhiên thoáng thấy bóng người ngoài cửa.
Liền lúc đó một cô gái áo trắng thoăn thoắt bước vào hỏi:
- Kẻ nào gây náo loạn ở đây, và đã tẩu thoát rồi sao?
Dương-Qua trông thấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Chàng đứng dậy bước vội ra nắm tay kêu lớn:
- Kìa! Cô! Không ngờ cô đến đây! Tiểu đệ đi tìm cô đã khổ cực nhiều lắm!
Cô gái ngơ ngác, nhìn Dương-Qua tỏ vẻ lạnh lùng nói:
- Người này là ai mà dám xưng hô với tôi như thế?
Dương-Qua giật mình, chăm chăm nhìn vào mặt thiếu nữ áo trắng. Chàng thấy dáng người đẹp đẽ, nét mặt quen thuộc không khác Tiểu-long-Nữ.
Chàng liền hỏi lại:
- Thưa cô, em là Dương-Qua đây mà! Sao cô không nhận em?
Cô gái ngơ ngác nhìn chàng, khẽ lắc đầu:
- Xưa nay tôi chưa hề gặp ông lần nào, sao ông lại xưng hô với trịnh trọng như thế?
Dứt lời nàng bước lên ngồi bên chúa động.
Chúa động vui vẻ đứng dậy, trỏ tay vào nàng giới thiệu với bọn Pháp-Vương:
- Tiểu đệ xin giới thiệu cùng quý khách rõ. Đây chính là vị tân hôn của tôi. Tôi đã chọn được giờ tốt là chiều nay làm lễ thành thân.
Tuy lời nói có vẻ ôn hòa, nhưng đôi mắt của chúa động nhìn Dương-Qua có vẻ bất bình.
Có lẽ lão giận Dương-Qua vừa rồi đã ăn nói sỗ sàng, nhận lầm làm người tân phu nhân của lão một cách quá đường đột.
Nhưng Dương-Qua vẫn đinh ninh thiếu nữ áo trắng đó nhất định là Tiểu-long-Nữ. Chàng nóng lòng không thể chịu nổi, liền nói lớn:
- Thưa cô! Cô không phải là Tiểu-long-Nữ, thì còn là ai? Cô là thầy của tôi mà!
Cô gái áo trắng nghiêm nghị nhìn thẳng vào mặt chàng, lạnh lùng lắc đầu nói:
- Tôi không hiểu Tiểu-long-Nữ mà ông hỏi đó là ai vậy?
Dương-Qua hai hàm răng cắn chặt, đôi mắt không ngớt nhìn cô gái áo trắng, đầu óc rối loạn, suy nghĩ miên man:
- Cô giận ta chăng? Tại sao không nhìn nhận ta? Hay cả hai cùng lạc vào hiểm địa nên cô giả cách làm ngơ? Lẽ nào trên đời lại có một người thứ hai giống hệt cô được.
Chàng tuy rất thông minh, có tài tùy cơ ứng biến, song một khi trái tim đã rối loạn lên vì động đến chân tình, tay chạm phải "đóa hoa tình" thì không thể nào đè nén nổi!
Chàng khẽ kêu lên một tiếng "ái".
Công-tôn Động-chủ thấy vẻ mặt chàng hơi rối loạn, khẽ nhíu mày hỏi nhỏ em gái:
- Em Liễu! Hôm nay gặp rất nhiều dị nhân nhỉ!
Cô gái không đáp, rót một chén nước trong, đưa lên, môi nốc cạn, rồi liếc mắt nhìn qua từng người. Nhưng nàng không nhìn Dương-Qua.
Nếu là kẻ ngoại cuộc, Dương-Qua lặng lẽ dò xét tình hình, đàng nầy chàng vốn có tính nóng, hơn nữa đã nghe rõ động chủ tuyên bố chiều hôm ấy sẽ làm lễ thành hôn, nên chàng cuống quít quay lại hỏi Kim-luân Pháp-Vương:
- Thầy tôi có một lần tỉ võ với ngài, hẳn ngài còn nhớ. Điều nầy ngài có bảo là tôi nhận lầm nữa chăng?
Thực ra từ lúc thiếu nữ mới bước vào. Pháp-Vương đã nhận ra là Tiểu-long-Nữ. Nhưng lão thấy Dương-Qua gọi nàng mà nàng không hề để ý đến, nên Pháp-Vương đoán biết cặp trai gái bên trong hẳn có điều gì rắc rối. Lão mỉm cười đáp:
- Ta không nhớ rõ điều đó.
Sở dĩ Pháp-Vương nói như vậy là có một dụng ý riêng. Trước đây Tiểu-long-Nữ đã dùng Dương-Qua tiếp tay sử dụng kiếm pháp khiến cho lão phải thảm bại. Nay võ công của Dương-Qua đã đến độ siêu việt rồi, nếu đôi trai gái nầy họp sức thì thật khó lòng. Nếu lão vụng về để cho cặp trai gái ấy tiếp tay nhau thì lão không thể nào thủ thắng được, nên lão phải lập kế để ly gián.
Dương-Qua nghe lão đáp ngạc nhiên nghĩ thầm:
- Ôi! Lòng người xảo trá khôn lường! Đã cùng đến chỗ nầy, trong lúc hắn bị thương nguy khốn, ta ra sức cứu hắn, mà giờ hắn lại toan hại ta.
Pháp-Vương thấy nét mặt Dương-Qua có vẻ giận hờn, thần sắc đổi khác, lòng thầm nhủ:
- Nó đã trở mặt hiềm thù với ta, nếu ta để cho nó sống ắt sau nầy mang họa! Hãy thừa dịp nầy mà trừ đi cho sớm.
Định ý như vậy, lão liền vung tay nói với Bang-chủ và cô gái áo trắng:
- Hôm nay chúng tôi hân hạnh được dự ngày đại hội của nhị vị, ngặt vì chúng tôi không có chút lễ mọn nào gọi là lưu chút hậu tình, chúng tôi lấy làm áy náy.
Động chủ thấy Pháp-Vương chịu ở lại dự lễ cưới của mình, niềm vui lai láng, quay lại nói với cô gái áo trắng:
- Quí vị đây đều là những vật cao siêu trong giới võ lâm. Chúng ta được một vị đến dự cũng đủ vinh dự lắm rồi, huống hồ có cả...
Nói đến đây, động chủ vội dừng lại. Vì ông chợt nghĩ đến Dương-Qua, một chàng trẻ tuổi, võ công lại tầm thường, cứ như vừa rồi chàng đấu thử với Châu-bá-Thông chưa đầy một hiệp đã loi nhoi nhảy xuống đất, như thế võ công chàng kể vào đâu? Thật không đáng mặt liệt vào hạng cao nhân trong giới Võ-lâm. Tuy nhiên nếu bỏ chàng ra, chỉ nói đến "năm vị" e lại có điều bất lịch sự, do đó, động chủ ngập ngừng một lúc rồi lựa lời nói tiếp:
- Huống hồ chi nhiều vị anh hùng chiếu cố thế này.
Tiếp đó, Lão bô bô giới thiệu uy danh từng người, rất khách sáo. Cuối cùng đến Dương-Qua lão chỉ giới thiệu vắn tắt:
- Còn vị nầy là người họ Dương.
Pháp Vương cười thầm, gật gù nghĩ:
- Động chủ nầy khéo léo, mưu kế lại cao siêu, cứ xem lão tung lưới bắt Châu-bá-Thông cũng đủ biết mưu lược thế nào rồi. Tuy nhiên, tánh lão hơi hẹp hòi. Dương-Qua mới nói với Tiểu-Long-Nữ vài câu lão đã canh cánh để bụng.
Cô gái áo trắng nghe động chủ giới thiệu đến danh hiệu người nào cũng gật đầu, nhưng nàng luôn luôn với thái độ lạnh nhạt. Cho đến lúc Động chủ giới thiệu Dương-Qua, nàng cũng với vẻ mặt ấy, không hề thay đổi.
Dương-Qua đỏ bừng đôi má, lòng nôn nao như đợt sóng thủy triều. Động chủ nói gì chàng cũng không nghe được.
Na-mi-Tinh và Doãn-khắc-Tây vốn không hiểu rõ tâm trạng, cứ tưởng chàng vì nhận lầm người nên e thẹn áy náy, và họ không để ý đến.
Duy có Công-tôn Lục-Ngạc, con gái Động chủ, bấy giờ đứng sau lưng cha, mắt luôn luôn theo dõi Dương-Qua không bỏ sót một cử chỉ.
Nàng nghĩ thầm:
- Hồi sáng "Tình hoa" đã chạm vào đầu ngón tay hắn, khiến hắn bị đau, gây thảm não vào tâm hồn hắn, cứ xem bộ điệu là bà dì ghẻ của ta tất phải là ý trung nhân của hắn rồi! Sao lại có chuyện tình cờ như vậy? Biết đâu bọn người nầy kéo đến động ta cũng chỉ vì bà dì ghẻ của ta đó thôi.
Nàng khẽ nghiêng đầu nhìn cô gái áo trắng, thấy nét mặt cô nầy không có vẻ vui mà cũng không có vẻ thẹn thùng gì cả. Thật không phải dáng điệu người sắp làm dâu, khiến cho nàng càng nghi ngờ hơn nữa.
Dương-Qua tuy có tánh nóng nảy bồng bột, nhưng lại có một chút thông minh, nên cố lòng nén giận, thầm đoán:
- Cô mình cố ý làm lơ, không nhìn nhận mình, có lẽ cô mình đã sắp sẵn mưu kế gì đây chăng? Vậy mình cứ yên lặng dò xét xem sao.
Chàng đứng dậy, chắp tay vái động chủ một cái, rồi cất giọng nói:
- Thưa động chủ, vì tôi có một người bề trên, dung nhan giống hệt tân phu nhân đây, do đó, lúc nẫy tôi vội vã tưởng lầm, xin động chủ thứ lỗi cho.
Giọng chàng rất thanh tao và lễ độ, khiến động chủ đang giận cũng phải vui lòng. Ông ta đáp lễ, nói:
- Nhận lầm người quen đó là một việc thường, không có gì khinh mạng, xin lệnh tôn cứ an tâm.
Ngừng một lúc, Động chủ lại vui vẻ nói tiếp:
- Chỉ có điều tại sao trong đời lại có hai người giống hệt nhau để kẻ khác phải lầm lẫn nhỉ. Thật là chuyện lạ lùng.
Câu nói ấy, Động chủ tỏ ý tự đắc khen vợ sắp cưới của ông là một tuyệt thế giai nhân, trong đời không có một người thứ hai như vậy.
Dương-Qua nói:
- Thật vậy, Tiểu-tử cũng lấy làm lạ. Tại sao trong đời lại có hai sắc đẹp của hai người như một... Vậy tiểu-tử xin phép được biết tôn phu nhân danh hiệu là gì?
Theo tục lệ ở xứ Trung-Nguyên, người con gái không bao giờ ra chào khách một cách dễ dàng như vậy. Nhưng ở đây bọn Kim-luân Pháp-Vương vốn là người rợ miền Tây-vực, nên lễ nghi đều không cố chấp.
Khi thấy cô gái áo trắng bước ra chào không ai ngạc nhiên cả. Họ chỉ lấy làm lạ tại sao đã gần ngày cưới mà cô ta lại còn mặc đồ trắng mà thôi.
Bây giờ Dương-Qua hỏi tên vợ mình, Công tôn động chủ mỉm cười dùng lời nhỏ nhẹ đáp:
- Nàng họ Liễu! Vậy người quen của lệnh tôn có phải họ Liễu chăng?
Dương-Qua lắc đầu đáp:
- Không phải.
Nhưng chàng lại thắc mắc nghĩ thầm:
- Cô ta lại để ra họ Liễu để làm gì? Tại sao phải dấu tên họ. Bỗng nhiên chàng hiểu ra, lẩm bẩm một mình:
- A! Phải rồi! Vì ta là họ Dương nên cô ta đổi ra họ Liễu. Dương Liễu đấy mà!
Nghĩ như thế, chàng lại cảm thấy đau nhói ở cái đầu ngón tay, mày cau lại, mặt hơi tái.
Nàng Lục Ngạc thấy chàng tỏ vẻ đau đớn lấy làm thương hại, đôi mắt nàng vẫn đăm đăm nhìn vào Dương-Qua không bỏ sót một cử chỉ nào.
Dương-Qua cố nén lòng, nhưng bỗng vụt miệng hỏi Động chủ:
- Thưa động chủ! Tôn phu-nhân có phải là người con gái thứ hai không?
Công tôn động chủ ngạc nhiên không hiểu ý gì mà Dương-Qua lại hỏi như thế, nên nói:
- Tại sao lệnh tôn biết?
Dương-Qua mỉm cười nói:
- Tôi chỉ đoán chừng như thế chẳng biết có đúng hay không?
Mọi người đều im lặng, trầm lặng qua phút suy tư.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 047
ĐỘNG PHÒNG HOA CHÚC
Sở dĩ Dương-Qua hỏi câu đó là vì chàng nhớ lại một tiểu thuyết đời Đường do Liễu-Nghi sáng tác, trong đó có câu chuyện "Long-Nữ chăn dê" chàng nghĩ rằng Long-Nữ với họ Liễu vốn có nguồn gốc sâu xa, và chàng đinh ninh cô gái áo trắng trước mặt chàng chắc chắn là thầy võ của chàng. Đó là họ Liễu tất phải có liên quan đến Tiểu-Long-Nữ.
Công-tôn Động-chủ thấy Dương-Qua hỏi như vậy, có ý nghi ngờ, đưa mắt nhìn Dương-Qua, rồi lại nhìn cô gái áo trắng. Thấy cô gái áo trắng vẫn cúi đầu không nói một lời, làm cho ông ta khó chịu, muốn hỏi xem sao. Nhưng ông lại nghĩ:
- Việc đó không nên hỏi trước mặt mọi người, cứ để động phòng hoa chúc rồi sẽ hỏi cũng chẳng muộn.
Nhưng thấy Dương-Qua miệng cứ mấp máy mãi, làm cho ông không chịu nổi toan cất lời hỏi Dương-Qua thì chàng đã ứng tiếng hỏi tiếp:
- Liễu cô nương ấy không phải là người sinh đẻ nơi đây, vậy chẳng hay vì đâu Động chủ lại quen biết với nàng?
Câu hỏi của Dương-Qua làm cho Động chủ muốn biết lai lịch của nàng, người vợ mới cưới của mình, nên thầm nghĩ:
- Có lẽ thằng nầy biết rõ lai lịch cô gái nầy chăng? Thế thì ra không nên giấu giếm làm chi.
Ông ta bèn đáp:
- Dương Tráng-sĩ nhận xét quả không lầm! Cách đây nửa tháng tôi có ra ngoài núi hái thuốc, gặp nàng bị trọng thương nằm dưới chân núi, hơi thở thoi thóp. Xem qua tôi biết nàng vì luyện công quá sức, nên nguyên khí bị thoát ra ngoài hết. Tôi liền cứu chữa, và đem nàng về đây bàn tính chuyện xe duyên. Thực ra, việc nầy cũng là chuyện ngẫu nhiên, do tơ hồng khéo buộc.
Kim-luân Pháp-Vương cười ha hả xen vào:
- Đó thật là đúng "Duyên trời định". Cô nương vì muốn đem thân đền đáp nhân nghĩa, nên gởi má hồng vào động chủ. Như thế đẹp duyên biết là bao. Còn gì vui sướng cho bằng khi tình yêu thông cảm giữa đôi gái sắc trai tài.
Pháp-Vương nói thế mục đích tán nịnh động chủ, và cũng để chọc tức Dương-Qua đau buồn mà chơi.
Quả nhiên mặt Dương-Qua biến sắc thở dài nói:
- Té ra trên đời này lại có thứ linh đơn cứu khỏi bệnh cô nương. Tôi cứ tưởng bệnh ấy phải dùng máu tươi mới cứu nổi.
Cô gái áo trắng nghe Dương-Qua nói như vậy bỗng rú lên một tiếng, máu tươi trong miệng vọt ra đỏ ối, nhuộm đỏ cả một vạt áo trông rất ghê rợn.
Mọi người hoảng sợ, không ai bảo ai, nhất loạt đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi.
Nguyên Liễu cô nương nầy chính là Tiểu-Long-Nữ, chẳng phải ai khác.
Sau khi nghe câu chuyện của Hoàng-Dung, nàng nghĩ đi nghĩ lại tính toán đủ điều. Nếu nàng kết duyên với Dương-Qua thì làm nàng trọn đời bị người ta khinh bỉ, thóa mạ. Bằng cứ cùng chàng sống mãi trong cổ mộ thì lâu ngày chàng cũng phải mang mối sầu muộn ai bi.
Suốt mấy đêm dài, nàng vẩn vơ suy nghĩ mãi không sao chợp mắt được.
Kế đó trong một lúc cương quyết, nàng ngầm bỏ đi, nhưng trong tim nàng vẫn còn mang nặng mối tình yêu với Dương-Qua, một tình yêu quá nặng khắc ghi vào tâm khảm không thể phai mờ được.
Cho nên, sau những giờ phút phải vận hết lý trí để thắng tâm hồn, nàng đã thêm bơ vơ trong bụi đời hoang lạnh.
Nàng ra đi! Đi mãi không định hướng, mang theo một nỗi u buồn không bờ bến.
Rồi một ngày kia, vì buồn khổ quá, nàng phải đến một chân núi quạnh vắng để trấn nhiếp tâm hồn.
Nhưng tình yêu của nàng như dồn đầy tâm khảm, không còn có một sức nào có thể đè ép được nữa.
Trong lúc nàng vận nội công chế ngự, thì nhớ thương rào rạt tuông trào như sóng trùng dương, các kinh mạch đều bị xung phá, bệnh cũ tái phát dữ dội.
Nếu không gặp được Công-Tôn Động-chủ qua đường bắt gặp, và gia tâm cứu chữa, thì tấm thân ngà ngọc của nàng đã tan rã nơi núi vắng rừng hoang rồi!
Công-Tôn động chủ góa vợ đã lâu, đường tình ái đã phai nhạt, bỗng một sớm gặp Tiểu-Long-Nữ, một đóa hoa sắc nước hương trời, thật là một việc không thể tưởng tượng trong đời lão. Do đó, lòng hào hiệp của người không khỏi len lỏi vào một tình luyến ái. Lửa tình lại nổi dậy sưởi ấm lòng người cô quạnh kia.
Còn Tiểu-Long-Nữ bấy giờ đã có một tâm trạng chán đời. Lại sợ nếu mình sống cô độc lẻ loi thì không thể tự quản chế đau buồn. Mà lặn suối trèo non đi tìm kiếm Dương-Qua thì không khỏi di hại cho chàng.
Do đó, khi thấy Công-Tôn động chủ thổ lộ tâm tình, nàng cũng bằng lòng, và thầm nhủ:
- Một khi đã làm vợ người ta rồi thì mối dây oan nghiệt giữa nàng và Dương-Qua sẽ cắt đứt. Vả lại động thủy-tiên là chỗ u tịch, hoang vu, ai tìm đến. Tấm thân nàng đã được Công-Tôn động-chủ cứu sống thì kiếp sống thừa ấy cũng chẳng tiếc gì mà không đền đáp cho người ân. Kiếp nầy đã mong chẳng trọn còn mong gì cuộc lương duyên với chàng nữa.
Nàng có ý định như thế, nhưng trời chẳng chiều lòng người khiến Châu-bá-Thông chạy đến đại náo, khiến Dương-Qua tìm vào thủy tiên động. Và, hôm ấy bất ngờ trông thấy mặt chàng, nàng choáng váng cả đầu óc, ruột rối như tơ vò không còn biết tính làm sao nữa.
Nhưng Tiểu-Long-Nữ là kẻ điềm tĩnh, chỉ chốc lát nàng đã quyết định ngay:
- Mình đã hứa đính hôn với người khác, thế thì cũng nên làm mặt lạ đối với chàng cho xong. Thế nào chàng cũng giận và bỏ ra đi. Nhưng như vậy nàng an lòng hơn, vì một chàng trai tài năng tuấn tú chàng lo gì chẳng tìm được một người vợ xứng đáng? Nếu chàng có buồn bực đôi chút thì ngày kia chàng lấy được vợ chàng sẽ vui vẻ hơn, khỏi phải bị ràng buộc bởi hoàn cảnh khó xử của nàng, và chàng sẽ khỏi ôm hận suốt đời.
Vì thế, khi trông thấy Dương-Qua nàng đã cố giữ vẻ lãnh đạm, giả như không quen biết, mặc dù lòng nàng nóng như lửa bỏng.
Nhưng bản lĩnh con người không đủ để chế ngự bản năng. Dương-Qua đến, như đem đến cho nàng bao nhiêu hình ảnh xa xưa, những kỷ niệm êm đềm gợi ra trước mắt, và tình yêu dần dần xâm chiếm cả tâm hồn nàng mỗi lúc một xao động, đau khổ dày vò nàng ghê gớm.
Cho đến lúc nàng chợt nghe câu nói của Dương-Qua: "Tôi tưởng bệnh ấy phải dùng máu mới cứu nổi" thì nàng nghĩ ngay đến chuyện cũ trước kia ở trong cổ mộ, khi chàng cưu mang nàng.
Hồi đó, nàng bị Triệu-chí-Kinh và Doãn-chí-Bình chọc tức đến tức giận thổ huyết. Trong cơn nguy cấp chàng đã không nghĩ đến tánh mạng chàng, liền chích máu tươi của chàng, tiếp vào thân thể của nàng cho nàng được hồi sinh. Cái cảnh thân ái với mối tình tha thiết ấy nàng đã khắc vào tâm khảm, dấu kín trong tim. Nay bị khơi ra, nàng xúc động quá, máu nóng bốc lên mãnh liệt, và nàng bị thổ huyết rất ghê rợn.
Mặt nàng tái nhợt, nàng lảo đảo toan bước vào nhà trong nhưng Công-Tôn Động-chủ vốn giỏi về y lý, nên vội bảo:
- Không không! Em cứ đứng im đừng gượng bước, làm động đậy các gân mạch.
Đoạn lão quay lại nói với Dương-Qua:
- Ngươi hãy ra khỏi nơi nầy, và đừng bao giờ trở lại đây nữa.
Dương-Qua mắt đẫm lệ, không đáp lời Động chủ, quay lại nói với Tiểu-Long-Nữ:
- Thưa cô! Nếu tôi có lầm lỗi gì xin cô nương đánh tôi, mắng tôi hay giết tôi đi, tôi cũng cam lòng, sao cô nương lại nỡ làm lơ không nhìn đến tôi?
Tiểu-Long-Nữ cúi đầu không nói, chỉ ho vài tiếng, máu bắn ra xối xả.
Công-Tôn Động-chủ thấy Dương-Qua dùng lời nói khích đến nỗi vị hôn thê của ông thổ huyết, ông đã có ý giận. Nhưng ông vốn người có tánh kiên nhẫn, mặc dầu giận dữ cũng nén được.
Bây giờ lại nghe Dương-Qua nói nữa, lão cúi gầm mặt dằn mạnh từng tiếng:
- Nếu ngươi lấn khấn không chịu ra khỏi nơi đây thì đừng trách ta vô tình.
Dương-Qua lúc nầy đâu thèm để ý đến sắc mặt và lời nói của Động chủ. Chàng chăm chăm nhìn Tiểu-Long-Nữ, nói như van lơn, kêu cứu:
- Cô nương ơi! Tôi xin thề giữ trọn kiếp sống trong cổ mộ để hầu cô-nương quyết không hối tiếc sau nầy! Hai ta nên đi đi thôi.
Tiểu-Long-Nữ ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mặt Dương-Qua, thấy mặt chàng đầy vẻ thâm tình. Tim nàng đau nhói không sao chịu nổi:
- Nàng lẩm bẩm không ra tiếng:
- Ta theo chàng về thôi!
Nhưng nàng kịp nghĩ lại:
- Không, không! Lúc ra đi ta đã đắn đo suy nghĩ kỹ càng không phải bồng bột trong chốc lát. Chính giờ phút nầy mới là giờ phút cõi lòng ta nông cạn. Nếu ta không đủ sức đè nén thì sau nầy ta lại bị khổ tâm bằng mười trước kia.
Nghĩ như thế, nàng liền quay mặt đi nơi khác, miệng nói thì thào:
- Tôi không biết ông là ai! Ông nói gì tôi chẳng hiểu! Xin ông làm ơn đi ra khỏi nơi nầy, đừng quấy rầy tôi nữa!
Giọng nói nàng thều thào trong cổ họng như cố gắng lắm mới thốt ra được.
Tuy là lời từ chối, song bên trong chứa đựng cái gì tha thiết mến yêu.
Chỉ trừ Mã-quang-Tổ là người thật thà chất phác, không hiểu xa, còn hầu hết mọi người trong đại sảnh ai cũng thấy được lòng nàng còn lưu luyến Dương-Qua lắm!
Giọng nói của nàng như tiếng khóc, chứng tỏ lời nói trái ngược với lời nàng, và là một lời bất đắc dĩ.
Công-Tôn động chủ cảm thấy ghen tức, nhủ thầm:
- Liễu! Cô nương đã nhận lời thành thân với ta, nhưng từ trước tới nay chưa hề mở miệng nói với ta một câu nào âu yếm như thế.
Lão đưa mắt trừng Dương-Qua một cái, nhưng thấy Dương-Qua mặt mũi sáng sủa, tướng mạo khôi ngô, hùng khí hiên ngang, sánh với Tiểu-Long-Nữ thì đúng một đôi gái sắc trai tài trên đời có một.
Ông ta suy nghĩ:
- Xem như thế thì biết hai đứa nầy đã có một tâm hồn yêu thương mãnh liệt, chỉ vì một phút giận hờn nào đó, ả Liễu nầy bỏ đi, rồi gặp ta và nhận lời kết hôn, nhưng trong thâm tâm vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ.
Nghĩ như thế, đôi mắt lão long lanh, nực mùi ghen tức.
Phàn-nhất-Ông vốn trung thành với sư phụ, từ ngày sư-mẫu mất đi, hắn thấy sư phụ của hắn buồn bã không khuây. Thời nay, sư phụ hắn vào rừng hái thuốc, gặp được nàng hoa, bao nhiêu buồn bã như biến đi đâu mất. Do đó, thầy vui thì trò cũng vui lây.
Nào ngờ, hôm nay sư phụ hắn gần đến lúc làm tiệc cưới, động lòng hoa chúc thì Dương-Qua lại xen vào, dùng lời khiêu khích, xảy ra cớ sự lẽ ra sư-phụ hắn phải tỏ rõ thái độ, nhưng thấy sư phụ hắn cứ cắn răn nhịn nhục mãi, nên hắn nổi giận, chỉ vào mặt Dương-Qua hét lớn:
- Này, gã họ Dương! Mày dám vô lễ phạm đến vị sư mẫu của ta sao. Nếu biết điều mau bước ra khỏi động nầy. Sư phụ của ta không thích hạng khách vô lễ như mi.
Dương-Qua đang đau đớn trong lòng, còn để ý gì đến lời nói của kẻ xung quanh. Tuy có tai nhưng chàng không nghe thấy tiếng quát của Phàn-nhất-Ông, chàng vẫn với vẻ mặt đăm chiêu, nhìn Tiểu-Long-Nữ nói:
- Cô nương! Thật cô nương đã quên mất đứa em nầy chăng?
Phàn-nhất-Ông nổi nóng không còn nhịn nhục được nữa, dùng tư thế lợi hại, chụp vào cổ của Dương-Qua lôi tuốt ra ngoài.
Ai cũng tưởng với sự bất ngờ của Dương-Qua, Phàn-nhất-Ông sẽ nắm cổ dễ như chơi. Nào ngờ tay Phàn-nhất-Ông vừa động tới, Dương-Qua đã giật mình vội vận gân cốt chống lại. Chỉ nghe một tiếng "xoạc" bàn tay Phàn-nhất-Ông tuột xuống, nắm trúng vạt áo của Dương-Qua xé rách một lỗ rất lớn.
Tuy vậy, Dương-Qua cũng không thèm quay lại phản ứng. Chàng vẫn tiếp tục dùng lời van vỉ Tiểu-Long-Nữ.
Thấy Tiểu-Long-Nữ không nhìn nhận chàng, lòng chàng nóng như lửa đốt. Giá như lúc ở trong cổ-mộ, hay lúc gặp nàng một nơi nào khác có lẽ Dương-Qua còn năn nỉ nhiều hơn. Nhưng ở đây nơi trang viên của Công-Tôn Động-chủ, trước mặt đông người. Chàng cũng dè dặt phần nào.
Giữa lúc đó, Phàn-nhất-Ông thấy mình nắm hụt Dương-Qua, tức giận chờn vờn toan làm lại một lần nữa.
Dương-Qua tức giận, quay lại gây gổ cho hả giận:
- Khốn nạn! Ta đang nói chuyện với thầy ta, can chi đến thằng lùn mà mi lắm chuyện thế.
Phàn-nhất-Ông phùng má, trợn mắt hét lại:
- Ai cho phép mày phá rối sư mẫu tao? Mày dám nhận sư mẫu tao là thầy mày à? Thằng điên! Mau cút ra khỏi động, nếu đứng đó đừng trách tao khiếm nhã.
Dương-Qua vùng vằng nói:
- Ta không đi! Cô nương ta còn ở đây thì ta cũng ở đây mãi. Dẫu bọn bây có bằm xương xé thịt tao cũng quyết ở gần cô nương tao mà thôi.
Lời nói nầy chính Dương-Qua muốn nói với Tiểu-Long-Nữ hơn là nói với lão Phàn lùn kia.
Công-Tôn động chủ liếc nhìn Tiểu-Long-Nữ thấy mặt nàng đổi khác, vẻ lãnh đạm không còn nữa, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, rơi xuống từng giọt hòa với vọt máu ướt đẫm trên ngực. Ông ta vừa lo ngại, vừa chua chát trong lòng, vội đưa mắt ra hiệu cho Phàn-nhất-Ông thầm bảo hạ độc thủ, kết liễu sinh mạng Dương-Qua để dứt mối tình lưu luyến giữa hai người.
Phàn-nhất-Ông nhận được lệnh của sư phụ rất ngạc nhiên. Nãy giờ lão tướng Công-Tôn Động chủ chỉ có ý đuổi Dương-Qua ra khỏi động mà thôi, nào ngờ ông ta lại có ý giết Dương-Qua một cách đột ngột như vậy.
Phàn-nhất-Ông nói lớn:
- Hôm nay là ngày vui của sư-phụ chẳng lẽ tôi lại giết người ư?
Dứt lời, Phàn-nhất-Ông đưa mặt nhìn Công-Tôn-Động chủ một lần nữa. Nhưng Công-Tôn Động-chủ lại ra dấu bảo không kiêng cữ gì cả.
Ông ta tỏ ý:
- Muốn cho cuộc vui được hoàn toàn phải hy sinh một vài phút buồn bã.
Phàn-nhất-Ông liền đưa cao cây thiết trượng, đập xuống đất một cái làm rung chuyển cả trang viện, và hét lớn:
- Thằng oắc con này! Mày không sợ chết hả!
Dương-Qua bây giờ trong lòng ngực nóng như đốt. Máu họng như chực trào ra. Bởi vì theo phái Cổ-Mộ đài, đã luyện ngọc-nữ tâm kinh, muốn giữ nội công phải triệt để khắc kỹ nén dục.
Cũng vì thế mà trước đây sư phụ của Tiểu-long-Nữ muốn cho nàng dứt bỏ hẳn mọi thất tình: ai, lạc, hỉ, nộ, ái, ố, dục, để trở nên một người đầy đủ nội công, truyền kế phái Cổ-Mộ đài. Nhưng sau đó, vì Tiểu-long-Nữ động chạm với đời, không dứt bỏ mối thất tình nên đã mấy phen thổ quyết.
Dương-Qua được nàng truyền lại phép nội công của phái Cổ-Mộ thì cũng như nàng, mỗi khi tâm hồn căng thẳng nội tạng bị tổn thương, tay chân chàng lạnh toát, và máu trong người muốn chảy ngược lên.
Chàng lẩm bẩm:
- Ta mửa máu ra trước mặt cô nương xem cô có còn nhẫn tâm không?
Nhưng chàng lại chợt nghĩ:
- Từ trước đến nay cô nương đối xử với mình rất luyến ái, hôm nay bỗng nhiên cô nương có thái độ lạnh nhạt như vậy chắc nội tình có gì rắc rối đây! Có lẽ lão động chúa đã dùng một quyền lực nào ép buộc cô nương, cô nương không dám nhìn nhận ta chăng? Nếu ta không nén lòng, để bị thương thì lấy ai giải cứu cho cô nương thoát khỏi tay chúng nó trong lúc này. Ta cần chiến thắng bọn chúng rồi sẽ liệu.
Nghĩ như vậy Dương-Qua không còn đau đớn vì cử chỉ của Tiểu-Long-Nữ nữa. Chàng trấn tĩnh tinh thần ngay, khí nóng chìm xuống đau điến.
Chàng mỉm cười nhìn Phàn-nhất-Ông nói:
- Cái hẻm núi nầy thật chán ngấy! Lúc ta đến không ai đón mời, giờ ta muốn đi thì cũng không ai van xin ta ở nán lại.
Mọi người thấy Dương-Qua đang bị kích động, thần sắc tiều tụy, bỗng nhiên trở lại bình thường, mặt mày thanh thản, lấy làm lạ trố mắt nhìn nhau.
Phàn-nhất-Ông không có tánh hiểm hóc, giết người như Nãi sư âm chí, nên lão chỉ dọa nạt, không cố ý giết Dương-Qua.
Lão vung thiết trượng lên. Một làn gió thổi tới vùn vụt, làm áo Dương-Qua tung lên phơi phới. Lão hét:
- Mày có chịu ra khỏi chỗ này hay không?
Công-Tôn Động chủ thấy thế nhíu đôi mày, nói với Nhất-Ông:
- Sao mi làm ồn ào như thế mà chưa được việc gì.
Nhất-Ông nghe lời nói sư phụ nửa trách phạt, nửa truyền lệnh, liền vung thiết trượng phất ngang qua đôi giò của Dương-Qua với một tư thế rất mãnh liệt.
Nàng Công-Tôn Lục-Ngạc vốn biết Nhất-Ông vị sư huynh của nàng được truyền hết võ công, nên cây thiết trượng ấy đã vung ra mạng người khó sống. Nhất-Ông đã dùng cây trượng ấy đập chết không biết bao nhiêu mãnh thú trong rừng hoang. Hôm trước tuy chính mắt nàng đã trông thấy Dương-Qua vận nội công chịu đựng với sức lửa trong nhà đá, với sức nội công ấy cũng gọi là độc đáo lắm, song tuổi Dương-Qua còn trẻ, căn bản tập luyện chưa uyên thâm, làm sao chịu nổi cây thiết trượng của sư huynh nàng. Nếu hai người đã giao đấu thì thất bại tất về phần Dương-Qua, mà nàng không thể nào cứu vãn nổi.
Nghĩ thế nàng đánh liều đứng dậy, phóng mình đến bên Dương-Qua, mặc dầu trong lúc đó vẻ mặt cha nàng đang căm giận không thể tả.
Nàng cất tiếng trong như ngọc gọi Dương-Qua nói:
- Dương công tử ơi! Chớ đa đoan làm gì. Lẽ nào không xem sinh mang mình là nặng?
Bọn Kim-luân Pháp-Vương ai nấy đều quay mặt nhìn về phía nàng Lục-Ngạc. Họ ngạc nhiên không hiểu tại sao nàng có cử chỉ ấy đối với Dương-Qua.
Có người nghĩ thầm:
- Thằng bé này vừa vào đây với chúng mình một lúc chẳng biết hắn ta thừa dịp nào tán tỉnh con gái kia, mà coi mòi cô gái kia đã có tình ý với nó?
Nghe Lục-Ngạc nói, Dương-Qua mỉm cười, gật đầu đáp:
- Đa tạ cô nương hảo ý. Vậy tôi xin hỏi cô nương có muốn dùng bộ râu dài kết làm sợi dây buộc lưng mà chơi không?
Lục-Ngạc bỡ ngỡ, không hiểu, hỏi lại:
- Sao? Công tử muốn nói gì vậy?
Dương-Qua đáp:
- Nghĩa là tôi sẽ bứt hết bộ râu của lão lùn nầy tặng cô nương làm món đồ chơi. Cô bằng lòng chứ?
Lục-Ngạc cả người run lên! Nàng không ngờ Dương-Qua lại dám ăn nói lỗ mãn và khinh người như thế. Trong động nầy kỷ luật rất nghiêm, nàng dám đến khuyên Dương-Qua một cầu như thế cũng là mạo hiểm lắm rồi, huống hồ Dương-Qua kẻ được nàng khuyên nhủ lại buông lời thóa mạ, làm nhục Nhất-Ông vị sư-huynh khét tiếng của nàng.
Nàng đỏ mặt, đứng im, không dám nói thêm lời nào.
Phàn-nhất-Ông tuy thân người lùn tịt, cao không quá một thước ba, nhưng bộ râu dài, xưa nay đã nhờ nó làm oai với thiên-hạ, nay nghe Dương-Qua đòi bứt râu mình, lão giận quá, động cây thiết trượng xuống đất một tiếng "bùng" rồi phóng mình nhảy tới một bước, hét:
- Thằng con nít! Ta cho mày biết bộ râu này.
Hàm râu của lão bây giờ cũng tung tăng như đang giận dữ, quật qua quật lại trước mặt Dương-Qua.
Dương-Qua không lùi bước, chỏ miệng vào Nhất-Ông, nói:
- A! Thế ra ông muốn tôi bứt giùm bộ râu của ông phải không? Nào, thử xem?
Vừa nói, Dương-Qua vừa đưa tay ra đằng sau rút một cái kéo lớn lướt tới như muốn xẻo râu địch thủ.
Lão Phàn vội quật ngược bộ râu về đằng sau, rồi bất thần đập xuống đầu Dương-Qua một trượng.
Dương-Qua lẹ làng né khỏi và thừa cơ nhảy phóng tới dùng lưỡi kéo nhắp một cái. Một tiếng "soẹt" nghe rợn người, lão Phàn vội nhảy ra đằng sau mới tránh khỏi. Nếu chậm một chút bộ râu kia đã rơi xuống đất rồi.
Lão Phàn tức giận vô cùng, nói:
- Ta sẽ dùng bộ râu nầy đánh mày cho mà biết tay.
Thật ra, bộ râu của lão Phàn đã có công lực trên ba mươi năm nay lại thêm đôi bàn tay giúp sức, râu ấy thành ra một thứ nhuyễn tiên (roi mềm) vân tráo (chổi mây) lợi hại vô cùng. Lão cứ lắc đầu, vận cổ, dùng tay điều khiển bộ râu quất qua quất lại nghe vun vút, đánh thẳng vào đầu vào mặt Dương-Qua.
Dương-Qua vận hết sức mình vào lưỡi kéo, chân nhảy chập chờn tay nhắp lia lịa, phát ra những tiếng "xoẹt xoẹt" liên hồi.
Nguyên lưỡi kéo này trước kia Dương-Qua đã nhờ Phùng-mặc-Ông rèn cho dùng để đối phó với cây phất trầ của Lý-mạc-Thu.
Dương-Qua nghĩ rằng Lý-mạc-Thu có đôi bàn tay "ngũ độc thần chưởng" lại cầm cây phất trần lợi hại, vung vẩy dọc ngang khắp chốn giang hồ. Công phu "vận trảo" (chổi mây) đã khiến cho Lý-mạc-Thu nổi tiếng, nên Dương-Qua muốn dùng cây kéo lớn để trị Lý-mạc-Thu.
Chàng đã nghiên cứu kỹ về thuật "vận trảo" của Lý-mạc-Thu và dự liệu cây phất trần của Lý-mạc-Thu sẽ đánh cách nào và chàng sẽ dùng kéo cách nào để có thể cắt đứt cây phất trần của Lý-mạc-Thu được.
Nào ngờ cây kéo của chàng chưa đấu với Lý-mạc-Thu lần nào thì hôm nay vào động Thủy-Tiên, chàng đã phải đem ra để đấu với bộ râu dài của lão lùn nầy.
Chàng vừa đánh vừa lẩm bẩm:
- Bộ râu của mày dẫu có lợi hại đến đâu cũng không bằng cây phất trần của Lý-mạc-Thu được.
Tuy là cái kéo và bộ râu hai bên đấu nhau kịch liệt, bộ râu quất vun vút, trong lúc cây kéo xoẹt xoẹt nhắp mãi không ngừng.
Mọi người không ai bảo ai đều quan niệm một cuộc đấu hào hứng, trố mắt nhìn vào hai đối thủ với vẻ thích thú vô cùng.
Hồi sáng, Châu-bá-Thông cũng dùng kéo cắt râu lão lùn, nhưng cắt đã chẳng được còn bị lão lùn cuốn râu quấn chặt kéo, làm cho Châu-bá-Thông phải bỏ kéo đi. Nào ngờ lúc này, Dương-Qua lại sử dụng cây kéo để cắt râu lão nữa.
Tuy nhiên, cây kéo của Dương-Qua khác hẳn với cây kéo của Châu-bá-Thông. Chàng đưa ngang đâm dọc, khi múa khi thu, cứ đuổi theo bộ râu như bám sát vào địch thủ. Trông đó đủ biết cây kéo Dương-Qua lợi hại hơn cây kéo của Châu-bá-Thông nhiều.
Thật ra, xét về vũ thuật và nội lực thì Dương-Qua tuy đã tự mình nghiên cứu thành một phái riêng, song chàng chỉ mới có tập luyện mấy năm, làm sao bì được Châu-bá-Thông. Sở dĩ chàng có nhiều kinh nghiệm thuật dùng kéo là vì chàng đã được đụng độ với Lý-mạc-Thu nhiều lần. Trông vào lối đánh phất trần của Lý-mạc-Thu, Dương-Qua đã học được một bài học về "vận trảo", do đó chàng nghiên cứu cách đả phá rất hữu hiệu.
Chỉ chốc lát, ngọn kéo của Dương-Qua lanh lẹ phi thường, và lão Phàn không còn dùng bộ râu để trấn áp cây kéo của chàng nữa.
Bộ râu của lão Phàn công lực cũng na ná như cây phất trần của Lý-mạc-Thu, chỉ khác chút ít về chi tiết, nên lối đánh râu của lão cũng khá lợi hại.
Lúc đầu lão khinh thường Dương-Qua nên đã mấy lần suýt bị hớt râu, sau đó lão phải dè dặt, đổi phép quật râu, múa lên trên quay, và tung hoành như vũ bão.
Có lúc bộ râu chỉ quật nhẹ để nhử địch, rồi dùng chưởng phong đánh tới, đôi tay lão chỉ đưa lên, rồi dùng bộ râu quất ngang rất mạnh. Nói chung là lối sử dụng "vận trảo" hư hư, thực thực, không thể nào lường được. Thật là một công phu kỳ diệu chưa từng thấy trong giới võ lâm.
Dương-Qua cố hạ bộ râu, nhưng mãi không sao hớt được, chàng tự nhủ:
- Lão nầy là đồ đệ của động chủ mà công phu thâm hậu đến thế nầy, nếu ta không thắng được đồ đệ thì mong gì đánh được thầy.
Chàng cảm thấy sốt ruột, dồn hết tinh thần vào cây kéo, bám sát vào bộ râu.
Nhưng bộ râu lão Phàn còn dài và rậm hơn cây phất trần của Lý-mạc-Thu. Lão quất tới quất lui rất kín đáo, không hề sơ hở tí nào.
Dương-Qua liệu thế không thắn nổi, liền nhảy lui ra đàng sau ba trượng, định thần nhìn lại lối quất râu của lão Phàn để tìm kế thủ thắng.
Chàng thấy lão lắc lư cái đầu nhỏ xíu, đánh ngược, đánh xuôi để điều khiển hàm râu. Bỗng chàng hớn hở reo lên như tìm một bí quyết gì vậy.
- A! Hãy khoan! Này lão Phàn, ta rất tiếc!
Lão Phàn dừng lại hỏi:
- Mày đã không thắng nổi ta, tại sao không chịu ra khỏi nơi đây.
Dương-Qua trợn mắt cười hì hì nói:
- Nãy giờ ta chưa hớt bộ râu của mi là vì ta tiếc cho mi đó thôi. Bộ râu của mi phải săn sóc bảo vệ hơn mấy mươi năm trời mới được như vậy. Bây giờ ta chỉ nhắp một cái là rụng sạch. Như thế có làm cho mi đau đớn chăng?
Lão Phàn thấy Dương-Qua làm bộ mặt quái gở, nói khích như thế, tức giận bước tới, nói:
- Thằng con nít! Đã đánh không lại ta mà không chịu thua còn nói dóc.
Dương-Qua nói:
- Ta chỉ đánh với ngươi trong ba hiệp nữa thì hàm râu ngươi rụng mất.
Lão-Phàn cười hề hề:
- Thật mày là con ếch dưới đáy giếng, nhìn trời không lớn bằng cái vung. Mày cứ hớt thử bộ râu tao xem?
Dương-Qua vừa cầm kéo xông vào vừa nói:
- Đáng tiếc! Đáng tiếc!
Lão Phàn vội tung ra một chưởng, Dương-Qua đưa tay trái gạt ra, tay mặt chìa mũi kéo đâm vào má lão. Lão Phàn vội nghiêng đầu toan tránh, không ngờ Dương-Qua lại lẹ làng dùng tay trái đánh vào má bên phải của lão.
Đòn nầy rất lẹ làng và độc hiểm, nhưng lão né tránh, rất nhanh. Chẳng ngờ trong lúc lão phải lo dùng đầu né tránh mấy đòn của Dương-Qua, bộ râu không còn điều khiển được nữa. Một làn gió phất bộ râu lão tung lên, Dương-Qua lẹ tay đưa kéo hớt một cái.
Một tiếng "xoẹt" phát ra, cả bộ râu dài của lão bay phơi phới, rơi nhẹ xuống đất như một bó chổi sổ.
Ai nấy đều ngạc nhiên không hiểu tại sao Dương-Qua đánh hơn năm mươi hiệp đầu không thắng, mà chỉ có ba hiệp sau chàng lại hớt đứt bộ râu.
Thực ra không có gì là khó hiểu. Dương-Qua là một kẻ khôn ngoan lanh lợi. Trong lúc nhảy ra ngoài, Dương-Qua đã nắm được nhược điểm trong thuật đánh râu: Trước khi râu lão phất về bên trái thì đầu nghiêng về phía tay phải, trước khi tung ngược thì đầu lão phải cúi xuống. Nói chung là lão đã dùng đầu để điều khiển bộ râu.
Biết được yếu tố ấy, Dương-Qua tự nghĩ:
- Hàm râu lão đánh mình được là nhờ ở cái đầu của lão, thế là mình không đánh vào chỗ gốc lại cứ đấu chọi với cái đuôi râu thì thật ngu ngốc quá.
Thế là chàng trực tiếp tấn công vào cái đầu. Và chỉ trong ba hiệp chàng đã cắt được bộ râu như chơi.
Bấy giờ lão Phàn bị cụt râu, mặt mày như chết điếng, đôi mắt thao láo, đau đớn nhìn từng sợi râu bay phất phơ trên mặt đất. Lão vừa căm giận vừa hối tiếc, vung tay cầm lấy cây thiết trượng gầm lên như thú dữ:
- Hôm nay ta quyết một sống một chết với mày. Mày đừng hòng thoát ra khỏi nơi đây.
Dương-Qua cười ha hả đáp:
- Thì ta đâu có nghĩ đến chuyện bỏ động ra đi.
Câu nói kinh khủng của Dương-Qua, làm cho lão Phàn càng tức giận thêm. Trong lúc đó Mã-quang-Tổ đứng một bên, thấy hàm râu lão Phàn trong chốc lát đã cụt lủn, không nhịn cười được, nói lớn:
- Bớ lão Phàn! Tướng ngươi đã lùn mà còn cụt râu nữa thì khó coi quá.
Lão Phàn cúi mặt xuống, cắn môi vận hết nội lực, quất cây thiết trượng vào lưng Dương-Qua một đòn rất mạnh.
Dương-Qua tuy nãy giờ đã đấu với lão nhiều hiệp, song chỉ mới đấu bằng nhu lực của bộ râu, chứ chưa rõ sức gân cốt của lão như thế nào.
Giờ đây bị lão dùng thiết trượng đánh tới, Dương-Qua vội vàng kéo ra đỡ.
Tức thì, một tiếng "choang" rất lớn, như muốn chát tai, cánh tay chàng tê đi, cây kéo bị cây thiết trượng đập trúng trông chẳng còn hình dạng gì nữa. Trên tay chàng chỉ còn một lõi sắt vô dụng.
Mọi người thất kinh không dám chế riễu lão Phàn nữa, vì biết nội lực của lão phi thường, và nghĩ rằng Dương-Qua không sớm thì muộn cũng phải bị nát thây dưới cây thiết trượng của lão.
Nàng Lục-Ngạc thấy vậy vội nhảy đến kêu lên:
- Dương công tử! Công tử không thể nào chống lại với sức nội công của sư huynh tôi đâu, xin chớ đấu nữa.
Công-Tôn Động chủ thấy con gái mình một lần nữa lo lắng cho kẻ thù, mặt hầm hầm sát khí. Ông liếc mắt nhìn về Tiểu-Long-Nữ thì thấy nàng vẫn thản nhiên không chút lo âu.
Hai thái độ ấy làm Động chủ buồn vui lẫn lộn. Ông buồn cho đứa con gái của ông ít , nhưng vui với Tiểu-Long-Nữ thì nhiều.
Ông nhủ thầm:
- Té ra nàng chẳng có gì tình với thằng đó cả. Nếu đã có tình thì trong lúc hắn lâm nguy, mặt nàng không thể giấu được nỗi lo âu.
Thật ra động chủ đã lầm! Tiểu-Long-Nữ dư biết Dương-Qua mưu trí có thừa, mà võ nghệ cũng chẳng đến nỗi thua sút lão Phàn. Hai bên đấu nhau, chàng chỉ có thắng chứ không thể bại. Vì vậy nàng chẳng cần phải để tâm lo ngại.
Bỗng thấy Dương-Qua ném cây kéo vô dụng xuống đất, gọi lão phàn nàn:
- Này Phàn-huynh! Ông thật không phải là đối thủ của tôi. Hãy quăng thiết trượng đi mà chịu thua cho sớm.
Lão Phàn căm giận hét lớn:
Mày thắng nổi cây trượng nầy tao sẽ húc đầu vào đá mà chết.
Dương-Qua cười lớn:
- Thật sao? Xin Phàn-huynh chớ nói thế mà hối hận không kịp.
Chàng nói chưa dứt thì cây thiết trượng của lão Phàn đã nhắm ngay đầu Dương-Qua đánh xuống một cái "vút". Đó là ngón "Thái sơn áo đỉnh" rất lợi hại.
Dương-Qua né mình qua một bên tránh khỏi, rồi lại dùng chân đạp cây thiết trượng.
Phàn lão dùng hết sức mạnh giơ cây trượng lên thì cả thân mình Dương-Qua cũng tung lên theo cây thiết trượng. Tuy nhiên chân chàng vẫn dính vào đó không rơi.
Phàn lão nổi giận giơ lên giơ xuống, thì thân mình Dương-Qua cũng tung lên, hạ xuống theo cây thiết trượng không rời.
Lão giận quá, toan trở đầu thiết trượng lại cho Dương-Qua xuống đất thì Dương-Qua đã lẹ làng đạp luôn chân mặt lên thiết trượng, rồi bước tới tung chân đá phóc vào mặt lão.
Phàn lão bối rối, nếu bỏ thiết trượng xuống thì xấu hổ, còn về đàng sau tránh né thì đồng thời lối đích theo, làm sao tránh được?
Trường hợp nầy nếu còn bộ râu thì lão có thể sử dụng, lắc đầu đét ngang một cái, quất vào chân Dương-Qua. Nhưng bộ râu lão đã cụt lủn rồi, còn dùng sao được nữa.
Cuối cùng, lão đành phải chịu buông thiết trượng.
Một tiếng huỵch" nặng nề, cây thiết trượng rơi xuống đất, và Dương-Qua cũng đáp xuống nhẹ nhàng.
Thừa cơ hội, Dương-Qua đớp lấy thiết trượng cầm tay.
Bọn Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh, Tiêu-tương-Tử cùng reo lên một lúc. Dương-Qua động đầu trượng xuống đất, hất hàm cười lớn:
- Thế nào đây?
Lão Phàn thẹn đỏ mặt nói:
- Vì sơ ý chốc lát, ta mắc quỉ kế của mi! Ta đâu chịu phục.
Dương-Qua nói:
- Thế thì đấu lại?
Dứt lời, Dương-Qua nhẹ nhàng ném cây thiết trượng về phía Phàn. Nhưng còn cách lão độ ba thước thì Dương-Qua đã phóng mình đến đoạt lại trong lúc lão Phàn chưa kịp đớp lấy.
Bọn Mã-quang-Tổ thấy thế reo hò ầm ĩ.
Mặt lão Phàn sắc đỏ đổi qua sắc tía, rồi lần lần thâm lại vì xấu hổ.
Kim-luân Pháp-Vương và Doãn-khắc-Tây nhìn nhau mỉm cười, thầm khen Dương-Qua người trẻ tuổi mà có nhiều mưu lược.
Hôm trước, Châu-bá-Thông đã dùng mâu, lao người dùng hết sức giật mạnh, khi ngọn mâu đến nửa chừng ông ta bỗng quay sang hướng khác. Có lẽ Dương-Qua đã học được lối "gấp khúc" nầy.
Công tôn động chủ và bọn đồ đệ thấy Dương-Qua ranh mãnh như vậy đều có ý lo sợ.
Dương-Qua lại hỏi lão Phàn:
- Thế nào? Có muốn thử lần nữa hay thôi?
Lão Phàn nghĩ rằng râu lão bị cắt, thiết trượng của lão đoạt chỉ vì thua trí chứ không phải thua sức nên lão vẫn tự quát lớn:
- Nếu ngươi dùng lực thắng nổi ta thì ta mới chịu phục.
Dương-Qua cười nhạt, nói:
- Đạo học võ lấy xảo" làm đâu. Sư-phụ của ngươi ngu xuẩn chẳng ra chi, nên đào tạo một lũ đồ-đệ dốt nát; Ta khuyên ngươi đi tìm một ông thầy khác học thêm là hơn!
Câu nói nầy chính Dương-Qua muốn khiêu khích Công tôn động chủ. Nhưng lão Phàn căm tức, thầm nghĩ:
- Mình học võ nghệ không còn cách gì thắng nổi nó thì nên tự vận mà chết để tạ tội với sư phụ.
Nghĩ như thế, lão nghiến răng ken két trợn mắt nhìn Dương-Qua như muốn nuốt sống ăn tươi.
Dương-Qua trao cây gậy tận tay lão Phàn, và nói:
- Lần nầy phải giữ gìn cẩn thận, nếu để ta đoạt nữa thì oán trách ta nhé.
Lão Phàn không đáp đưa tay nhận lấy thiết trượng, nghĩ thầm:
- Lần nầy nó muốn đoạt thiết trượng thì chỉ có cách nó chặt cánh tay ta trước mới có thể đoạt nổi.
Lão cầm thiết trượng thủ thế, rồi thuận tay vút mạnh vào người Dương-Qua.
Nhưng vừa loáng một cái, đã nghe Dương-Qua gọi lớn:
- Coi chừng!
Dứt tiếng, người chàng xông về phía trước tay trái chộp được đầu trượng, tay mặt dùng hai ngón tay xỉ vào mặt lão Phàn. Đó là một tư thế "Ngạo khẩn đoạt trượng" một thế tuyệt diệu "đả cẩu bổn pháp".
Năm xưa, tại đại hội cái bang, Hoàng-Dung đã dùng thế nầy đoạt lấy cây gậy trúc trong tay Dương-Khang, lúc Dương-Khang mạo danh làm bang chủ phá rối ở động đình.
Dương-Qua đoạt thiết trượng của lão Phàn hai lần trước, người trông thấy tuy cảm phục thủ pháp kỳ diệu độc đáo, nhưng vẫn chưa kinh khủng bằng lần này, vì lần này không ai trông thấy Dương-Qua làm cách nào mà lại đoạt cây thiết trượng một chớp nhoáng như vậy. Ngay như lão Phàn cũng không thể thấy cái ảo diệu ở trong, chỉ thấy chớp mắt một cái, thiết trượng đã về tay Dương-Qua rồi!
Mã-quang-Tổ vỗ tay la lên:
- Lão lùn trụi râu! Lần nầy hẳn lão đã phục tùng rồi chứ?
Dương-Qua thấy mặt lão Phàn đỏ ngầu, chàng cười ha hả, quăng trả cây thiết trượng lại cho lão, và nói:
- Thôi được cứ thử chơi vài "keo" nữa xem sao?
Mọi người thấy Dương-Qua có nhiều điêu thuật, tay không đoạt gậy như chơi, nên cũng muốn để cho chàng biểu diễn thêm vài môn nữa cho ngoạn mục.
Nhưng lão Phàn thị lại nghĩ khác. Lão thấy Dương-Qua lanh lẹ có nhiều ngón độc, dù lão cố giữ gậy cũng chẳng được nào, nên đáp:
- Ta sử dụng vũ khí dài và nặng, nếu thắng ngươi chẳng có gì là danh dự.
Dương-Qua cười lớn đáp:
- A! Thế ra ngươi đã sợ cái công lực dùng tay không đoạt vũ khí của ta rồi. Vậy thì để ta cũng dùng thứ vũ khí đấu với ngươi.
Dứt lời, chàng quắc mắt nhìn quanh đại sảnh, thấy trống trơn chẳng có một món nào có thể dùng làm binh khí được. Chàng lại nhìn ra sân thấy gần đó có hai cây liễu, thân cây và cành khá lớn, lá xanh rũ xuống rợp màu.
Chàng quay lại nhìn Tiểu-Long-Nữ, nói:
- Ngày xưa cành tốt biết nay có còn? Cô nương muốn dùng họ Liễu thì em cũng xin dùng cành liễu làm binh khí để đánh chúng nó vậy.
Nói câu nầy, Dương-Qua đã lấy ý ở trong câu thơ của Hàn-Hoành ở đời Đường gởi về cho vợ là Liễu thị.
Trong bài thơ ấy có câu.
Chương đài liễu, chương đài liễu
Tích nhật thanh thanh, kim tại phủ
Tùng sử trướng điều tự cựu thùy
Dã ứng phan chiết tha nhân thủ.
Nghĩa là:
Liễu chương đài, liễu chương đài,
Ngày xưa xanh tốt, biết nay có còn?
Tơ dài, như vẫn còn buông
Ngại rằng ai bẻ cành non mất rồi!
Dứt lời, chàng không cần nhìn lại vẻ mặt Tiểu-Long-Nữ, phóng mình chạy về phía trước sân, bẻ một cành liễu lớn, đường kính hơn một tấc, dài đến bốn thước, đầu đuôi trơn tru, giống như cây đả cẩu bổng ở tổng hội ăn mày Cái Bang vậy.
Tiểu-Long-Nữ xôn xao trong lòng, không biết sự việc sau này sẽ đi đến đâu, và nàng sẽ phải quyết định ra làm sao nếu, Dương-Qua cứ lầy dầy ở đó mãi. Dương-Qua càng ở lâu trước mặt nàng bao nhiêu thì nàng càng khó chịu bấy nhiêu. Bởi vì, dự tính của nàng là cắt đứt mối tình giữa nàng và Dương-Qua, tìm một hoàn cảnh khác để khuây khỏa, mặc dầu hoàn cảnh ấy không tốt đẹp gì.
Nàng nghĩ thầm:
- Nếu cứ đứng đây nhìn chàng mãi, mỗi cử động, mỗi lời nói của chàng chẳng khác gì một đốm lửa nung vào lòng ta, chi bằng ta ra đàng sau cho khuất mắt là hay hơn.
Tuy nghĩ thế, nhưng chân nàng không sao bước đi được. Chẳng biết sức mạnh vô hình nào đã giữ nàng mãi ở đây để chịu cảnh khổ đau.
Phàn-nhất-Ông thấy Dương-Qua không dùng binh khí sắc bén chỉ dùng cành liễu như đồ chơi trẻ con, thì lão cho là chàng có ý khinh lão lắm. Lão có ngờ đâu chính cây gậy trúc đánh chó của ăn mày cũng chỉ chừng đó thôi, mà có thể đánh bạt mọi dáo to, kiếm sắc! Cái ào diệu ở chỗ là biết dùng gậy mà thôi.
Cành liễu của Dương-Qua tuy không bằng cây gậy trúc của Hồng-thất-Công song cũng đủ áp đảo cây thiết trượng của lão Phàn rồi.
Mã-quang-Tổ thấy Dương-Qua không tìm được vũ khí, phải dùng tạm cành trúc làm gậy, nên gọi lớn, nói:
- Này chú Dương! Ta cho chú mượn cây đao của ta đây.
Vừa nói, Mã-quang-Tổ vừa rút đao ra khỏi vỏ. Lưỡi đao chiếu sáng ngời chứng tỏ đó là một bảo đao hiếm có.
Nhưng Dương-Qua chắp hai tay từ chối:
- Cám ơn anh! Lão lùn nay chưa được thầy giỏi dạy dỗ, võ nghệ còn kém quá! Cành liễu nầy cũng đủ cho lão ăn đòn rồi.
Dứt lời, chàng tung cành liễu lên, đập vào thiết trượng của lão Phàn một tiếng "chát".
Lão Phàn thấy Dương-Qua ăn nói vô lễ, nhục mạ đến sư phụ lão, nên lão quyết sống chết với Dương-Qua để bảo tôn thanh danh của lão.
Lão gầm lên một tiếng, triển khai chín chiêu biến ra mười một thế "bát thủy trượng pháp".
Phép đánh cương trượng nầy gọi là "bát thủy" có nghĩa là khí trượng múa lên thì tạt nước vào cũng không lọt. Như thế đủ rõ đường trượng của lão kín đáo đến bực nào.
Lúc đầu tiếng trượng rít lên vun vút, nhắm vào Dương-Qua tấn công dữ dội. Nhưng dần dần về sau người ta thấy phương của cây trượng mỗi lúc một lệch lạc đi. Đầu ngọn trượng chênh lệch thì tiếng gió nghe càng yếu dần.
Sở dĩ như thế là vì Dương Qua đã áp dụng theo thế"đả bổng pháp" bắt đầu dùng chữ "triển" chế ngự vũ khí của đối thủ. Đầu cành liễu cứ xoắng lấy đầu gậy tiếp thép. Trượng xoay về đông thì cành liễu cũng xoay về đông, trượng xoay về tây thì cành liễu cũng xoay về tây. Đầu trượng tung lên thì đầu cành cũng tung lên cao. Sức mạnh cành liễu mỗi lúc một tăng, kiềm chế thiết trượng không còn hoạt đông nỏi. Công phu lợi hại này chính là phương pháp "chỉ gậy đẩy ngàn cân" mà chữ "triển" mới chỉ là một trong năm chữ theo phép "tứ lương bát thiên cân" rất tinh vi ả diệu của phép"đả cẩu bổng pháp" vậy.
Công tôn động chủ vàng trong cuộc đấu càng lấy làm lạ. Không ngờ một cậu thiếu niên trẻ măng như Dương Qua mà lại có một võ công thần diệu đến thế.
Chỉ thấy trượng pháp của lão Phàn mỗi lúc một suy yếu, còn cành liễu của Dương Qua thì kình lực mỗi lúc một tăng lên. Sau ba mươi hiệp, người ta nhận thấy mức tăng giảm giữa hai bên rõ rệt.
Toàn thân lão Phàn bị cành liễu khống chế. Lão càng tăng thêm sức mạnh thì thân mình càng lảo đảo, không thể tự chủ được.
Sau cùng, thân lão như cuốn theo một cơn gió lốc mãnh liệt, tay chân lão mỏi rũ, mắt hoa mặt tối, chẳng còn biết phương hướng nào nữa.
Động chủ đập tay lên bàn một cái cất tiếng gọi:
Phàn-nhất-Ông, hãy lui lại mau!
Bàn tay Động chủ đập lên đá, tiếng kêu nghe rợn người. Ngay đến Dương Qua cũng phải giật mình thầm nhủ:
- Lão này công lực không vừa. Vậy ta phải trấn áp tên đệ tử của lão một hồi để cho lão thất kinh, làm giảm nhuệ khí của lão đã.
Chàng vội vàng chuyển tay một cái, đầu gậy bắt đầu múa sang chữ "chuyển".
Chỉ thấy chàng đứng yên một chỗ, tay múa lia lia, xoay tròn đầu gậy đẩy lão: Phàn từ tả sang hữu, rồi từ hữu sang tả giống như môt cậu bé dùng dây đánh chơi con"vụ". Tay chàng càng múa nhanh thì lão phàn càng chuyển lẹ.
Chàng cất tiếng nói lớn:
-A! Bây giờ nếu ngươi đứng im được mà không ngã thì ta, ngươi là hảo hán anh hùng.
Từ cành liễu tròn, lão Phàn không còn đủ sức tự chủ được chân bước loạng choạng như say rượu. Chẳng mấy chốc, lão té nhào xuống đất.
Công Tôn chủ thấy vậy, lẹ làng nhảy tới, tung mình lên không đưa tay nhắm đầu cây thiết trượng của lão Phàn đập xuống một tiếng "Bốp" và uốn mình nhảy trái trở về.
Hành động chớp mắt! Cây thiết trượng của lão Phàn bị cái đập ấy cắm sâu xuống đất hơn hai thước. Thật là một sức mạnh lạ đời, Dương Qua cũng phải chắc lưỡi khen thầm.
Cây thiết trượng cắm xuống như một cây cột sắt, lão Phàn nhân đó bấu chặt vào cây cột mới khỏi ngã. Mình lão như một con ếch, đầu lắc lư, hai chân còn dãy bần bật, trông rất thảm hại. Qua một lúc lâu, lão mới định thần, đứng vững được.
Bọn Tiểu tương tử và Doãn khắc Tây hết nhình Dương Qua lại nhình Động Chủ, đinh ninh là hai người này không thể nhường nhau. Họ sẵn sàng đón xem một trận sống mái mà thắng phu chưa thể nào định trước được. Mã- Quang-Tổ tánh tình thẳng thắn, muốn ủng hộ Dương Qua nhưng thấy nội lực siêu nhân của Công Tôn Động chủ cũng e ngại vô cùng.
Sau khi định thần, lão Phàn vụt chạy đến trước mặt Động chủ quỳ gối chắp tay lạy, nhưng mắt lão vẫn trừng trừng, hai hàm răng nghiến chặt không lên một tiếng nào.
Động-Chủ chưa kịp mở miệng, thì đã thấy lão Phàn vụt chạy đến một cây đá, húc đầu vào tự tử.
Hành động của lão bất ngờ và chớp nhoáng không ai kịp nghĩ đến.
Sao lão lại nóng tánh đến thế nhỉ? Tỉ võ hơn thua là việc thường đối với những hiệp khách giang hồ, có gì mà phải liều mình tự sát?
Công-Tôn động chủ kêu lên một tiếng:
- Ôi chao!
Rồi tức khắc rời khỏi chỗ ngồi, phóng tới như tên bay, chồm tay túm lấy lão đồ đệ. Nhưng chậm mất rồi, lão Phàn đã lao mình tới quá nhanh làm cho Động-chủ chụp hụt mất.
Lão Phàn nhắm mắt, lao đầu vào cột rất nhanh, định đập vỡ sọ cho mau để khỏi phải cái chết đau đớn. Nhưng khi lão húc vào cột đá thì cảm thấy cột đá mềm nhũn, như lão đã húc phải một cái nệm bông vậy.
Lão ngạc nhiên, mở mắt nhìn. Thì ra Dương-Qua đã nhảy đến kịp đưa tay chận chiếc đầu của lão lại.
Chàng gọi to:
- Lão Phàn, đời còn thiếu gì chuyện tím ruột bầm gan! Việc nầy có gì đến nỗi phải hủy mình?
Thì ra Dương-Qua là kẻ tinh tế phi thường. Lúc lão Phàn quỳ lạy động chủ, chàng nhìn vào đôi mắt lão đã biết được phần nào ý định của lão. Dương-Qua đứng gần lão hơn hết, nên lúc lão lao mình đến cột đá, chàng đã dự ý trước nên nhảy đến kịp, đưa tay chận đầu lão.
Thấy Dương-Qua không để lão được chết, lão gầm lên:
- Mày cản tao để làm gì?
Dương-Qua với giọng đau đớn, nói:
- Tôi cần nói rõ với ông là tôi hiện còn đau đớn gấp mấy lần hơn ông. Nhưng tôi vẫn không muốn hủy mình như ông.
Lão Phàn nghe giọng rên rỉ của Dương-Qua, lấy làm lạ, hỏi:
- Mi đánh thắng ta không phải là một vinh dự hay sao lại đau đớn?
Dương-Qua buồn bã, lắc đầu, nói:
- Đấu võ hơn thua là chuyện thường. Các tay hào kiệt không lấy thắng làm vinh, không lấy thua làm nhục. Trong đời tôi, tôi đã chiến bại biết bao nhiêu lần rồi. Ông thua tôi mà tự tử thì sư phụ của ông đau đớn xót xa, chứ như tôi thua ông mà tự tử thì thầy tôi chẳng chút đoái hoài. Điều đó mới là chuyện đau lòng.
Lão Phàn không hiểu ý Dương-Qua muốn nói gì, đứng ngơ ngác, thì Công-tôn Động-chủ đã gọi lớn:
- Nhất-Ông! Nếu ngươi còn có ý nghĩ điên rồ như vậy tức là ngươi đã trái mệnh ta. Ngươi hãy đứng sang một bên để xem bọn đàn em của ngươi trị tên láo khoét ấy.
Bình sinh, lão Phàn rất tôn kính sư phụ không bao giờ dám trái ý. Nay nghe sư phụ lão truyền dạy như thế, lão liền đưa mắt lườm Dương-Qua một cái, rồi đứng lui ra đàng sau, không dám mở miệng.
Về phần Tiểu-Long-Nữ, tuy muốn tỏ cử chỉ lãnh đạm đối với Dương-Qua, nhưng khi nghe Dương-Qua nói câu thống thiết "... thầy tôi chẳng chút đoái hoài" nàng cảm thấy xốn xang vô cùng. Đôi dòng lệ lã chã chảy xuống hai gò má trắng nhợt.
Nàng thầm nhủ:
- Nếu chàng chết đi thì ta sống được sao?
Công-tôn Động-chủ cứ chốc chốc lại liếc nhìn Tiểu-Long-Nữ để dò xét. Ông ta thấy Tiểu-Long-Nữ
rơi lệ, lấy làm tức giận, đập tay xuống bàn thạch hét to:
- Hãy bắt lấy thằng bé đó cho ta.
Đó là mệnh lệnh của lão truyền cho bọn đệ tử bắt người. Lão tự coi mình là Động-chủ, bậc sư phụ, không hạ mình xuống tranh tài với Dương-Qua.
Bấy giờ hai hàng đệ tử áo xanh nhất tề dạ ran. Mười sáu người cầm bốn tấm lưới chia ra bốn mặt, hô lên một lượt phủ vây Dương-Qua.
Đáng lý ra, bọn Kim-luân Pháp-Vương đã cùng đi với Dương-Qua đến đây, thì trong lúc Dương-Qua lâm nạn, họ phải đứng ra phân giải hòa mới phải, nhưng bọn chúng cứ đứng cười nhạt, tự cho mình như kẻ ngoại cuộc, không hề tỏ ý gì cả.
Tiếp đó, Động-chủ lại đưa tay vỗ lên bàn thạch ba lần, tức thì mười sáu tên đệ tử áo xanh, mỗi người chiếm một phương vị từ từ bước tới đón hẹp vòng vây.
Dương-Qua thấy bốn cái lưới mỗi lúc một khép dần lại, lòng bối rối, chẳng biết phải dùng cách nào để thoát thân, thầm nghĩ:
- Đến như Châu-bá-Thông võ nghệ trùm đời mà còn bị mảnh lưới này bắt chụp được huống hồ ta tài hèn thì sao thoát khỏi? Hơn nữa, Bá-Thông chỉ cần thoát thân, bế xốc được hai gã Phàn, Mã ném vào lưới, rồi thừa cơ nhảy tọt đi. Chứ ta, hiện nay cần phải ở lại động nầy chết sống với cô nương ta thì đâu được rảnh rang như Châu-bá-Thông mà bỏ trốn?
Chàng đang nghĩ ngợi, thì chợt nghe mấy tiếng "tinh tinh" bốn mảnh lưới lại chéo đầu chuyển vị, đưa ngang đưa dọc, lúc ngửa lúc nghiêng, biến đổi hình thể như muốn chụp lấy chàng.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 048
PHONG BA CHƯA RÁO NỢ HỒNG
Dương Qua đã được trông thấy bọn đệ tử động Thủy Tiên bủa lưới chụp Châu bá Thông, nên chàng biết đó là một môn pháp kỳ diệu khó thoát được. Lối bủa lưới này là một trận pháp, chẳng kém trận "Bắc đẩu thiên cang" của giáo phái Toàn Chân. Tấm lưới khi thẳng khi chùng, khi thu hẹp, khi nới rộng ra mỗi bề dài hơn một trượng, người cầm lưới lại núp kín sau mành. Muốn phá trận lưới tất phải giết cho được người cầm lưới, khốn nỗi, khi tiến đến bên người cầm lưới thì bị mảnh lưới chụp ngay, không để cho đối thủ kịp ra tay. Dương Qua đành thúc thủ, chẳng phải biết dùng cách nào được. Trong lúc đó thì mười sáu lên đệ tử áo xanh cứ dần dần tiến đến, mảnh lưới mỗi lúc một khép thêm. Chàng bí lối, chỉ còn cách phóng chân chạy từ đầu nầy sang đầu nọ để tránh né. Lối khinh công của chàng theo lối Cổ mộ, lanh lẹ phi thường. Tuy nhiên chàng chỉ là một con cá đã vào trong lưới dầu có nhảy lung tung cũng chỉ chờ người ta khép hẹp mành lưới lại đề bắt lấy mà thôi. Do đó mặc cho chàng bay lượn, bọn đệ tử áo xanh kia vẫn không đuổi theo chàng, cứ lần lần thu hẹp mành lưới mà thôi.
Trong lúc chạy nhảy tung tăng, Dương Qua để mắt quan sát, tìm xem có chỗ hở nào để thoát thân được chăng, nhưng thấy bốn bề kín mít. Mỗi lần bọn chúng dời đổi phương vị là mỗi lầ n mành lưới thu hẹp thêm hai bước. Tuy không tìm được kẽ hở, nhưng Dương Qua cũng hiểu được trận lưới này bắt chước theo kiểu lưới nhện. Con nhện rình bắt mồi thế nào thì kẻ bố trận cũng rình như thế. Con nhện ẩn mình thật kín, đợi con mồi vướng vào lưới tơ rồi mới chồm ra bắt lấy. Chàng nghĩ bụng: "Không thể đến gần chúng nó được thế thì ta dùng ám khí giết chúng ắt xong. Chàng tung chân nhảy phóc lên mấy cái nữa, rồi thò tay lần vào túi rút ra mấy chiếc "Ngọc phong châm" tung ra một lượt. Bốn mũi phong châm phóng tới bốn người ở phía nam. Loại phong châm nầy rất lợi hại phóng ra tất chết người hoặc bị thương nghìn lần không sai một. Cách xa chàng mấy trượng, chàng vẫn phóng trúng phong phóc thì bốn người nầy đứng gần, làm sao khỏi chết?
Chàng đinh ninh như thế, nào ngờ thấy chàng động thủ, bốn tên giăng lưới đã giơ mành lưới lên án ngữ. Bốn tiếng "tinh, tinh tinh, tinh" vang lên và bốn cây phong châm dính ngay trên mành lưới. Thì ra những sợi thép vàng dùng đan lưới ấy lại có một từ tính nam châm có thể hút được ám khí. Một cái lưới rộng như thế thì bất cứ ám khí của kẻ địch nào tung vào cũng vô hiệu. Dương Qua biết không thể dùng ám khí được nên còn mấy mũi phong châm nơi tay mặt chàng, chưa kịp phóng ra, vội cất ngay vào túi.
Chàng cau mày nhìn vào mặt Công Tôn động chủ tỏ ý khâm phục tài sáng chế của lão. Lúc này ai cũng thấy Dương Qua đang đứng trong tình trạng hiểm nghèo, mà tánh mạng như ở trong tay động chủ rồi.
Người chỉ huy trận pháp lưới hô to một tiếng, cả bọn từ từ lướt tới. Trước mặt chàng ánh kim khí chói lòa. Một tấm lưới tung lên cao đang đổ nghiêng xuống để chụp lấy chàng.
Chàng nhún mình một cái, toan chạy đến hướng tây bắc, thì hai tấm lưới phía nầy đã dồn lại khít nhau, bít ngay mất lối. Chàng hoảng sợ kêu lên:
- Hỏng rồi! Thôi ta đã lọt vào tay động chủ gian manh này, không hiểu sẽ chịu nhục nhã đến thế nào?
Đang lúc nguy khốn. Bỗng nghe một tiếng kêu rất lớn:
- Ôi!
Tiếng kêu như ngọc vỡ và nhẹ nhàng như giọng oanh, phát ra từ chỗ bốn người cầm lưới ở phía Nam. Dương Qua quay đầu nhìn lại thì thấy nàng Lục Ngạc vừa ngã lăn xuống đất, kéo theo một góc lưới sa xuống. Tức thì nghe một tiến "véo" toàn thân Dương Qua đã phóng lọt ra kẻ hở của mành lưới nhanh như một mũi tên. Thật lanh lẹ! Lối phi thân của Dương Qua như điện chớp.
Ai nấy đều kinh ngạc trố mắt nhìn, họ ngạc nhiên trước tài năng Dương Qua thì ít, mà lạ lùng trước hành động của con gái động chủ nhiều hơn. Tuy miệng Công tôn Lục Ngạc kêu đau nhưng mắt nàng lại đảo rất nhanh, liếc nhìn Dương Qua ra dấu, tỏ ý thầm bảo:
- Dương công tử hãy trốn đi khỏi động này lập tức, đừng dấn thân trong chốn hiểm nguy.
Đôi mắt nàng như van lơn, cầu khẩn làm cho Dương Qua cũng phải xúc động. Nhưng chàng dẫu chết cũng không thể nào bỏ trốn khi Tiểu long Nữ còn sờ sờ ra đó. Chàng nhủ thầm: "A! Nàng liều mạng cứu ta, tình ý thật vô cùng nhã cảm. Nhưng nếu ta chạy trốn thì cô ta phải thành hôn với lão chúa động này. Hôm nay dù bị nát thây ta cũng đành chịu, quyết không rời bỏ nơi đây được".
Quả thật, chàng vì nặng tình xưa không kể đến tính mệnh. Đôi mắt chàng đăm đăm nhìn Tiểu long Nữ không chớp. Chẳng lẽ chàng bị khốn nguy như thế mà Tiểu long Nữ không chút động lòng sao?
Thật ra, Tiểu long Nữ lúc này tuy cúi đầu không nói tiếng nào nhưng lòng nàng còn đau khổ hơn Dương Qua gấp bội. Dương Qua đau nhưng còn nói ra được, chàng không nể sợ, thẳng thắn thổ lộ can trường, còn Tiểu long Nữ phải dằn mọi đau đớn trong lòng, nhốt kín trong thâm tâm, để phải chịu đựng một sức giày xéo không bờ bến.
Bị hỏng việc, động chủ đập tay xuống bàn hai cái, bốn tấm lưới rẽ ra. Lão nhìn mặt nàng Lục Ngạc lạnh nhạt hỏi:
- Mày làm gì thế?
Lục Ngạc nhăn nhó thưa:
- Phụ thân! Chân con bỗng nhiên bị xụi gân, đau quá không đứng vững nổi.
Vốn là kẻ tinh đời Công Tôn động chủ còn lạ lùng gì cử chỉ yêu đương say tình của đứa con gái lão. Nếu ngày thường thì lão sẽ làm cái nhiệm vụ "nghiêm huấn". Nhưng hôm nay trước mặt một số đông khách lạ, lão không tiện làm mặt giận quát mắng con gái mình, nên cười nhạt bảo:
- A? thật thế sao? Thôi, hãy vào nhà trong mau!
Đoạn ông ta quay lại gọi một đệ tử nữa:
- Số mười bốn đâu? Hãy thay vào vị trí của nó.
Nàng Lục Ngạc cúi đầu, lủi thủi bước vào trong. Một thiếu nữ bước đến, đầu có hai bím tóc kết thành dây vải xanh. Trong khi thiếu nữ ấy nắm một góc lưới thì nàng Lục Ngạc lại đưa mắt nhìn trộm Dương Qua. Trong ánh mắt bao hàm một cái gì thiết tha sầu não.
Dương Qua hiểu ý thầm nhủ:
- Cô nương ơi! Tấm thịnh tình của cô đối với tôi kiếp này thực không sao báo đáp được. Nhưng cô buộc tôi đi khỏi nơi này, tôi không thể nào nghe theo lời cô được.
Bỗng động chủ vỗ tay xuống bàn bốn cái, tức thì mười sáu tên đệ tử lại lui vào nhà trong.
Dương Qua thấy thế nghĩ thầm:
- Lẽ nào lại chịu thua ta?
Chàng quay lại nhìn Lục Ngạc thì thấy mặt nàng tái mét. Nàng ra dấu giục Dương Qua phải mau mau rời khỏi động tức khắc. Cứ nhìn vào ánh mắt kinh hoàng và thái độ sợ hãi của nàng cũng đủ biết sắp có một việc đại biến xảy đến cho Dương Qua. Nhưng chàng vẫn mỉm cười đưa tay kéo chiếc ghế ngồi xuống giữa đại sảnh.
Chợt từ phía sau nhà phát ra những tiếng kêu lanh lảnh rợn người. Đó là tiếng sắt chạm vào nhau. Chỉ loáng mắt, mười sáu người đệ tử của động chúa lại tiến ra, tay cầm lưới chụp. Trông thấy mành lưới nầy ai nấy đều khủng khiếp. Thì ra động chủ đã truyền đổi bốn tấm lưới khác, trong lưới có treo những lưỡi câu chĩa nhọn sáng lòa cái nào cũng rùng rợn.
Mã quang Tổ la lớn:
- Ôi chao! Động chủ lão huynh ơi! ông dùng cái vật tối độc này để giết người ư? ông không còn nể mặt, nể tình với khách nữa à?
Động chủ lườm mắt nhìn Dương Qua dằn từng tiếng:
- Không phải ta muốn giết người. Đã mấy lần ta yêu cầu ngươi rời khỏi nơi nầy, thế mà ngươi cố tình không chịu nghe theo, cứ ở mãi nơi đây quấy rối. Bây giờ ta bảo cho một lần chót nếu muốn toàn mạng mi hãy đi ngay.
Mã quang Tổ vốn là kẻ già gan lớn mật, nhưng khi trông thấy bốn tấm lưới dị thường ấy cũng phải lè lưỡi rợn người. Nhất là khi nghe những móc câu trong lưới rung lên, hắn không còn giữ được bình tĩnh nữa, bèn đứng phắt dậy, bước tới nắm tay Dương Qua nói:
- Chú Dương ơi! Vật kia hại người ghê gớm quá, nên tránh xa đi là hơn, ăn thua với bọn họ làm gì?
Dương Qua không đáp, quay nhìn Tiểu long Nữ, xem nàng có nói gì không. Nhưng nét mặt nàng vẫn trầm lặng như không.
Thật ra, trước đây Tiểu long Nữ đã quyết định lập trường của nàng rồi, nên nàng mới có thái độ ấy. Nàng mang ơn động chủ cứu mạng lại thấy trong động vắng thâm u, nàng có thể chôn vùi cuộc sống thừa của nàng mà khỏi gặp mặt Dương Qua. Bởi lẽ đó nàng mới nhận lời thành thân với động chúa. Vả lại, nàng thấy động chủ là người ôn hòa, kiến thức uyên bác, thật không phải kẻ tầm thường, nàng có thể gởi thân được. Ngờ đâu, Dương Qua đột nhiên tìm đến, khiến cho nàng không còn tránh né vào đâu được. Bây giờ thấy động chủ đem loại vũ khí độc ác ra, định hại mạng Dương Qua nàng đã nghĩ sẵn đến cái "chết". Nàng định bụng sẵn, hễ mành lưới kia chụp Dương Qua, nàng sẽ lao đầu vào chết theo. Vì đã quyết định như thế, nên mặt nàng vẫn thản nhiên, chờ đến phút lâm chung. Nàng tin rằng chỉ có cái chết bên chàng mới tiêu tan được oan nghiệt mà thôi.
Nỗi u uẩn trong lòng nàng như thế, Dương Qua làm sao biết được. Chàng cứ nghĩ rằng trong lúc mình lâm nạn như thế mà cô mình vẫn thản nhiên, không có một chút đau lòng, xót ruột thì tình nghĩa xa xưa nay còn đâu? Trong lúc đầu óc rối loạn, bỗng Dương Qua nẩy ra một ý nghĩ. Chàng chạy đến trước mặt Tiểu long Nữ, vòng tay lễ phép nói:
- Thưa cô! Nay em Qua rủi mắc nạn, xin cô nương cho em mượn giải lụa và tất tay.
Tiểu long Nữ đang nghĩ đến việc sẽ ôm nhau cùng chết trong mành lưới thì còn thiết gì nữa. Nàng lạnh lùng thò tay vào bọc rút giải lụa và hai chiếc bọc tay màu trắng trao cho Dương Qua.
Đó là hai thứ vũ khí độc đáo nhất của nàng. Chiếc bao tay kia mang vào thì vũ khí đâm không lủng. Còn giải lụa kia ở đầu có một cái chuông nhỏ, dùng tung ra kình địch thủ rất lợi hại.
Dương Qua đưa tay tiếp nhận, và đăm đăm nhìn vào mặt nàng hỏi:
- Thế thì lúc nầy cô nương đã nhận ra em chưa?
Tiểu long Nữ thấy xốn xang trong lòng, không thể nào làm mặt lạnh nhạt được nữa, vì nàng đã quyết định cùng chết với Dương Qua nên nàng mỉm cười bảo:
- Ngay từ lúc thấy mặt, lòng tôi đã nhận anh rồi!
Nét mặt Dương Qua bỗng nhiên hớn hở thần sắc uy nghi, chẳng khác nào vừa uống một viên thần dược. Chàng hỏi với giọng hối hả:
- Thế là cô nương đã nhất định theo em ra đi, không kết hôn với động chủ nầy nữa chứ?
Nàng tươi cười gật đầu:
- Tôi quyết theo anh đến cùng, và không còn lấy ai nữa!
Câu nói của nàng hàm ý là sẽ chết theo Dương Qua. Chí quyết theo nhau dưới tuyền đài mà thôi. Nhưng Dương Qua đâu hiểu được ý ấy. Chàng tưởng Tiểu long Nữ đã hết giận chàng, chàng sung sướng quá sức. Trong lúc đó mọi người đứng xung quanh đều ngạc nhiên trố mắt nhìn nàng. Công Tôn động chủ đau đớn ra mặt, buồn giận tuôn ra một lúc, vung tay đập mạnh lên thạch bàn, giục bọn đệ tử ra tay sớm.
Mười sáu tên đệ tử chuyển bước theo phương vị, bủa lưới vây quanh. Dương Qua lúc nầy đã được Tiểu long Nữ nói mấy lời nên tâm hồn chàng thanh sảng, sức mạnh tăng gấp bội và gan dạ có thừa, dẫu trong dầu sôi lửa bỏng chàng cũng chẳng coi ra gì huống hồ tấm lưới sắt này. Chàng lồng hai chiếc tất vào hai bàn tay rồi cầm giải lụa tung ra, đầu giải lụa tiếng chuông chạm nhau kêu lanh lảnh. Sợi dây lụa bạch phóng ra ngoằn nghèo như con rắn, co giãn, tới lui rất lanh lẹ. Chàng phóng về phía nam, một tiếng "tinh" phát ra, tiếp đó chàng phóng về hướng Bắc, hai tiếng "tinh tinh" phát ra. Cứ mỗi tiếng "tinh" là một tên đồ đệ của Động chủ bị điểm vào trọng huyệt. Chỉ loáng mắt, chàng đã điểm vào ba huyệt "Khúc thạch" của ba tên giăng lưới. Chúng không chịu nổi phải quỵ xuống đất. Những đứa còn lại, thấy vậy trố mắt nhìn nhau và tâm thần dao động, chỉ còn biết tiến đánh, một cách yếu ớt. Thế là trận lưới bị vỡ. Dương Qua thừa thế, vung giải lụa tiếp đánh hai cái nữa. Hai tiếng "tinh tinh" phát ra, tiếp theo hai đứa của Động chủ lăn nhào. Nhưng lúc ấy tấm lưới sắt phía Bắc đã thấp xuống quá gần. Cố nhiên chàng không thể dùng giải lụa để quật được nữa, trong lúc nguy cấp, chàng vội tung bàn tay trái chụp ngay mành lưới hất mạnh trở ra. Vì tay chàng có bọc "chưởng táo" nên các móc câu trong mành lưới sắt như gươm vẫn không nào đâm lủng nổi!
Tiếp dó, chàng lại tung chân nhảy vọt về hướng khác. Thân hình chàng rất dẻo, vì trước đây chàng đã từng nằm trong núi vắng, rừng sâu khổ công ôn lại võ nghệ. Sự luyện tập ấy đã đưa chàng đến một công phu kỳ diệu vô cùng.
Bọn đệ tử không ngờ chàng có thể túm được mành lưới, đẩy ngược bất ngờ, các móc câu quay ngược lại, móc lên đầu chúng đau quá, la ôi ối!
Uy mãnh của Dương Qưa mỗi lúc một tăng. Chàng tung giải lụa đánh tiếp vào huyệt đạo của những đứa còn lại. Chúng sợ quá, không còn dám đến gần, bước lui về phía vách đá thủ thế, và dùng mành lưới làm vật hộ thân, che chở cho nhau, không còn dám tiến đến chụp lưới nữa.
Mã quang Tổ thấy thế, giậm chân múa may khen Dương Qua inh ỏi. Trong lúc đó thì Kim Luân Pháp Vương vẫn đứng nguyên một chỗ, trầm ngâm không nói một lời nào.
Mã quang Tổ quay lại hỏi lớn:
- Pháp vương Hòa thượng! Chú Dương bản lãnh cao cường như thế không đáng cho ngài khen ngợi nửa lời sao?
Kim Luân Pháp Vương mỉm cười đáp:
- Khá lắm! Khá lắm! Nhưng còn có nhiều nguy hiểm hơn, chớ nên vội mừng.
Mã quang Tổ nói:
- Cái nguy hiểm là mành lưới độc ác đó mà đã bị tê liệt thì còn cái nào đáng ngại nữa?
Pháp Vương không đáp, đưa mắt nhìn Công Tôn động chủ.
Bấy giờ Công Tôn động chủ đôi mày dựng ngược lên, chậm rãi bước đến giữa nhà với vẻ mặt đầy sát khí. Trong lúc Công tôn Động chủ nghe Tiểu
long Nữ nói với Dương Qua câu "Tôi nhất quyết theo anh đến cùng" thì lão cảm thấy như lão đã sống trong mộng suốt nửa tháng nay, bao nhiêu mộng đẹp đều đổ vỡ như mây khói. Vì quá căm tức, nên lão đã thầm nhủ: "Nếu không chiếm được lòng nàng thì cũng quyết không để tấm thân nàng lọt vào tay kẻ khác. Giờ ta đập thằng oắt con nầy một chưởng không nát thây thì nàng dẫu không yêu ta cũng không dám trái mệnh ta. Ta sẽ dùng thời gian chinh phục nàng sau". Công Tôn động chủ vốn là kẻ biết xử sự không nóng nẩy, bừa bãi như những kẻ khác. Tuy nhiên, Tiểu long Nữ, một tuyệt sắc giai nhân, đã chung sống với lão hơn tuần nay, nàng đã hứa thành thân với lão, trong lúc hôn lễ sắp thành thì Dương Qua đã đến phá hỏng làm sao có thể chịu nổi. Bất đắc dĩ lão mới có ý định giết Dương Qua.
Dương Qua thấy lão ung dung bước tới, nét mặt hầm hầm, không biết võ công lão đến mức nào, nên chàng cũng e ngại, lui về hai bước, tay nắm chặt giải lụa thủ thế. Chàng biết mạng của chàng chết hay sống, vinh hay nhục, đời Tiểu long Nữ vui hay sầu là do cuộc chiến đấu này định đoạt cả.
Bấy giờ động chủ đưa chân bước từng bước một, dạo quanh trong phòng, còn Dương Qua thì tay nắm chặt giải lụa đứng một chỗ thủ thế đôi mắt chàng không rời Công Tôn động chủ một giây phút nào. Tuy Công Tôn động chủ chưa ra tay song Dương Qua đã biết trước đòn đánh đầu tiên của lão phải là một đòn rất khủng khiếp có thể vong mạng. Bỗng thấy hai tay của lão đưa về phía đằng trước ba lần, rồi đập vào nhau một tiếng
"bốp".
Mọi người thực không ngờ. Đôi tay bằng xương bằng thịt sao vỗ lên nghe chan chát như hai tảng đá đập vào nhau vậy.
Dương Qua rợn người, chưa kịp thối lui thì nhanh như chớp, bàn tay Công Tôn động chủ đã vươn tới nắm lấy mảnh lưới, giật mạnh một cái, hất tung ra đằng sau. Tay Dương Qua đang giữ mảnh lưới, bị cái giật ấy thốn đến xương đau nhói.
Lão quăng lưới vào góc phòng cho bốn đệ tử đỡ lấy và quát:
- Hãy lui mau!
Bốn đệ tử tuân lệnh đem mành lưới vào nhà trong.
Quan khách đứng xem đều thất kinh, khi thấy động chủ diễn ra những tác uy cực kỳ dũng mãnh, chứng tỏ bên trong hàm chứa một công lực phi thường. Ngay như nàng Lục Ngạc cũng chỉ biết cha nàng có một võ công tuyệt tác chứ chưa hề nghĩ đến một nội lực vô cùng thâm hậu như vậy Trong bọn đồ đệ của lão, chỉ riêng Phàn nhất Ông biết được chân lực của lão mà thôi.
Lão đưa mắt nhìn nét mặt còn non trong của Dương Qua, nhủ thầm: "Mày muốn chết thì sẽ được chết! Nhưng có điều ta phải ân hận là ta đã giết một kẻ hậu sinh!".
Dương Qua không dám để động chủ ra tay trước, chàng vội tung giải lụa điểm vào huyệt "Cự cất" trên đầu vai lão và quật luôn vào huyệt "Thiên đỉnh" ở cổ.
Nhưng Công Tôn động chủ là người sáng lập ra một môn phái võ lâm, công lực thâm hậu, lão còn coi giải lụa kia ra gì và việc điểm huyệt đối với lão là điều vô dụng. Lão vẫn đứng trơ ra đấy, hai tay mở rộng để trống cả bụng, ngực có ý khích Dương Qua.
Dương Qua thất kinh nghĩ thầm: "Cô nương ta thường nói, trên đời này chỉ có Âu dương Phong, Hồng thất Công, Hoàng dược Sư, là những kẻ có võ công tuyệt thế, khi trông thấy địch sắp tấn công có thể kịp thời khép kín đạo huyệt. Riêng Âu dương Phong môn nầy còn kỳ ảo hơn, có thể di chuyển các đạo huyệt trật đi chỗ khác, khiến cho địch thủ không tìm ra. Nhưng nội công ấy còn có thể bị người cao thủ dò tìm ra được chứ Công Tôn động chủ thì bị điểm huyệt liên tiếp mà không hề phản ứng, tựa hồ như trên mình lão không có huyệt đạo nào vậy. Công phu nầy thật hiếm thấy trên đời". Nghĩ như thế, Dương Qua đâm ra lo lắng, không dám dùng giải lụa điểm huyệt Công Tôn động chủ nữa.
Công Tôn động chủ thấy Dương Qua ngơ ngác, bèn vung tay đánh tới một chưởng. Bàn tay của động chủ mỗi lúc một vung tới là một luồng hắc khí xông ra, sức gió vùn vụt ép vào người chàng. Chàng biết chưởng lực ấy vô cùng lợi hại, nên không dám dùng sức chống đối phải nghiêng mình sang một bên để tránh. Chỉ trong láy mắt, hai bên đã đánh nhau hơn mười mấy chiêu. Dương Qua để hết tinh thần vào việc chiến đấu. Bỗng như chàng nghĩ ra điều gì lẩm bẩm: "Lạ thật! phương pháp của lão nầy hình như không có gì độc đáo? Mình đã thấy kẻ nào diễn qua rồi!". Thấy lão tung ra một lúc hai chưởng lực, một nhu một cương chàng vội né tránh và la lớn:
- Này! ông biết Hoàng nhan Bình chăng?
Chàng đột nhiên hỏi đến câu ấy, vì chàng nhận ra chưởng pháp của lão động chủ giống hệt chưởng pháp của Hoàng nhan Bình. Có lẽ Hoàng nhan Bình và lão ta cùng một môn phái chăng? Mặc dù công lực lão thâm hậu hơn Hoàng nhan Bình nhiều lắm.
Bấy giờ động chủ vẫn đưa bàn tay lên không, và vụt qua cái lão đã vọt tới trước mặt chàng.
Theo nguyên tắc thông thường, người đấm quyền phát chưởng, ai cũng dùng cánh tay đưa nắm đấm tay vung ra thì nắm đánh sang, nhưng Công Tôn động chủ thì không thế, ông ta dùng toàn thân đưa chưởng phong tới cánh tay không hề co duỗi, tức là lão đã dùng sức mạnh toàn thân. Chính Hoàng nhan Bình cũng có dùng lối đánh nầy. Lối đánh này mạnh hơn lối đánh bằng sức cánh tay, nhưng thường bị chậm hơn, thế mà Công Tôn động chủ đã sử dụng rất lanh lẹ. Lão đánh nhanh như chớp nhoáng, khiến cho Dương Qua không thể lường trước được. Dương Qua không kịp tránh né, phải đưa bàn tay trái liều lĩnh đỡ đòn. Một tiếng "bùng" phát ra, hai luồng chưởng phong đập vào nhau. Dương Qua bị lật ra đằng sau ba bước, trong lúc đó động chủ chỉ đứng nguyên một chỗ, toàn thân hơi rung chuyển chút ít mà thôi. Dương Qua cảm thấy như nóng ran cả người từ bàn tay lên đến cánh tay trái như muốn tê buốt. Chàng nghĩ thầm: "Cái bọc của cô mình kiếm đâm không lủng, chém cũng chẳng đau tay, thế mà chưởng lực của lão này đánh đau thấu đến xương tủy, thật lạ lùng".
Công Tôn động chủ tuy đứng vững một chỗ, có vẻ thắng thế, nhưng thực ra lão bị chưởng lực của Dương Qua phấn kích ác liệt, và lão cảm thấy đau nhói tâm can, thất kinh nhủ thầm: "Hừ! Thằng bé chưa ráo máu đầu vì đâu lại được công lực uyên thâm đến thế. Hắn đã đỡ được đòn chưởng của ta, nếu ta không đem hết sức ra thì khó bề hạ được hắn. Nếu không hạ được hắn thì còn gì danh tiếng của ta tự bấy lâu nay đối với giang hồ hảo hán?". Nghĩ như thế, lão liền đập hai bàn tay một lượt, tung ra song chưởng.
Dương Qua thất kinh nhảy vọt ra đằng sau hơn ba bước. Thực ra, nếu động chủ dùng công lực đánh tiếp thì Dương Qua không thể nào thoát khỏi nguy. Chàng cũng cảm thấy sức chàng không đủ để đương đầu với lão được. Tuy nhiên trước mặt mọi người, trước tình thế chàng không thể lánh mình bỏ Tiểu long Nữ rơi vào tay kẻ khác, nên chàng quên cả hiểm nguy, cố tìm cách đánh vào tâm lý lão động chủ. Chàng nói:
- Chúa động! Người quyết tranh thắng bại với ta để làm gì? Mi đánh thắng ta liệu cô ta có chịu thành thân với ngươi chăng còn ngươi đánh thua ta, cô ta tất không chịu lấy ngươi rồi. Đàng nào ngươi cũng thiệt thòi, nếu ngươi cứ dùng vũ lực.
Câu nói ấy quả đã đánh trúng vào mối lo âu của Chúa động. Tuy đánh trúng song lão nghĩ rằng Dương Qua là người yêu của nàng, nếu giết Dương Qua đi thì nàng sẽ buồn bã, chắc gì nàng đã chịu thành thân, khi vết thương lòng đă in sâu vào con tim sầu khổ kia. Còn nếu không giết Dương Qua để hắn phá đám mãi, lão cũng chẳng làm gì được. Lão thấy mình quả đang ở trong thế bí, không lối thoát. Đôi bàn tay lão đánh vào nhau chan chát, tỏ ra giận dữ phi thường. Bỗng lão nghĩ ra một cách, gọi bọn đồ đệ, bảo lớn:
- Hãy đem binh khí của ta ra đây.
Nàng Công Tôn Lục Ngạc biết rõ binh khí của cha nàng là một món giết người nguy hiểm, Dương Qua không thể nào thoát chết được. Đôi mắt nàng lặng lờ, nhìn Dương Qua như van lơn chàng hãy nhịn cha nàng mà đi nơi khác cho xong.
Thấy nàng rụt rè chưa vào lấy vũ khí, động chủ hét lên:
- Mày không nghe lời tao nói gì hay sao?
Mặt nàng Lục Ngạc tái mét. Nàng "dạ" một tràng nhỏ rồi quay gót vào trong. Dương Qua liếc nhìn trạng thái tâm hồn diễn biến qua hai cha con động chủ, rồi mím môi thầm nghĩ: "Chỉ một đôi tay không của lão cũng đủ đánh ta tan xác rồi, bây giờ lão còn bảo đem vũ khí ra làm gì nhỉ?".
Thật vậy, động chủ thừa hiểu sức lực lão đánh Dương Qua không khó, nhưng lão không muốn giết Dương Qua, gây đau khổ cho Tiểu long Nữ, lão chỉ muốn đem những vũ khí cổ quái của lão để dọa cho Dương Qua sợ, bỏ động này không dám bén mảng đến mà thôi.
Dương Qua biết cơn nguy đã đến, nếu không bỏ chạy còn đợi lúc nào. Chàng bước đến Tiểu long Nữ thỏ thẻ:
- Cô ơi! Thôi chúng ta cùng đi nơi khác, ở đây nguy mất!
Công Tôn động chủ cau mày, nghiến răng, hai bàn tay nắm chặt, chờ cho Tiểu long Nữ đứng dậy là lão đấm cho Dương Qua một chưởng nát xương.
Tiêu long Nữ đã thấy được dự tính của lão, nên vẫn ngồi im, nói với Dương Qua:
- Lúc này chưa phải lúc ra đi với nhau. Em Qua ơi! Mấy hôm nay trong người em có khỏe không?
Câu nói của nàng như chứa đựng một niềm mến yêu tha thiết. Dương Qua sung sướng quá, không còn nghĩ đến nguy hiểm sắp đến, chàng nhìn vào mặt Tiểu long Nữ hỏi:
- Cô ơi! Cô không giận em nữa chứ?
Nàng khẽ mỉm cười, đáp:
- Cô đâu có biết giận em bao giờ. Lòng cô cũng như tự thuở nào!
Đoạn nàng đưa tay ra dấu bảo Dương Qua:
- Em hãy ngồi xuống đây! Quay lưng lại cho cô xem.
Dương Qua không hiểu nàng làm gì nhưng cũng tuân lời, ngồi xuống quay lưng lại. Tiểu long Nữ thò tay vào túi lấy ra cây kim sợi chỉ, khâu áo rách cho Dương Qua. Chỗ áo này vừa rồi do động chủ đánh toẹt một miếng. Nàng vừa vá vừa nói:
- Mấy hôm nay cô định may cho em chiếc áo mới, nhưng lại nghĩ từ nay chúng ta vĩnh biệt không còn gặp nhau nữa thì may làm gì. Ôi, có ngờ đâu em lại đến đây.
Cử chỉ của nàng gợi cho bao kỷ niệm êm đềm tự xa xưa, lúc còn ở nơi Cổ mộ, mỗi lần áo Dương Qua bị rách, chính nàng đã tự tay vá lấy và lúc nầy, cả hai đều trìu mến trong dĩ vãng, quên hẳn trước mặt họ có đông đảo quan khách trố mắt nhìn vào. Đặc biệt là đôi mắt động chủ trao tráo nhìn hai người như nẩy lửa.
Dương Qua nói:
- Cô ơi! Lúc nãy em đã làm cho cô bị tức đến thổ huyết! Em thật có tội.
Tiểu long Nữ mỉm cười, khẽ nói:
- Đó không phải tại em! bệnh cũ của cô đã nhiều lần tái phát. Hôm nay chỉ là một trong những lần thổ huyết mà lúc vắng em, em không trông thấy.
Dương Qua thổn thức:
- Sao cô nỡ bỏ em? Cô không chịu để em được hầu hạ bên cô mà chăm sóc?
Tiểu long Nữ thở dài, nói:
- Xa cách em chẳng bao lâu mà võ nghệ của em đã tiến bộ quá chóng. Hiện nay cô không đáng là sư phụ của em nữa, mà chính cô tôn em làm sư phụ mới đáng.
Lời khen của Tiểu long Nữ làm cho chàng sung sướng quá. Chàng ước được bay liệng không trung, la lên cho rung chuyển cả không gian mới thỏa lòng.
Hai bên chuyện trò, kẻ hỏi người đáp, tuy chỉ là những câu nói, những ý tứ thường tình song ai cũng cảm thấy một mối tình sầu thảm không giới hạn giữa hai con tim trẻ măng đó. Bọn Kim Luân Pháp Vương trố mắt nhìn nhau từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên kia. Trong lúc đó, động chủ như một khúc gỗ, đứng trân trân như kẻ mất hồn, không còn biết đâu nữa. Trong phòng vì vậy vắng lặng như tờ.
Dương Qua cất tiếng nói:
- Cô ơi! Trong những ngày gần đây, em được gặp nhiều dị nhân quá! Cô có biết cái kéo lớn của em vừa rồi do đâu mà có không?
Tiểu long Nữ mỉm cười:
- à! Thật kỳ quặc! Chẳng lẽ em biết trước ở đây có lão lùn râu dài nên đem sẵn kéo đến hớt râu sao? Ôi! Em thật nghịch ngợm quá. Bộ râu của lão ta khổ công nâng niu hàng mấy mươi năm mà em nhẫn tâm hớt trụi như vậy còn gì!
Nụ cười của nàng mỹ miều làm sao, khiến ai trông thấy cũng cảm mến. Riêng động chủ không sao dằn được nữa. Lão vươn tay nắm ngay ngực Dương Qua kéo lôi ra, gào lên:
- Súc sanh! Mày xem trong đời nầy không còn có người hay sao?
Tiếng thét của lão vang lên, làm vang cả căn nhà đá. Nhưng Dương Qua không hề để ý, đưa tay gạt lão ra, và nói:
- Khoan, khoan! Ngươi hãy chờ một chút, đợi cô ta vá áo xong ta sẽ tái đấu.
Bỗng nghe có tiếng nàng Lục Ngạc nói:
- Thưa cha, binh khí đây ạ!
Lão không quay đầu lại, bước lui về đàng sau một bước, quàng tay đỡ lấy khí giới. Đó là hai thứ vũ khí lạ đời. Tay mặt lão cầm một con dao to bản, lưỡi có răng cưa, ánh thép chói lòa chẳng biết đúc bằng kim loại gì mà đen thui thui, có một sức nặng kinh người, còn tay trái lão cầm một cây lao nhọn, vừa dài vừa nhỏ, trông mềm mại và nhẹ nhàng. Hai thứ vũ khí tính cách trái ngược nhau. Một bên thì cứng và nặng một bên thì mềm và nhẹ. Cứ xem hai thứ vũ khí ấy thì biết lối sử dụng của lão phải là một nghệ thuật lạ đời rồi.
Dương Qua chỉ liếc nhìn sơ qua hai thứ vũ khí quái dị ấy, rồi lại quay qua Tiểu long Nữ tiếp tục nói chuyện:
- Cô ạ! Cách đây mấy ngày em có gặp một cô gái ngây ngô. Cô ấy nói cho em biết kẻ đã giết cha em.
Tiểu long Nữ giật mình hỏi:
- Kẻ thù giết cha em là ai?
Dương Qua nghiến răng nói:
- Hạng người ấy cô nương có thể nào đoán nổi. Chính họ là kẻ đối xử với em rất tử tế.
Tiểu long Nữ nóng lòng vặn hỏi:
- Họ là ai thế?
Dương Qua toan đáp thì đằng sau một tiếng "choang" nổi lên làm chói tai chát óc. Đó là tiếng chạm nhau giữa hai thứ binh khí trong tay lão Động chủ. Lão muốn kéo cổ Dương Qua ra giết phứt cho rồi, nhưng Dương Qua cứ mãi ngồi bên Tiểu long Nữ trò chuyện, nên lão muốn giết
lúc nào cũng được không cần phải lợi dụng cơ hội nào hết. Lão nghĩ thầm: "Những cao thủ trong đời này, chỉ có thể đấu với ta bằng đôi bàn tay sắt mà thôi, còn như "ngư võng trân" thì không có ai phá rối nổi, trừ khi bọn Thất tử Toàn Chân dùng "Thiên cang bắc đẩu" lấy trận đấu trận, thì công lực bên nào mạnh bên ấy sẽ thắng. Đến như cặp "âm dương song đao" nầy, ta đem hết sức ra sử dụng có lẽ trong thế gian không còn ai dám địch ta nữa.
Với Dương Qua, lão chỉ cần đánh trong mười chiêu là đã kết thúc tánh mạng ngay. Nhưng lão giết Dương Qua sợ làm cho Tiểu long Nữ buồn lòng, nên lão muốn dùng vũ khí để dọa cho Dương Qua sợ mà thôi. Thấy Dương Qua cứ ngồi lì ở đấy, không chịu ra đấu, lão liền hét lên một tiếng:
- Hãy coi cây gươm đây nầy!
Mũi gươm của lão nhắm ngay ngực Dương Qua đâm tới! Có điều lạ là gươm đâm tới không đâm thẳng mũi gươm cứ xoay tròn múa tít trước ngực chàng. Chàng giựt mình nhẩy lui ra sau một bước để tránh.
Thực ra, động chủ không có ý giết Dương Qua, chứ mũi gươm ấy đâm thẳng tới thì dù Dương Qua có lanh như điện cũng không còn tránh nổi. Mũi gươm cứ tròn xoe quay tít. Dương Qua không còn nhận rõ đường đi của mũi kiếm là đường nào nữa. Chàng né qua bên tả, thì sợ gươm kia đâm bên hữu, né qua bên hữu sợ gươm đâm bên tả, né trên sợ gươm đâm phía dưới, vì vậy chàng chỉ còn có cách lùi lại là an toàn hơn. Nhưng Dương Qua vừa nhảy lùi ra thì ngọn hắc kiếm đã áp tới xoay tròn trước mặt. Vòng xoay mỗi lúc một mở rộng hơn, lúc sau chỉ khoanh trước ngực chàng, về sau cả ngực và bụng chàng đều nằm vào tâm quay của mũi kiếm đó.
Bọn Kim Luân Pháp Vương, Doãn khắc Tây, Tiêu tương Tử, đều là những tay võ công có hạng, hiểu biết sâu xa về võ học, nhưng chưa từng thấy lối kiếm pháp nào lạ lùng như thế. Ai nấy đều đứng ngẩn ngơ nhìn vào đôi tay của động chủ cứ vò tròn trước mặt Dương Qua. Dương Qua cứ lùi tránh mãi, nhưng thuật khinh công của động chủ thật tài tình. Hễ Dương Qua lùi lại ba bước thì động chủ đã tiến tới hai bước, dính liền với Dương Qua, không một phút giây sơ hở.
Chỉ trong loáng mắt, Dương Qua đã nhảy lùi hơn ba mươi lần, vòng quanh trong căn nhà đá. Dương Qua thầm nghĩ: "Lão chỉ mới sử dụng một cây hắc kiếm mà còn lợi hại như vậy, nếu lão dùng cả cây kim đao kia nữa thì ai địch nổi?". Vừa nghĩ chàng vừa tiếp tục thụt lùi để tránh né. Nhưng chỉ thấy lão múa gươm mà không có ý hạ sát mình nên Dương Qua đâm ra bạo dạn, vung giải lụa trắng đánh vào các huyệt đạo của lão. Nhưng vô ích, giải lụa trắng như con rắn dài, cứ điểm trên mình lão những tiếng "tinh tinh" nghe rởn ốc, mà lão vẫn như thường ngang nhiên múa đao xe xóe. Thấy điểm huyệt lão chẳng ăn thua gì Dương Qua liền sinh ra một kế, vụt giải lụa dài quấn vào chân lão rồi giật mạnh một cái, cốt làm cho lão quýnh chân ngã xuống.
Nhưng giải lụa vừa quấn vào chân, lão đã dưa đao xuống dứt ngang một cái. Nghe "vèo" một tiếng, giải lụa Dương Qua đã đứt ra làm hai khúc. ôi! Lưỡi hắc kiếm của lão quả là một vũ khí sắc bén nhất đời.
Mọi người đứng xem thấy thế cùng hét lên một tiếng "á". Và tiếp theo đó, gió rít vèo vèo, động chủ đã vung hắc đao lên tiếp tục tấn công Dương Qua như vũ bão. Dương Qua vươn mình nằm rạp xuống, tức thì một tiếng "xoảng" vang lên chói tai nhức óc. Bốn vách tường như chuyển động, thì ra Dương Qua bị hắc kiếm chặt đứt dây "Kim linh sách" nên phải nhoài mình xuống lượm cây thiết trượng của lão Phàn bỏ rơi lúc này để đối phó. Chàng vừa tung thiết trượng lên đã bị hắc kiếm chém tới một nhát kêu chan chát. Sức chém và sức đỡ rất mãnh liệt. Động chủ giật mình, nghĩ thầm: "Thằng nầy nội lực quả ghê gớm! Nó dám chống lại nhát chém của ta". Liền đó, tay lão động chủ vung ra, cả kim đao và hắc kiếm đều sử dụng một lượt. Tính cách hai thứ vũ khí nầy tương phản. Hắc kiếm mạnh và cứng, đánh chém vù vù, lanh lẹ phi thường, thì kim đao của lão lại đâm tới từ từ lòn lỏi theo một thế yếu, nhưng nhắm vào các nhược điểm của đối phương mà tấn công.
Dương Qua biết lão đã dùng hai vũ khí cổ quái ấy một lúc thì không còn tài nào tranh né được nữa, chàng sực nhớ ra môn "Đả cẩu bổng pháp" nghĩ thầm: "Ta dùng cây trượng nầy làm cây "đả cẩu bổng" may ra mới ngăn trở nổi làn vũ khí ác liệt".
Chàng liền múa đầu thiết trượng thành hình chữ "Phong". Mũi trượng quay tít và bảo vệ trước ngực Dương Qua rất kín đáo.
Công Tôn động chủ tay chém tay thâu, tư thế rất độc, nhưng vì môn "Đả cẩu là một môn võ tuyệt kỹ tử xưa nay, biến hóa khôn lường, nên thật khó mà áp đảo nổi nữa.
Dương Qua tuy dùng thuật "Đã cẩu bổng" chống lại cặp gươm "Âm dương" của động chủ, nhưng phép "Đả cẩu bổng" cốt lanh lẹ dùng loại cây nhẹ mới có thể biến đổi được các tuyệt chiêu trong pháp thuật, đàng này chàng lại dùng cây thiết trượng quá nặng, nên ban đầu có lẹ làng thật, nhưng sau thì dần dần yếu đuối và đầu trượng không còn linh động được nữa.
Công Tôn động chủ thừa thế chém xuống một gươm, một tràng "cắt" vang ra, tức thì cây thiết trượng của Dượng Qua gãy làm hai đoạn.
Tưởng thế là một bất lợi cho Dương Qua, nào ngờ chàng mừng rỡ, reo lên:
- A ha! Tốt lắm! Ta đang bực mình vì cái gậy sắt quá nặng đây. Ngươi chặt đi một khúc thì còn gì hay hơn?
Chàng vừa nói vừa múa tít khúc trượng còn lại, áp dụng phép "Đả cẩu bổng" biến đổi vô cùng lợi hại.
Động chủ gầm lên một tiếng:
- Được! Giỏi lắm! Mày hãy xem đây.
Dứt lời, lão vung tay chém xuống một nhát kiếm. Dao nầy chém từ trên xuống đỉnh đầu, nhưng có điều lạ là lão chém rất chậm, như vướng mắc cái gì vậy. Dương Qua toan nói thì lại bị mũi kim đao của lão tung ra xoáy tròn về phía ấy. Thất kinh, Dương Qua đưa thiết trượng lên đỡ hắc đao thì "choang" một tiếng, đao trượng chạm nhau ánh lửa tóe sáng ra, dưới sức đao mạnh quá làm cả mình Dương Qua rung động đứng liểng xiểng.
Dương Qua vừa định thần thì Công Tôn động chủ lại chém xuống một đao nữa cũng như lần trước. Dương Qua tuy nghiên cứu về đao pháp rất nhiều, nhưng cũng không biết cách gì để giải phá ngón ấy. Vì nếu né tránh nhát đao đó tức khắc sẽ bị mũi nhọn của kim đao đâm phải ngay. Chàng đành vận hết nội công vào cây thiết trượng để chịu dội đòn thứ hai nữa.
Lần nầy mình mẩy Dương Qua còn rung động hơn lần trước. Chàng thầm nghĩ: "Nếu lão chém thêm một nhát nữa thì cả thân thể ta phải rã rời mất".
Quả nhiên chàng đang lúng túng thì lão lại bổ xuống một nhát thứ ba nữa. Nhát này khí thế lại càng hung hăng hơn hai nhát trước.
Nguyên về môn đao này, động chủ gồm có mười chín đòn, cứ mỗi đòn chiêu số lại khác, và mỗi đòn công lực lại gia tăng gấp bội. Công lực đó lợi hại vô cùng, không ai địch nổi. Dương Qua cố gắng đỡ nhát thứ ba thì cây thiết trượng trong tay chàng đã bể đi mấy miếng nữa, nơi hổ khẩu bàn tay mặt bị rướm máu chảy ra từng giọt. Tuy nhiên vì đã có ý định liều chết, Dương Qua không chút gì sợ hãi, nét mặt vẫn tươi vui".
Công Tôn động chủ thấy nét mặt Dương Qua vẫn tươi cười, nổi giận nói:
- Mày liệu có thể đỡ đến nhát đao thứ mấy mà chưa chịu quỳ xuống xin tha mạng?
Vừa nói, lão vừa chém xuống nhát đao thứ tư mạnh tăng đến như sấm sét.
Dương Qua lúc đó bị dồn đến chân tường, không còn nhảy lùi được nữa. Còn né tránh qua một bên thì lại sợ mũi nhọn của kim đao đâm phải. Tuy nhiên lần này nếu đưa thiết trượng ra đỡ một nhát nữa thì toàn thân tê liệt mất.
Trong lúc nguy khốn, nhưng không thể đứng đó chờ cho mũi kiếm kết thúc mạng người. Chàng liều nhảy vọt sang một bên, đưa bàn tay trái hất mũi kim đao qua một phía. Mũi kim đao đâm thẳng vào bàn tay chàng. May thay, chàng nhờ có đeo cái bọc tay của Tiểu long Nữ, bọc nầy rất chắc, nên kim đao dẫu nhọn cũng đâm trượt ra ngoài. Dương Qua thấy bọc tay lợi hại như vậy thì yên tâm, không sợ hắc kiếm nữa. Chàng vội đưa tay sang chộp lấy đầu kiếm. Bất ngờ động chủ giật tay một cái, rồi đâm liều sang một mũi trúng cánh tay của chàng, máu đỏ phun ra ướt áo.
Chàng giật mình, nhảy tránh sang một bên, lùi lại đằng xa. Động chủ nhanh như chớp đã tiến đến trước mặt như bóng với hình. Nếu lão chỉ dùng một kim đao, hay hắc kiếm thì Dường Qua có thể tìm cách thoát nguy, đằng nầy lão dùng hai thứ binh khí cổ quái ấy cùng một lúc, thực khó mà trừ được.
Tuy chàng bị động chủ khốn quẫn, nhưng bọn Kim Luân Pháp Vương đứng bên ngoài cũng khai phục tài chàng. Vì nếu là một người khác trong bọn đấu với động chủ không thể nào né tránh được cặp "âm dương đao" ấy ngay ở phút đầu.
Bấy giờ, lão động chủ lại đâm thêm một đao chém thêm một kiếm nữa, làm cho Dương Qua thêm một vết thương ở bả vai hữu, máu chảy xối xả.
Dù vậy, nét mặt Dương Qua vẫn tươi vui, không chút gì đau đớn. Chàng coi vết thương đó không liên can gì đến định mạng chăng?
Động chủ giận dữ hỏi:
- Mày bị liên tiếp mấy vết thương mà vẫn chưa chịu phục sao? Hay mày đợi ta lấy mạng mày?
Dương Qua cười ha hả nói:
- Ngươi bảo ta phục ngươi thế nào được? Ngươi chiếm cả một ưu thế đến trấn áp ta, mà còn hỏi ta phục hay không? Này lão động chủ, sao mi mặt dạn mày dày quá vậy?
Động chủ thu đao về, trợn mắt hỏi:
- Mi bảota chiếm ưu thế gì?
Dương Qua vừa cười, vừa nói:
- Ngươi dùng cặp kiếm cổ quái ấy tay trái một quái đao, tay mặt một kỳ kiếm. Hai mũi kiếm kia thử hỏi trong gầm trời này chắc gì ngươi đã tìm đâu ra?
Động chủ hỏi:
- Dĩ nhiên ta cố công rèn luyện hai món vũ khí lợi hại nầy để trị các tay đối thủ. Còn ngươi, chiếc bao tay và cây thiết trượng mà không phải là vật quý trên đời nầy sao?
Dương Qua ném cây thiết trượng xuống đất nói:
- Thiết trượng là của lão râu dài, đồ đệ của nhà ngươi đâu phải của ta?
Chàng lại lột bao tay và cuốn giải lụa bị đứt làm hai đoạn, quăng trả cho Tiểu long Nữ và nói:
- Còn cái nầy là của cô ta.
Rồi chàng lại phủi hai bàn tay không, cười hà hà nói:
- Ta đem hai bàn tay không vào đây đâu có dụng ý đánh ai? Người đã dùng các binh khí của ngươi để hiếp ta, bảo ta phải phục tùng ngươi thì thật không chút anh hùng.
Động chủ nghe chàng nói quá khí phách, phong thái hiên ngang, tuy bị mấy vết thương mà chàng vẫn tươi cười như kẻ đắc thắng, nên lão nén lòng suy nghĩ:
- Thằng này tuấn tú hơn mình nếu để nó sống trên đời, thì con Liễu phải say mê đắm đuối nó.
Nghĩ như vậy lão gật đầu kêu lên:
- Được rồi!
Liền vung tay đâm mạnh một kiếm vào ngực Dương Qua. Nhưng Dương Qua đã có ý định dứt khoát:
- Mình không thể nào chống lại với hắn, thôi cứ để hắn giết cho xong.
Cho nên mũi kiếm sáng choang đâm vào ngực, chàng vẫn tự nhiên không đỡ, chỉ chăm chú nhìn Tiểu long Nữ. Chàng thầm nhủ:
- Mình nhìn nàng mà chết, thì chết không ân hận gì.
Tiểu long Nữ thấy thế mỉm cười âu yếm, ung dung bước tới bên chàng. Bốn mắt nhìn nhau trong hoan lạc, chẳng hề lưu ý đến lưỡi kiếm sát hại của lão động chủ một tí nào.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 049
ANH HÙNG VÀ GIAI NHÂN
Sự thật Công Tôn Động chủ với Dương Qua xưa nay chưa hề quen biết, nhưng lúc đầu mới gặp, động chủ đã được chàng giúp sức để chống với Châu bá Thông nên lão có cảm mến chàng. Thế thì đâu có thù oán gì mà đi đến chỗ sát hại nhau. Sở dĩ động chủ muốn giết chàng chỉ vì cái sắc đẹp của Tiểu long Nữ mà thôi.
Trong lúc mũi kiếm cuối cùng để kết liễu cuộc đời Dương Qua lão nhìn Tiểu long Nữ với cái nhìn ghen tức, tim lão nhói lên như điện chích vào. Đôi mắt lão hoa lên vì thấy người vợ trẻ đẹp, đang ân ái với chàng trai tuấn tú. Lão nhận thấy cặp mắt nàng say sưa nhìn Dương Qua bao nhiêu tình yêu nồng đượm, còn đôi mắt của Dương Qua như ánh sáng yêu thương, đón nhận hết, ánh mắt của nàng. Thế là mũi kiếm của lão cứ dí thẳng vào ngực chàng. Lão chỉ còn thúc nhẹ tay một cái là mũi kiếm lủng vào tim chàng. Nhưng lão thấy Tiểu long Nữ không một chút kinh hãi, mà thân mình Dương Qua không chút lay động. Hai người lại càng mê mẩn tiến sát vào nhau âu yếm như quên hết mọi người xung quanh. Lão quá tức và cũng ngạc nhiên, vội ngừng tay lại thầm nghĩ: "Ta không thể cho mày chết được sung sướng thế này. Mày chết đẹp đẽ quá sẽ chiếm mất tình yêu của ta. Con Liễu sẽ chết theo mầy mất! Hừ Hừ! Được rồi! Ta phải cho mày sống thêm một ít nữa, để mày được mở mắt trong cảnh tao kết hôn với con Liễu và mầy sẽ sống trong giây lát đau khổ rồi ta sẽ giết không muộn gì?".
Lão liền gọi Tiểu long Nữ nói:
- Em Liễu! Giờ em muốn anh giết nó hay tha mạng nó?
Tiểu long Nữ từ nãy giờ cứ mải mê nhìn Dương Qua, quên cả động chủ, chẳng biết có ai ở xung quanh. Bây giờ chợt nghe tiếng gọi, nàng giật mình, hơ hải đáp:
- Ngài gọi gì? Sao cứ dí kiếm vào ngực nó mãi thế? Ngài cất kiếm đi nào!
Động chủ gượng cười nói:
- Muốn tha cho nó thì dễ lắm! Nhưng em phải đuổi nó ra khỏi nơi này lập tức, để cho cuộc lễ thành thân của hai ta được vui vẻ.
Lúc nàng rời khỏi khu Cổ mộ, là nàng cố hy sinh tình yêu của nàng, để cho Dương Qua khỏi bị tiếng đời chê bai, nên nàng chịu sự đau khổ, tìm những nơi rừng sâu núi thẳm để cho chàng khỏi tìm được mà khoan khoái sống với cuộc đời tươi đẹp với thời gian. Nào ngờ chàng cũng khó nhọc đi tìm nàng, lại bị Chủ động đánh đập không cho chàng gần gũi nàng nữa, nhưng chàng vẫn đành chịu chết, chứ không chịu xa nàng. Thì cái chết của Dương Qua và Tiểu long Nữ hôm nay nó thú vị biết chừng nào! Chứ nàng đâu có thể chịu làm lễ thành hôn với động chủ Công Tôn, để cho chàng đau khổ? Tiều long Nữ quay lại nói:
- Thưa Công Tôn tiên sinh! Đa tạ tiên sinh đã cứu mạng tôi, nhưng tôi không thể thành thân với ngài được nữa!
Động chủ cũng đã dự đoán được lòng nàng rồi, nhưng lão giả vờ hỏi:
- Tại sao vậy em Liễu?
Tiểu long Nữ liền đứng sánh vai với Dương Qua, nắm tay chàng mỉm cười đáp:
- Tôi quả quyết định thành vợ chồng với Dương Qua, cùng chung sống chết trọn đời, lẽ nào ngài không hiểu được điều nầy?
Chúa động run người đau đớn nói:
- Cô Liễu! Hôm nọ nàng đừng tỏ lời ưng thuận thì thôi. Tôi đâu có phải lừa lúc nàng bị nguy mà ép bức. Sao nay nàng nói như thế?
Nàng vồn vã đáp:
- Vẫn biết như vậy. Nhưng hôm nay tôi không thể xa Dương Qua được! Bây giờ chúng tôi muốn cùng nhau ra đi, xin ngài vui cho!
Vừa dứt lời, hai người dắt tay nhau bước đi thoăn thoắt ra cửa. Mọi người không ngớt ngạc nhiên đứng nhìn sững sờ. Trước cử chỉ dứt khoát của nàng. Chúa động như điên người, vội tung mình nhảy vọt ra chận cửa, nói trong hơi thở tức nghẹn:
- Nàng muốn đi khỏi nơi nầy thì nên giết tôi trước đã!
Tiểu long Nữ mỉm cười nói:
- Tôi mang ơn ngài rất nặng, lẽ nào dám nghĩ như vậy! Hơn nữa, ngài là người võ công tuyệt đỉnh, tôi làm gì hại ngài được?
Nàng vừa nói, vừa xé vạt áo buộc vết thương cho Dương Qua. Chợt có tiếng gọi của Kim Luân Pháp Vương:
- Công Tôn đại huynh ơi! Đại huynh nên cho họ đi là hơn.
Động chủ không đáp, nét mặt hầm hầm đứng chận giữa cửa. Kim Luân Pháp Vương thấy vậy vội nói:
- Họ có phép đánh kiếm "liên thủ" hai người hợp lại thì dầu đại huynh ba đầu sáu tay cũng không sao địch nổi với họ. Tốt hơn đại huynh nên thương cho họ đi là hay hơn.
Pháp Vương nói thế là vì trước đây lão đã bị Dương Qua và Tiểu long Nữ dùng "Ngọc nữ tâm kinh kiếm pháp" đánh lão thua liểng xiểng, làm cho lão phải mang nhục ấy hết đời. Cho nên lúc nầy lão thấy "Âm dương đao pháp" của Chúa động lợi hại, biến hóa khôn lường, không hề kém vòng "bánh xe" của lão chút nào. Lão bèn đem lời nói khích, để cho ba người đấu với nhau một phen, như thế lão có hai điều lợi: điều thứ nhất là lão được trông kỹ những đường "liên kiếm" của Dương Qua và Tiểu long Nữ để tìm những chỗ sơ hở của "song kiếm" nghiên cứu phá cho kỳ được để mai mốt thừa cơ gây sự báo thù. Hai là nếu ba người cùng đấu mà cả ba chết hết, hoặc bị thương lão sẽ thừa cơ ấy kết liễu tánh mạng cho rồi, đỡ bớt một mối lo cho lão, trước khi xuống Trung nguyên.
Thực ra nếu Pháp Vương không nói khích đi nữa thì Chúa động cũng nhất quyết không để Dương Qua và Tiểu Long Nữ nắm tay nhau đi ra một cách dễ dàng. Bây giờ nghe Pháp Vương nói khích, Chúa động lại hiểu lầm lẩm bẩm:
- Trước mặt ta mà mi dám nói lời khinh rẽ. Lúc này ta chưa rảnh tay, để vài ngày nữa ta sẽ liệu cho ngươi.
Chúa động tuy sống như ẩn sĩ nhưng lòng chưa được điềm tĩnh. Vả lại lão là một vị Chúa động nên có thói quen "Duy ngã độc tôn". Các đồ đệ không ai dám trái ý lão. Đến như con gái của lão, rủi phạm tội một chút, lão cùng hành tội thật khủng khiếp. Bởi thế, dù với giá nào, lão cũng phải thu phục cho được Tiểu Long Nữ để lấy nàng. Lão nghiến răng nghĩ thầm: "Tại sao nàng lại lạnh nhạt với ta như vậy? Ta đối xử với nàng hết lòng, thế mà không được đền bù, lại còn phản ta ư?". Lúc đầu, lão tưởng đem Dương Qua ra hành tội, để nàng thấy uy thế phải khuất phục. Nhưng cả hai đều không sợ chết chút nào. Lão tức đến điên khùng, định bụng: "Dẫu có giết hai đứa, ta cũng phải giết, nhất định ta không để cho nàng và Dương Qua sống một cách đoàn tụ".
Còn Dương Qua, sau khi được Tiểu Long Nữ đáp lại bằng những lời tha thiết, chàng cảm thấy sung sướng vô cùng, nên quyết chí chiến đấu tăng lên gấp bội phần. Chàng cất giọng oang oang hỏi lại:
- Này động chủ! Ông còn muốn gì nữa mà không để chúng tôi ra đi?
Nghe Dương Qua nói cặp mắt lão dựng ngược lên, lóe hào quang đầy sát khí. Nhưng lão chưa kịp ra tay thì trong nhà có tiếng Mã quang Tổ vọng ra:
- Thôi ông già Công Tôn ơi, người ta đã nói không thể lấy ông được, mà ông còn ngăn chặn làm chi cho nhọc sức?
Trong khi ấy, Tiêu tương Tử cũng nói xen vào:
- Mã huynh đừng xen vào chuyện người động chủ mà mích lòng. Động chủ hôm nay bày tiệc sẵn sàng mời chúng mình ăn uống một bữa no say, đối đãi với chúng mình thật là chu đáo mà!
Mã quang Tổ vẫn lớn tiếng cãi lại:
- ăn rau sống, uống nước lã có gì là no say? Giá tôi như cô nương tôi không bao giờ lấy ông ấy. Cô nương sắc đẹp thế kia, đáng ra phải lấy vị thái tử mới xứng, sao lại đi lấy một ông già ăn rau sống uống nước lã, ở chỗ núi non hiểm trở thế nầy?
Mã quang Tổ tuy nóng nảy, nhưng câu nói của ông xét ra rất có lý. Tiểu Long Nữ nghe Quang Tổ nói như thế quay lại ôn tồn nói:
- Ông Mã! Ông nên biết rằng ơn của chúa động cứu tôi, tôi vẫn ghi lòng tạc dạ, suốt đời không bao giờ quên.
Mã quang Tổ lại kêu:
- Phải rồi! Ông Công Tôn ơi! Như ông là người đại nhân đại nghĩa, trên đời, thì sẵn dịp này, lễ vật ông đã sắm đầy đủ rồi, ông cho hai người nầy mượn tạm cái nhà này làm lễ thành hôn cho hai người, còn chúng tôi là khách thì hay biết chừng nào! Lòng rộng lượng của ông sẽ được người đời khen ngợi. Chứ ông cứu mạng một cô gái, mà buộc cô ta làm vợ ông, nhưng cô ta không bằng lòng, thì ông sanh thù oán. Như thế thì đâu là nghĩa khí giang hồ?
Lời nói trực tính của Mã quang Tổ, tuy mới nghe như bướng bỉnh, nhưng cũng chẳng ai bắt lý gì bài bác được. Công Tôn động chủ căm giận vô cùng, nảy ra một ý quyết liệt: "Ta cho cả bọn này sa vào lưới sắt cho xong chuyện". Lão liền tỏ vẻ lơ đễnh nói:
- Cái động "Tuyệt tình" của ta đây không phải là nơi hiểm độc nhưng các vị muốn quanh quẩn làm gì mặc ý. Gã Công Tôn này đã quá nhường nhịn các ngươi, khiến cho các ngươi quá khinh ta lắm rồi đấy.
Lão lại nhìn Tiểu long Nữ nói:
- Này cô Liễu! Cô còn nhớ chứ?
Tiểu long Nữ mỉm cười nói:
- Tôi không phải họ Liễu. Tôi đã nói dối với tiên sinh đấy. Tôi chính là họ Long, nhưng vì anh Qua này họ Dương, nên tôi phải nhận mình là họ Liễu để ghi nhớ những ngày xa cách.
Cơn ghen tức như đốt cháy phừng phừng trong lòng động chủ, nhưng lão vẫn cố giữ vẻ mặt như thản nhiên, nhỏ nhẹ nói:
- Cô Liễu ơi!
Chưa kịp nói tiếp, Mã quang Tổ đã nói hớt:
- Kìa, cô nương nầy đã xưng họ Long, sao ông cứ gọi là cô Liễu?
Tiểu Long Nữ xen vào:
- Vì Công Tôn tiên sinh gọi thế đã quen, xin để tùy ý tiên sinh muốn gọi thế nào cũng được.
Động chủ được thể, nói tiếp:
- Cô Liễu! Cứ để gã họ Dương nầy đấu thắng cặp "Âm dương đao" trong tay ta, thì ta sẽ cho hắn được tùy ý. Đây là việc riêng giữa ta với hắn, hai bên phải tự giải quyết dứt khoát. Không được ai can dự vào việc nầy.
Suy nghĩ bao nhiêu đi nữa, rồi lão cũng phải dùng công lực để cố chiếm cho được Tiểu long Nữ.
Tiểu long Nữ thở một hơi dài não ruột, nói:
- Tiên sinh ơi! Tôi vốn mang ơn của ngài, nên tôi không muốn đọ tay với ngài. Nhưng một mình anh Dương Qua không đủ sức đấu với ngài, thì buộc lòng tôi phải giúp anh Dương vậy.
Động chủ cau mày nói:
- Cô Liễu! Cô không sợ ư? Cô vừa bị thổ huyết, còn sức đâu mà giúp hắn?
Tiểu long Nữ buồn bã nhìn lão tha thiết nói:
- Hai đứa tôi không có một binh khí gì, tay không đấu với đao kiếm, tức là lãnh chắc phần thua rồi. Nhưng ngài là bậc đại nhân, đại lượng, xin ngài sẵn lòng cho chúng tôi ra khỏi động, để ngài khỏi nhọc lòng.
Kim Luân Pháp Vương vội nói xen vào:
- Công Tôn huynh ơi! Động của huynh rộng lớn bao la, đâu có thiếu binh khí cho họ mượn? Nhưng huynh phải thận trọng, chứ hai người ấy có thuật đánh gươm tiếp tay lợi hại lắm đấy! Sư huynh khó thắng được.
Công Tôn động chủ chỉ về phía tây khẳng khái nói:
- Các ngươi đến dãy phòng ba, dãy nhà kia là phòng gươm đấy. Cứ vào đó mà lựa thứ binh khí nào vừa ý các ngươi. Tôi e rằng những khí giới bén sắc trong đó, dù cơ đồ quý khác ở đâu cũng không thể có một thứ tương đương.
Dương Qua và Tiểu Long Nữ nhìn nhau đều có thâm ý: "Hai chúng mình được tránh khỏi cặp mắt ở đây, cùng vào cái nhà kín ấy, được thông cảm nhau trong chốc lát đủ rồi, sau có chết cũng vui lòng". Thế là họ dắt tay nhau tiến về hướng tây, theo dãy nhà nhà ngang bỏ hai phòng đầu, tới phòng thứ ba tức là "kiếm phòng" của động "Thủy tiên".
Lúc hai người nắm tay kề vai sánh bước, đôi mắt Tiểu long Nữ không rời khuôn mặt Dương Qua. Đến nơi chàng thấy căn phòng đóng kín, đưa tay xô ra, nhưng vừa bước qua ngạch cửa, đột nhiên có ý khả nghi, liền lùi lại nắm tay nàng khẽ kêu:
- A! Khoan ! Phải cẩn thận!
Nàng vội hỏi:
- Vì sao hả anh?
Dương Qua đưa bàn chân mặt trong ngạch cửa, khẽ đặt nhẹ xuống nền ván bên trong. Chàng vội giật chân ra ngay. Không thấy việc gì xảy ra, nàng liền hỏi:
- Anh sợ động chủ đặt bẫy ám hại chúng ta à? Không đâu! Ông ấy có lòng tốt mà, đâu có lý làm như vậy?...
Nàng vừa nói chưa dứt lời, chợt nghe rít vù vù ánh sáng lập lòe trước mắt. Liền nghe "choang" một tiếng. Hai người thấy rõ tám lưỡi kiếm, từ bốn phía khuôn cửa phóng nhập vào giữa. Như thế, nếu không đề phòng, thì dẫu cho người có võ công tuyệt đỉnh, cũng phải bị tám lưỡi kiếm găm vào mình rồi.
Tiểu long Nữ thở dài buồn rầu, nói:
- Anh Qua! Em không ngờ lão chúa động lại có lòng độc ác như vậy! Thôi mình đừng so gươm với lão làm gì nữa, nhân lúc nầy mình tẩu thoát cho xong.
Dương Qua chưa kịp mừng, chợt nghe đằng sau có tiếng nói lớn:
- Động chủ mời hai vị chọn kiếm nhanh trở lại. Chúng tôi đang mong đợi.
Họ quay đầu nhìn lại, thì thấy tám đệ tử áo xanh đã giăng lưới kín ở phía sau rồi, và dưới lưới có treo những móc sắt nhọn, trông rợn người. Không thể nào tẩu thoát được, mà đứng thì hết đường chống đỡ. Cái giây "Kim linh sách" của Tiểu long Nữ đã bị lưỡi hắc kiếm của động chủ cắt đứt rồi, không thể tung đánh bọn đệ tử được nữa.
Công Tôn động chủ đã lo đề phòng trước, đoán biết cả hai sẽ mưu trốn, nên đã cho đệ tử bủa lưới giữ chân.
Tiểu Long Nữ ngẫm nghĩ rồi nói:
- Anh Qua! Anh đoán trong phòng này còn gì nguy hiểm nữa chăng?
Chàng đưa hai tay nắm lấy tay nàng, như âu yếu nói:
- Cô ơi! Lúc nầy mình được gần nhau thế nầy, thì còn sợ hãi gì nữa? Dẫu có gặp muôn ngàn gươm đâm cho nát thịt, tan xương, thì chúng ta được chết chung một chỗ.
Lòng nàng dâng tràn muôn ngàn mối yêu thương! Hai người sẽ bước vào phòng kiếm, thấy rương đủ cỡ, chứa đựng những gươm đủ loại mà hơn hai phần là loại gươm cổ. Có nhiều thanh dài hơn bảy tám thước, có mũi ngắn chừng năm tấc. Thứ thì nổi hoa đủ màu, thứ toả ánh sáng rợn người.
Họ loạn mắt, trong chốc lát không thể nào nhìn tường tận được hết. Tiểu long Nữ nhìn chàng không chớp mắt, bỗng nghe "xoà" một tiếng, nàng ngã người gục đầu vào ngực chàng. Dương Qua ôm chặt lấy Tiểu Long Nữ. Hơi ấm áp làm lòng chàng rạo rực, mắt đê mê như dắn vào khuôn trăng diễm lệ. Chàng không thể nén được tình yêu nên không coi nàng là "thầy võ" như trước. Chàng cúi xuống áp vào mặt nàng. Cử chỉ đượm yêu đương làm cho Tiểu long Nữ xiêu lòng mê mẩn.
Chợt nghe "kẹt" một tiếng, cánh cữa mở ra, thấy một gã đệ tử áo xanh lớn tiếng gọi:
- Hai người chọn kiếm nhanh lên, ra khỏi phòng lập tức, không được chần chờ như thế!
Động chủ đã nóng lòng rồi đấy.
Mặt Dương Qua đỏ bừng, vội buông tay ra. Tiểu long Nữ vốn lòng thầm yêu chàng, khi nãy chưa được thổ lộ, giờ mới được dịp tỏ tình yêu chưa thỏa lòng khao khát, lại bị người khuấy nhiễu, nàng thở dài, thỏ thẻ:
- Anh Qua! Mình cố sức đánh bại lão động chủ, rồi hãy thân ái cùng nhau!
Chàng mỉm cười gật đầu nói:
- Thế cô lựa kiếm đi!
Nàng sung sướng nói:
- Anh cùng lựa với em chứ!
Hai người đưa mắt nhìn khắp các loại kiếm. Nàng định ý:
- Ta phải lựa một đôi sắc bén, dài, nặng cho bằng nhau, để cùng chàng dùng pháp "liên thủ ngự địch" là được thắng lợi như trước kia.
Nhưng lựa mãi chẳng có đôi nào giống nhau, bằng nhau cả, mỗi chiếc mỗi khác. Nàng lại hỏi chàng:
- Anh Qua! Sao khi nãy anh mới bước đến cửa này, anh biết được có máy gài ám khí?
Chàng vui vẻ nói:
- Tôi nhìn sắc mặt lão động chủ là hiểu được lão không cưới được cô, ánh mắt chứa đầy ghen tức, thì đáng ngờ rồi. Dã rõ được tâm địa độc ác của lão, tôi không thể tin lão thực lòng mời chúng ta lựa gươm.
Nàng thở dài nói:
- Chúng mình tiếp tay nhau, dùng "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp". Anh định có chắc thắng được lão ấy hay không?
Dương Qua bình tĩnh nói:
- Nội công lão tuy mạnh, nhưng cũng không hơn Kim Luân Pháp Vương, như thế ta cũng có thể thắng được lão.
Nàng vồn vã nói:
- Phải đấy! Lúc nãy Pháp Vương đã nhiều lời khích lão để đấu với chúng mình. Chắc hắn còn uất hận vì đấu thua mình lúc trước.
Chàng mỉm cười, nói:
- Lòng người như dã thú, tinh ma. Như thế cô cũng hiểu được ý ác của lão rồi đấy.
Bỗng nhiên chàng biến sắc mặt, nói:
- Tôi lo cho cô quá! Cô mới bị thổ huyết.
Nàng mỉm cười như hoa xuân nói:
- Anh cứ an tâm, chỉ vì xuất động thương tâm thì ứa máu như thế, nhưng lúc nầy em được sung sướng với anh lắm rồi. Điểm nội thương ấy không còn lo ngại nữa. Mà hôm nay em thấy võ nghệ của em đã tiến bộ nhiều hơn lúc đánh với Pháp Vương. Thì ngày nay có gì đáng lo?
Dương Qua nghe nàng nói lòng thầm phấn khởi, chàng tin tưởng nắm chắc phần thắng trong trận đấu với lão chúa động nầy. Chàng âu yếm nắm tay nàng, khẽ nói:
- Nhưng cô phải vui lòng một điều để đáp ứng lòng tôi nhé!
Nàng thỏ thẻ nói êm như ru:
- Anh còn nghi ngờ lòng em làm gì? Từ lâu em đã không còn là "thầy võ" của anh nữa. Thì em là vợ anh. Từ nay em xin nghe lời anh.
Chàng sung sướng quá nói:
- Thì ra... Thì còn... còn gì hơn nữa!...
Thế mà cô để cho tôi đau khồ từ trước đến giờ! Chẳng biết gì cả...
Nàng tỉ tê nói:
- Em nhớ mãi cái buổi chiều tối hôm ấy, Chung Nam, hai đứa mình đã thân ái nồng nàn như thế rồi. Nên sau đó, em đâu làm nổi "cô thầy" của anh nữa? Tuy anh chưa nhận em làm vợ, nhưng trong lòng em đã tự nhận em là vợ anh rồi.
Dương Qua không hiểu *********** chiều hôm ấy ở núi Chung Nam đầu đuôi thế nào mà chàng được thân ái với nàng? Chàng nghĩ rằng nàng cũng vì thân yêu mình từ lâu, nên e thẹn đành bỏ ra đi, chứ chàng đâu biết được chuyện độc ác của Doãn chí Bình gây ra.
Chàng thầm nghĩ:
- à! Hôm ấy, nghĩa phụ Âu dương Phong truyền thụ võ nghệ cho ta đã đánh ngã nàng, chớ ta đã thân ái với nàng đâu?
Nhưng bên tai chàng những lời ân ái trìu mến của nàng hòa trong hơi thở như rót vào tâm hồn. Chàng say mê, chẳng biết nói gì nữa. Nàng lại ngả người vào ngực chàng thỏ thẻ:
- Anh muốn em chiều ý điều gì?
Dương Qua đưa tay vuốt làn tóc huyền óng ả của nàng, nói:
- Chúng mình thắng động chủ rồi thì lập tức cùng nhau đi về Cổ mộ. Từ đó cố gắng mãi mãi bên tôi, không bao giờ chúng mình rời nhau nửa bước nhé, dầu việc đời khó khăn thế nào đi nữa?
Tiểu long Nữ từ từ ngửa mặt nhìn lên đôi mắt chàng, nói:
- Em có bao giờ thích xa anh? Sau khi rời bỏ anh ra đi, em đã phải đau lòng xót ruột hơn cả anh nữa? Cố nhiên em phải nghe lời anh. Dù cho nguy biến đến đâu em cũng không thể xa anh được nữa.
Chàng quá sung sướng, đang đê mê lời tha thiết của nàng, bỗng có tiếng người gắt lên. Gã đệ tử áo xanh hỏi gắt:
- Đã chọn gươm xong chưa?
Tiểu long Nữ mỉm cười trìu mến nhìn Dương Qua, nói:
- Thôi! Chúng mình phải ra đi.
Hai người đứng nhìn khắp phòng, định lựa đôi gươm nào hơi giống nhau cũng được. Nhưng chợt thấy vách tường phía Tây có vệt lửa sém rất lớn. Cả hai liền rảo bước đến thì thấy đầu mấy cái bàn gần đó cũng cháy sém
hết cả. Dương Qua mỉm cười nói:
- Lão già ấy thường vào phòng nầy lắm. Có lẽ đêm tối lão cầm đuốc vào tìm vật gì đây, vô tình gác đuốc một chỗ, đến nỗi lửa sém như vậy.
Nhân lúc nhìn các vật bị cháy sém, thình lình hai người trông thấy hai vỏ gươm lộ ra dưới bức tranh bị cháy quá nửa. Chàng thầm đoán: Hai thanh gươm này vốn trước kia được treo giấu vào hai bức tranh. Sau bị lão vô ý để lửa cháy sém mất nửa dưới, nên gươm mới lòi ra đây. Người chủ đã cất cẩn thận như thế, có lẽ là đôi gươm đặt biệt quí giá. Chàng liền đưa tay vào, lấy hai thanh kiếm ra, trao cho nàng một thanh. Nhưng khi chàng tuốt gươm ra khỏi vỏ, cả hai đều bỡ ngỡ thấy kiếm chỉ một màu đen sì ở cán đến mũi, chẳng có một ánh thép nào. Trông như một thanh gỗ mun. Nàng cũng vội tuốt gươm trong tay nàng, thì thấy cũng một màu đen thui, như thanh gươm của chàng.
Hai người so hai thanh kiếm vào nhau, quả bằng nhau từ bề dài bề rộng, đến hình mũi, hình cán cũng không khác tí nào. Đặt chúng nằm kề nhau trên bàn, thì trong phòng lại có một khí lạnh. Nhưng nhắm hình dáng thì thật khó coi. Mũi kiếm không nhọn, lưỡi sống đều như nhau, không chút sắc bén.
Dương Qua hơi thất vọng, cầm thanh gươm lật đi, lật lại mãi, chợt thấy đầu cán có khắc chữ "Anh hùng". Chàng nhìn sang kiếm của Tiểu long Nữ lại có hai chữ "Giai nhân". Lòng chàng cảm thấy phơi phới lạ thường. Chàng cảm thấy sung sướng với bốn chữ trên cán gươm, mà đem lòng mến cặp kiếm ấy. Chàng ngắm nhìn xem nàng có ý thế nào?
Nàng nói:
- Hay lắm anh Qua! Gươm này không nhọn, không sắc, mình dùng đấu với động chủ là hợp. Vì dầu sao lão cũng đã cứu em, thì chúng mình cũng không nỡ giết lão.
Dương Qua mỉm cười nói:
- Trông lại cây gươm nầy lạ thường. Gươm đao là vật giết ngươi, mà lại rất hiền từ, cho nên được mang hai cái tên tuyệt đẹp: "Anh hùng" và "Giai nhân".
Dứt lời, chàng đưa gươm lên vung thử mấy cái, nhận thấy sức mạnh rất vừa tay, sử dụng rất hợp ý. Chàng vui vẻ nói:
- Tốt lắm? Mình dùng ngay đôi kiếm nầy.
Tiểu long Nữ cũng tra gươm vào vỏ, hai người định đi khỏi phòng chợt nàng để ý đến lọ hoa trên bàn, thầm nghĩ:
- Bó hoa gì mà có màu tươi mơn mởn, thật đẹp! Nhưng ai cắm lệch như thế. Một vẻ mỹ thuật uổng quá.
Nàng vội bước đến đưa tay nắm bó hoa, sửa lại. Dương Qua hớt hải, kêu lên:
- ấy chớ! Chớ mó vào đó!
Nhưng trễ rồi! Tay Tiểu long Nữ đã bị gai đâm mấy mũi. Nàng kinh ngạc quay lại hỏi chàng:
- Có gì hợi hại lắm hả anh?
Chàng liền nói:
- Hoa nầy chính là loại "Tình hoa". Cô ở trong dộng nầy đến mấy ngày, mà lại ngớ ngẩn quá vậy?
Nàng đưa vết gai đâm lên miệng, phà hơi cho đỡ nhức, lắc đầu nói:
- Em có biết gì đâu?
Dương Qua định giải thích cho nàng rõ, thì bọn đệ tử áo xanh đã thúc giục. Thế là hai người đã trở lại công sảnh. Công Tôn động chủ đợi quá lâu, trừng mắt quát mắng bọn đệ tử, vì sao không thúc giục hai người ra cho mau, lại để họ ở trong phòng gươm lâu như thế? Lão có biết đâu, chàng với nàng đã lợi dụng nơi kín đáo đễ tâm tình với nhau rồi!
Động chủ đợi hai người đến gần, gượng vui nói:
- Cô Liễu! Cô đã chọn gươm chưa?
Nàng liền đưa thanh kiếm "Giai nhân" ra gật đầu nói:
- Chúng tôi sở dĩ chọn hai thanh kiếm cùn nầy, vì chẳng có ý so gươm với động chủ. Nhưng phải tuân lời cho vừa lòng tiên sinh.
Động chủ trông thấy thanh kiếm giật nẩy người, lớn tiếng hỏi:
- Ai đã xúi cô lựa hai thanh kiếm ấy?
Dứt lời lão đã quắc mắt nhìn sang nàng Lục Ngạc, như thầm quở phạt con gái lão. Rồi lão lại nhìn qua Tiểu long Nữ. Nàng thấy lão có vẻ kinh ngạc liền đáp:
- Tự ý tôi chọn, chứ không ai bày vẽ cả. Chứ đôi kiếm này tôi dùng không được sao tiên sinh? Nếu vậy thôi để chúng tôi vào phòng chọn kiếm khác vậy.
Lão trừng mắt giận dữ, lườm sang Dương Qua thầm nghĩ: "Hừ! Vào chọn cặp khác, để rồi ở lì trong đó cho sung sướng. Còn ta phải đứng chờ hơn nửa ngày nữa sao?". Lão gằn giọng nói:
- Không cần phải đổi nữa. Hãy quyết đấu ngay!
Tiểu long Nữ nói:
- Này, Công Tôn động chủ, chúng tôi xin nói trước cho ngài rõ: như một mình ta, hoặc một mình anh Qua đấu với tiên sinh cũng có thế được rồi. Nhưng ngài đã đồng ý cho hai chúng tôi cùng đấu với ngài thì chúng tôi nắm chắc phần thắng, nếu vậy phần thắng chúng tôi không được là phần thắng vinh dự.
Động chủ cười gằn nói:
- Cô Liễu! Hãy chờ thắng được ta rồi hãy nói. Nếu hai người thắng được cặp đao kiếm trong tay ta, ta sẽ cho các ngươi được quyết định. Còn nếu các ngươi thua ta, thì cô Liễu phải thành hôn với tôi chứ không được tráo trở nữa.
Tiểu long Nữ mỉm cười nói:
- Nếu chúng tôi thua, thì tôi cũng chết theo anh Qua trong động "Tuyệt tình" nầy.
Động chủ nổi giận đùng đùng không còn nói gì nữa, vung tay trái lia một đao nghe "vù" một tiếng, đã đâm thẳng vào mặt Dương Qua. Chàng vung kiếm lên đánh bạt ra, rồi chém trả một đòn "Bạch lạ lượng xí". Đó là một đòn chánh quyền trong phái "Toàn Chân". Động chủ thầm nghĩ: "Đòn này tuy đánh trúng pháp độ nhưng dễ đỡ chưa có gì. Lão liền đâm thêm một đao vào ngực chàng. Thế là lão đã gạt Tiểu long Nữ ra, và đao lẫn kiếm vẫn chém ngay Dương Qua. Chàng tiếp chiêu rất lanh lẹ. Kiếm pháp Toàn Chân chàng đã học được ở Cổ Mộ, nhưng võ nghệ lúc này chàng sử dụng rất thần diệu. Những đòn này so với những đòn chàng đánh với Kim Luân Pháp Vương lúc trước đã tiến hơn mấy bực. Một mình chàng đã tiếp ba đòn, nhưng trong cái mới mẻ tinh vi vẫn bao hàm cái cổ pháp thần hậu. Kim Luân Pháp Vương thấy chàng còn trẻ mà kiếm pháp đã thâm hậu, lòng vừa thầm phục vừa ghen tức. Tiểu long Nữ thấy động chủ đánh chàng liên tiếp ba đòn, mà không lưu ý đến nàng, liền ứng kiếm tiến đến. Nhưng lão vẫn không để ý đến đường gươm của nàng. Mọi người trông thấy lối gạt đỡ của lão, đủ biết lão không cố tâm đánh với Tiểu long Nữ. Pháp Vương xem qua bảy, tám hiệp, mỉm cười gọi bảo:
- Huynh Công Tôn! Nếu huynh còn tiếc ngọc thương hương, thì sẽ bị đau đớn lắm đấy.
Động chủ cau mày đáp:
- Đại hòa thượng! Nếu chỗ nào còn sơ xuất xin người cứ im lặng mà xem, đợi đấu xong sẽ chỉ giáo. Lúc nầy nói xen vào, chỉ tốn lời không lợi gì.
Miệng nói tay lão vung đao kiếm, tiếng gió rít vu vu, đường sáng lập lòe trông như chớp. Tiếp đến những tiếng "choang choang" nghe chát chúa, của đôi kiếm Dương Qua và Tiểu long Nữ hợp sức nhau đỡ hơn sáu, bảy hiệp nữa. Dương Qua lại đánh một đòn "Mạc bắc hoành hành" của phái Toàn Chân. Tiểu long Nữ đánh ra thì đòn "Thái bút hoa mi" trong kiếm pháp Ngọc Nữ. Hai đường gươm cùng tiến đến chém vào người động chủ. Hai đòn ấy hợp lại thành đòn "Liêm hạ sơ trang" động chủ giật mình, không dám tung kiếm ra đỡ. Trong lúc nguy cấp, không còn cách nào, lão phải đưa hắc kiếm tay mặt đỡ gươm Dương Qua còn tay trái kim đao giữ vững ngang mày. Thế là mũi kiếm Tiểu Long Nữ thẳng vào giữa cặp mắt lão, nghe "cạch" một tiếng, đầu kim đao của động chủ bị văng ra gần nửa lưỡi! Mọi người trông thấy đều lắc đầu kinh ngạc, không ngờ thanh kiếm trong tay Tiểu long Nữ trông đen thui, bèm bẹp! Ngay đến Dương Qua và Tiểu long Nữ cũng không ngờ được. Khi lựa đôi gươm ấy, hai người chỉ thích hai cái tên khắc trên chuôi kiếm mà thôi, nào ngờ lúc giao đấu mới biết nó là một báu vật vô giá. Từ đó, chàng và nàng thêm phấn khởi, đôi gươm càng lúc càng linh động hơn. Công Tôn động chủ võ học cực kỳ uyên thâm "Âm dương song đao" của lão một cương một nhu, nên khi sử dụng thì cứ sau mỗi đòn sức mạnh lại tăng lên một bậc, nhưng lúc nãy lão phải giật mình, lo nghĩ: "Con Liễu với thằng này võ công đều kém ta, dầu hai đứa hợp sức lại ta coi ra gì chỉ ngặt có đôi gươm lợi hại ấy. à, thế ra lão Hòa thượng kia nói đúng. Chúng có thuật hỗ trợ, rủi hôm nay mà mình thua hai đứa này, thì nguy hiểm....". Nghĩ đến đây, lão bèn vung mạnh đao tay trái chém sang bên hữu, đưa kiếm tay mặt đâm chéo sang bên tả. Lão đã thử xuất bình sinh tuyệt học ra đánh theo pháp "âm dương loạn đao". Phép này rất kỳ diệu vô song. Hắc kiếm thuộc âm thì mềm, lúc chém ra rất cứng, kiếm pháp âm dương liên tục. Còn cây đao răng cưa to nặng lại đâm rất lẹ, chém qua lại rất dẻo, hóa thành những thanh kiếm rất nhẹ nhàng. Trong cuộc ác đấu, rõ ràng kim đao hóa thành kiếm, kiếm hóa thành kim đao, một thuật quá kỳ ảo, khó ai chống nổi. Doãn khắc Tây vốn tự phụ đã xem hết những cuộc biểu diễn võ học trong thiên hạ nhưng lúc này cũng lắc đầu, thừa nhận chưa hề trông thấy cái thuật đánh "đảo đao kiếm" thế này bao giờ, mà cũng chưa nghe ai nói đến.
Mã Quang Tổ trố mắt kêu lên:
- Ô kìa! ông già chúa ơi! Ông đánh cách gì loạn lên và kỳ quái quá vậy?
Công Tôn động chủ mới hơn bốn mươi tuổi cũng chưa đến nỗi già mấy. Nay định lấy Tiểu long Nữ làm vợ, thế mà cứ bị cái chú "ruột ngựa" đó kêu là "Ông lão" hay "cụ già" thì sao lão khỏi tức bực? Lúc ấy lão không rảnh tay được để sửa trị Mã quang Tổ một trận cho đã giận. Lão đành nén giận, cố sức trổ tài "đảo pháp loạn" mà lão đã dày công luyện tập hơn mười năm. Lão định ý đánh bại Dương qua và Tiểu long Nữ rồi sẽ tính với đao với kiếm của lão. Trông bên ngoài như không phân định được kiếm của khách, đao của chủ, nhưng thực ra, lão phân biệt rõ ràng không thể lầm lẫn. Hắc kiếm là chính, kim đao là phụ, nhưng lúc đánh đảo loạn thì không ai còn phân biệt được hắc kiếm, kim đao. Đó là thuật "âm dương đao pháp". Pháp đao âm dương này, lão chưa hề dùng trước mặt người ngoài bao giờ. Ngay như Phàn nhất Ông là đệ tử đứng đầu của lão, theo học đã hơn hai mươi năm rồi, mà đến hôm nay mới được trông thấy cái đặc oai của môn võ công đó.
Dương Qua và Tiểu long Nữ hai gươm hợp sức đánh đòn "liên hạ sơ trang", là chiếm được ưu thế rõ rệt. Nhưng vì đối thử đao loạn đao gươm, đánh đỡ kỳ lạ, nên hai người đâm ra ngượng tay suýt bị mấy đòn nguy hiểm. Lúc này, võ nghệ và nội công của Dương Qua đã trội lên Tiểu long Nữ. Chàng thấy hắc kiếm có vũ lực mạnh hơn kim đao, nên dùng kiếm chống trả với hắc kiếm, nhường cho nàng đỡ cây đao. Chàng thầm đoán: "Để nàng chống đỡ phần nhẹ thì kiếm của nàng có thể gây được áp lực, đối phương không dám chọi thẳng tới nữa. Do đó, hai người bớt phần nguy hiểm. Nhưng chỉ có điều bị địch thủ dùng thuật kỳ quái quá, không thể đem kiếm pháp phái Toàn Chân ra chống được nên phải đánh theo lối tùy cơ ứng biến".
Nguyên trước kia, lúc Lâm triều Anh mới khai sáng "Ngọc nữ tâm kinh" cố tập luyện với Vương trùng Dương cùng nhau đi tung hoành khắp giang hồ, giờ đây chàng sử dụng kiếm pháp phái Toàn Chân còn nàng sử dụng Ngọc Nữ tâm kinh kiếm pháp. Nhưng thấy địch thủ đánh thuật quá kỳ chàng lại bỏ thuật phái Toàn Chân, trổ lối kiếm pháp tự sáng chế của chàng để chống với động chủ. Kiếm thuật tự luyện của chàng xét về lợi hại thì cũng không hơn gì kiếm thuật phái Toàn Chân, nhưng được cái lợi là dùng kiếm pháp tự sáng chế thì tâm ý thân thể, lục hợp duy nhất, mỗi đòn đánh ra hoặc chống đỡ, đều hợp với cá tính của chàng tạo thành một kiếm pháp ngoại lệ, trở nên linh diệu đặc biệt.
Nhưng chàng đánh thế "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" bị mất đà sụp xuống nửa công lực. Lúc này chàng và nàng ai lo phần nấy và hai đòn kiếm không còn tiếp sức nhau nữa, cho nên sức mạnh cũng như sự nhanh nhẹn cũng bị giảm bớt.
Công Tôn động chủ thừa thắng vung hắc kiếm chém ba đòn nghe "choang choang". Đồng thời lượn tay trái đâm tiếp bốn mũi "Địch dương chân", "Hư khí phân kim", "Kình tha thích cẩu" và "Cửu phẩn liên đài". Bốn đường rõ là những đường kiếm phiêu dật lưu chuyển. Bốn mũi đao hợp sức với ba nhát kiếm.
Dương Qua còn đủ sức chống đỡ nhưng Tiểu long Nữ bối rối, nàng toan dùng "Thục nữ Kiếm" chặt cụt kim đao, thì cây đao trong tay trái động chủ cứ tung lượn như chớp nên không thể nào chém tới được. Dương Qua cảm thấy nàng đuối sức liền nghiêng mình qua chống đỡ. Chàng tung một đòn trong kiếm pháp Toàn Chân là "mã tự lạc hoa" lao ngang người qua vút gươm lên gạt kiếm lẫn đao của địch thủ.
Tiểu long Nữ vội hồi kiếm đâm ngay lưng động chủ. Chỉ là chàng với nàng trở lại hợp khởi, đôi kiếm trở lại thuật "Ngọc nữ tố tâm kiếm". Thuật này được linh động như thế là nhờ ở hai người sử dụng kiếm liên thủ một lòng với nhau, tính tình như một người. Mà đòn này Dương Qua còn phải liều mình cứu nàng làm cho kiếm thuật tâm pháp cực cao, thành thử đòn "mã tựu lạc hoa" có một uy lực rất thịnh, đã đỡ gạt được đao kiếm của động chủ, mà thừa thế áp đảo. Tiểu long Nữ thấy chàng không che giữ mặt trước của chàng mà phải liều thân qua cứu nàng, nên lòng quá cảm động, vung kiếm sang đỡ môn hậu cho chàng. Thế là cả hai vốn không tự giữ mình mà trở thành được che kín cả.
Lúc này đôi gươm trở nên ác liệt. Sau mấy đòn, Công Tôn động chủ trên trán đã nhễ nhại mồ hôi, còn chàng và nàng lối đánh tiếp tay mỗi lúc một thuận. Dương Qua thừa thắng đưa tay trái múa thành hình "khoái", tay mặt phóng kiếm đâm xiên xuống hông trái đối phương. Tiểu long Nữ thì hai tay giữ chặt thanh gươm, vung ngược lên một nhát. Đòn này gọi là "Cử án tề mi" một đòn lợi hại vào loại đẹp mắt trong "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp". Thấy thắng địch dễ dàng, lòng nàng hân hoan, nên tình yêu đương cũng rạo rực cả tâm hồn. Nàng quay lại nhìn chàng một cái để cảm thông. Bỗng nhiên nàng nhức buốt cả tim gan, sức đau khốc liệt như ai đâm một mũi kiếm vào tim nàng vậy. Cả hai tay như rã rời, mặt nàng trở nên xám ngắt, thanh kiếm trong tay như muốn rơi xuống vì bàn tay đã tê hết!
Công Tôn động chủ thấy thế cười nhạt:
- A! Tình hoa! Tình hoa!
Nàng đau đớn quá! Không biết lão nói gì cả. Dương Qua đã thừa hiểu nàng bị chất độc của tình hoa ngấm vào da thịt nên tác động mạnh. Vì lúc ở trong phòng kiếm, nàng mó tay vào bó "Tình hoa" bị gai đâm vào ngón tay, nên đến lúc này nàng nắm chặt đuôi gươm đánh đòn "Cử án tề mi" thì xúc động chân tình, ngón tay bị gai đâm phát nhức, theo các mạch máu đau nhói khắp châu thân không chịu nổi.
Dương Qua đã bị gai "Tình hoa" nên những cơn đau đớn đó chàng thừa hiểu. Chàng quá thương hại cho nàng, hồi hộp hỏi:
- Đau lắm hả cô?
Động chủ thừa dịp lơ đãng ấy vung cả kiếm lẫn đao đánh tới tấp vào chàng.
Tiểu long Nữ hơi bớt đau, cố sức tung kiếm lên giải nguy cho chàng. Dương Qua lo sợ vội bảo:
- Cô nên nghỉ một lát đi!
Nhưng chàng cũng bất ngờ, vì chàng quá cảm động nghĩ đến tình yêu đắm đuối, ngón tay chàng cũng đau nhói lên luôn. Động chủ là tay lợi hại, thừa dịp chém một kiếm. Tức thì nghe "choang" một tiếng, đã thấy cây kiếm "Anh hùng" trên tay chàng rơi xuống. Liền đó mũi hắc kiếm đã đâm thẳng vào ngực chàng. Nàng hốt hoảng phóng người qua đưa gươm đánh mạnh, thì bị kim đao của lão chận lại, không thể nào tiến qua phía chàng được nữa.
Động chủ quát gọi đồ đệ:
- Bắt lấy thằng nầy!
Bốn gã đệ tử áo xanh liền chạy lại tung lưới trên đầu Dương Qua, chụm gọn chàng trong mành lưới. Động chủ quay lại hỏi nàng:
- Cô Liễu! Cô định thế nào?
Tiểu Long Nữ thấy mình bị cô thế, không thể nào đánh lão được nữa bèn ném luôn "Giai nhân kiếm" xuống đất nghe "cạch" một tiếng, thanh "Anh hùng kiếm" và "Giai nhân kiếm" cùng tự động chạy vút trên mặt đất rồi cả hai dính nhập vào thành một khối.
Tiểu long Nữ thấy hai thanh kiếm cũng có tình tiết thắm thía như thế, liền cương quyết trả lời:
- Gươm là vật vô tri mà còn như thế huống hồ là người? Ông giết hết cả hai chúng tôi là xong.
Công Tôn động chủ hừ một tiếng, bảo nàng:
- Cô Liễu ơi! Tôi đâu có ác ý như thế? Thôi bây giờ cô theo tôi vào đây! Rồi ra lệnh cho bọn đệ tử khiêng Dương Qua vào hậu đường. Động chủ chắp tay quay sang bọn Kim Luân Pháp vương nói:
- Vô phép quý khách trong chốc lát.
Dứt lời lão bước vào hậu đường, bốn gã đệ tử túm Dương Qua trong lưới khiêng theo lão. Tiểu Long Nữ cũng lẽo đẽo theo sau.
Mã quang Tổ ngơ ngác nhìn rồi quay sang Tiểu Long Nữ, Kim Luân Pháp Vương và đồng bọn nói
- Đại hoà thượng ơi! Bây giờ hoà thượng tính cách nào để chúng được biết.
Kim Luân Pháp Vương mỉm cười không đáp. Tiêu Tương Tử cười nhạt đáp:
- Chú Tổ ơi! Chú mày có thể đánh động chủ đó chăng?
Mã Quang Tổ vò đầu suy nghĩ chưa ra cách nhưng luôn miệng nói:
- Đánh không nổi cũng đánh! có đánh mới biết nổi hay không chứ?
Công Tôn động chủ gầm mặt đi truớc. Đến gian nhà đá nhỏ lão nói:
- Cô Liễu! Tôi không có ý làm nhục cô đâu. Chỉ sợ cô liều thân huỷ mạng.
Dứt lời lão vẫy tay một cái, bốn đệ tử vung lưới chụp luôn Tiểu Long Nữ. Lúc này trong nhà đá nhỏ có hai bọc lưới, một bọc nhốt Dương Qua, một bọc nhốt Tiểu long Nữ. Động chủ liền truyền lệnh cho bọn đệ tử:
- Các ngươi ra vườn cắt mấy bó tình hoa đem vào đây.
Dương Qua và Tiểu long Nữ ngồi trong mành lưới nhìn nhau mỉm cười thầm nhủ:
- Dù động chủ có hành hạ đến đâu, chúng ta đến mức cùng là thề đồng chết với nhau.
Vì vậy hai người không hề để ý đến lời nói, và cử chỉ của động chủ. Chốc lát từ cửa nhà đá đã phảng phất một mùi hương kỳ lạ, làm cho hai người phải say hồn lạc vía. Hai người quay ra nhìn, chợt thấy mười bó hoa màu rực rữ trên tay bọn đệ tử áo xanh đem vào, bàn tay gã nào cũng đeo một lớp da trâu đề phòng gai "Tình hoa" chích vào tay.
Động chủ phảy tay áo một cái rồi cười nhạt nói:
- Hãy rắc hết lên người thằng này.
Chỉ trong nháy mắt, Dương Qua đã cảm thấy như muôn ngàn mũi nhọn như nọc ong sắc châm đốt khắp thân thể. Cơn nhức đã rần khắp mình chàng. Chàng không thể nén nổi, buột miệng kêu:
- ối chao!
Tiểu long Nữ quá thương xót cho chàng, và hết sức căm giận lão Công Tôn. Nàng quắt mắt nhìn lão quát:
- Ông giở trò độc hại nầy để toan làm gì?
Lão nghiêm sắc mặt nói:
- Cô Liễu, hôm nay là ngày lành, tôi và cô đã đồng ý làm lễ động phòng hoa chúc, nào ngờ thằng này đến đây để phá đám. Cũng vì nó làm thất điên bát đảo cả động nầy. Nhưng tôi với nó vốn không có quen biết gì, thì đâu gọi là thù oán. Hơn nữa, nó lại là học trò của cô, lẽ ra nó phải giữ đúng lễ tân khách, tôi sẽ kính trọng nó. Thôi, sự việc đến thế nầy rồi...!
Nói tới đây, lão trỏ tay một cái, bọn đệ tử lập tức ra khỏi nhà, khép kín cửa lại. Lão bèn nói:
- Sự việc đã thế này, thì họa hay phúc đều do cô quyết định.
Dương Qua bị muôn ngàn mũi gai "Tình hoa" không ngớt châm chích, cơn đau đớn thật kinh khủng. Nhưng chàng vẫn cố gắng gượng tỏ ra không đau đớn gì, để Tiểu long Nữ bớt lòng thương hại, lo sợ cho chàng và sờn lòng trước sự đe dọa của động chủ. Tuy chàng cố cắn răng giữ lại những cơn đau dồn dập, nhưng hơi thở uất hận trào lên cửa miệng, tạo thành những hơi thở não ruột. Chàng không tài nào giấu nổi sự đau đớn hiện trên sắc mặt được.
Nàng nhìn sắc mặt chàng, thương xót vô cùng, thì vết thương trên ngón tay nàng nhức tê cả người. Nàng suy nghĩ:
- Mình chẳng qua bị sơ sơ vài mũi gai đâm mà đau buốt thế này. Còn chàng bị trăm ngàn mũi đâm mãi trên thân thể thế kia, thì sức đâu mà chịu nổi?
Lão Công Tôn thấy nàng buồn bực dịu giọng nói:
- Cô Liễu ơi! Tôi thành tâm cùng cô kết mối lương duyên trăm năm, nên đối với cô, tôi đã giốc hết lòng kính yêu. Chứ tuyệt nhiên không có ý tà. Điều đó tôi không nói nhiều cô tự nghĩ cũng đã rõ được.
Nàng cúi mặt cho khuất những giọt lệ, nói:
- Ngài đối đãi với tôi thật quý hóa. Trước khi cứu tôi đem về đây, ngài đã ân cần lo lắng chu đáo. Thật là trăm thương ngàn quý. Ngài chiều theo ý tôi chỉ sợ tôi buồn.
Đến đây nàng thở ra một hơi dài, như nấc lên nói tiếp:
- Công Tôn tiên sinh! Nếu như ngày ấy ngài không gặp tôi trong núi thẳm rừng sâu và không cứu mạng tôi, thì tôi đã được im lìm mà chết, Hôm nay ba chúng ta không sanh ra chuyện oái oăm này. Nhưng giờ ngài cứ ép buộc tôi thành thân với ngài tôi sẽ đau buồn suốt đời thì ngài có sung sướng chi?
Đôi mày lão nhíu lại, lão trầm ngâm giọng nói:
- Tôi là người biết trọng lời nói, nếu đã nói ra không thay đổi được. Tôi không một lời hứa và quyết không để ai phụ rẫy làm nhục tôi. Như cô đã
hứa thành thân với tôi là tôi phải được thành thân. Còn những sự vui mừng đau khổ ở đời là không ai có thể đoán trước được.
Rồi lão trỏ tay vào mành lưới nhốt Dương Qua nói tiếp:
- Cô hãy nhìn rõ đây! Khắp mình hắn đã bị "Tình hoa" châm chích, cứ sau một giây một khắc hắn sẽ bị đau thêm một bậc. Qua ba mươi sáu ngày, toàn thân nó sẽ đau đớn kịch liệt rồi chết. Nhưng ta có thứ thuốc bí chế linh diệu, nếu cho uống vào có thể cứu được mạng. Nếu cô muốn cho hắn chết, sống tuỳ theo ý cô định liệu.
Lão thong thả bước gần ra cửa đưa tay mở hai cánh cửa và quay lại nói: - Hay là cô muốn để cho hắn kéo dài lê thê đau đớn rồi mới chết? Nếu đó là ý muốn của cô thì cô cứ ở đây chứng kiến qua ba mươi sáu ngày mà trông ngắm hắn. Đối với cô ta không có ý hại đâu.
Nói xong lão toan bước ra ngoài. Tiểu Long Nữ thấy lão quả quyết nàng tưởng dù sao cũng được ôm chồng mà chết một lúc, nào ngờ lão dùng trăm mưu ngàn kế, bày trò chia cắt đôi bên độc hại thế này. Lại thấy Dương Qua run rẩy vì cơn đau ghê rợn, răng cắn vào môi máu đầm đìa, đôi mắt đã lờ mờ trắng đục. Lúc đầu đau đến thế thì những giờ sau chất độc thấm đến tim gan hành hạ đến bực nào? Và phải chi đến 36 ngày, dẫu đến dưới địa ngục cũng chưa có cực hình ghê rợn đến thế, nàng không thể nhìn được cảnh đau đớn của chàng nữa, răng nàng nghiến kèn kẹt, gọi:
- Công tôn tiên sinh! tôi chiều lòng ngài. Hãy thả ngay hắn ra, và đổ thuốc giải cứu lập tức!
Lão động chủ cố ý bức bách chỉ vì mong đợi câu nói ấy của nàng. Lúc bấy giờ lão sung sướng vừa ghen hờn, nghĩ thầm: "Từ nay trở đi, nàng chỉ còn giận ghét ta chứ không bao giờ yêu mến ta được nữa".
Lão gật đầu nói:
- Cô hồi tâm tĩnh trí thì tốt đẹp cho ba chúng ta lắm. Thôi, cứ để sau đêm động phòng hoa chúc của chúng ta, rồi sẽ lấy thuốc cứu hắn cũng chẳng muộn.
Tiểu long Nữ hét lên:
- Không! Không được như thế? Ngài hãy đem thuốc ra cứu liền ngay đi.
Lão thản nhiên đáp:
- Cô Liễu ơi! Cô coi rẻ tôi lắm! Tôi phải cố công cực khổ mới được cô nhận lời. Nhưng thật ra lòng cô đâu có được như lời hứa của cô. Điều ấy tôi đã hiểu thì sao tôi lại làm theo cô mà đem thuốc cứu hắn ngay được.
Nói rồi, lão gỡ lưới mở Tiểu Long Nữ. Lão bước ra khỏi nhà đá, chỉ để trơ hai người trong đó.
Nàng đứng ngoài nhưng chàng vẫn nằm run lẩy bẩy trong mành lưới.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 050
CỨU NHAU RỜI ĐẦM CÁ SẤU
Dương Qua nhìn Tiểu Long Nữ qua một hồi đau khổ, rồi bảo nàng:
- Cô ơi! Tôi đã được cô thật lòng yêu thương thì nay thân này có chết xuống suối vàng
cũng được sung sớng lắm rồi. Vậy cô hãy đánh vào đầu tôi một chưởng cho sớm
thoát cảnh cực hình này! Sau đó cô hãy tìm cách xa lánh nơi đây!
Nàng thầm nhủ:
- à! Mình đánh chàng chết, rồi mình tự tử luôn và hết đau khổ!
Nàng liền nghiến răng giơ cao tay, vận hết nội công để đánh. Dương Qua mặt ửng
hồng, mỉm cười, ánh mắt nhu hòa, hân hoan nhìn nàng hạ thủ, và nói:
- Cô ơi! Sung sướng lắm! Giờ khắc này mới chính là giờ động phòng hoa chúc của đời
ta.
Nàng thấy chàng sao lại vui vẻ, không hề sợ chết, thì nàng lại nghĩ:
- Ôi chao! Một người chồng thanh niên tuấn tú thế này, sao trời già trớ trêu, cay
nghiệt bắt phải chết oan uổng?
Lập tức, tim nàng đau nhói lên, máu uất như trào nghẹn cả cổ họng. Bỗng nhiên sức
nội công bay đi đâu mất, làm cho tay chân nàng rã rời! Nàng run rẩy ngã nhào đè sấp
trên mình chàng. Hai tấm thân chỉ cách nhau một mành lưới rỗng lỗ, trăm ngàn mũi
gai tình hoa châm chích vào da thịt nàng. Nàng kêu lên:
- Anh Qua! Thôi hai ta cùng chịu đau đớn với nhau.
Chợt nghe sau lưng có tiếng nói khàn khàn:
- Sao lại khổ thân như thế? cô có gì mà phải chịu đau đớn? Như thế này là giảm bớt
đau đớn của hắn rồi.
Đó là tiếng nói của lão động chủ. Tiểu long Nữ đắm đuối nhìn Dương Qua một lúc,
rồi từ từ quay lại, lầm lũi đi ra khỏi nhà đá không hề nhìn lại.
Lão động chủ bảo chàng:
- Này em Dương, nằm yên đi! Qua sáu tiếng đồng hồ nữa ta sẽ đem linh dược đến
cứu. Nhưng nên nhớ kỹ điều này: Trong lúc em chờ đợi phải giữ lòng trong trắng,
đừng nghĩ đến mảy may tình dục, là cơn đau bớt đi không có gì thiệt hại.
Nói rồi lão bước chân ra khỏi cửa, gài kín cửa lại đi thẳng.
Dương Qua lúc nầy da thịt đau rã rời, ruột như đứt từng khúc. Chàng tự hỏi:
- Sao lúc nãy nàng lại ngừng tay không đánh cho ta chết để tránh đau khổ?
Càng nghĩ chàng càng thấy đau khổ, nhục nhã hơn: Thật ra bao nhiêu đau khổ trước
kia cũng không đáng kể gì. Chỉ có tiếng lão động chủ hiểm độc như lang sói nầy là
đáng hận. Không lẽ ta chết đi bỏ mặc cho nàng sa vào tay hắn? Nàng sẽ chọn đời đau
khổ với hắn ? Hơn nữa, thù cha ta cũng cha trả được, ta há vì đau khổ mà phải liều
chết, rồi để cho bọn giả nhân, giả nghĩa vợ chồng Quách Tỉnh và Hoàng Dung ược
vui mãi trên đời sao?
Nghĩ đến đây chàng như trút hết nỗi đau đớn, đầu óc sáng lên: Không chết được! Dù
gặp nguy biến đến mức nào cũng cương quyết chịu đựng để thoát chết. Nếu như nàng
bị lão bắt buộc phải làm vợ thì ta cũng cần phải sống để tìm cách cứu nàng về với ta
mới được. Ta cần phải cố công luyện võ thề để báo thù cha mẹ ta.
Chàng cắn răng ngồi nhỏm dậy, xếp bằng trong lới. Tuy ngồi không được thong thả
nhưng cũng dồn được khí tức xuống đáy lòng.
Độ hai giờ sau, chợt có người mở cửa, chàng nhìn ra thì thấy gã đệ tử áo xanh bưng
mâm bước vào phòng chàng. Trên mâm có bốn cái bánh bao, hắn nói:
- Hôm nay là ngày tân hôn của động chủ. Ngài gởi tặng cho ngươi ăn một bữa thật
no.
Rồi hắn cầm từng cái bánh đưa qua lỗ lưới cho Dương Qua. Tay hắn được bao mấy
lớp vải rất cẩn thận, vì sợ chạm vào gai "tình hoa". Dương Qua không thèm nói gì cả,
chỉ đưa tay nhận lấy bốn chiếc bánh ăn hết một lúc. ăn hết bánh, chàng bình tĩnh nói:
- Ta đã nhất định ra tay với lão nầy thì dại gì phải đau khổ mà nhịn ăn cho thiệt?
Gã đệ tử lại nói:
- Không ngờ người lại ăn khỏe quá. Thế là tì vị tốt lắm đấy.
Chợt một bóng xanh thoáng qua cửa. Một gã đệ tử khác bước nhẹ vào, không nghe
một tiếng động. Hắn đứng sau lưng gã đệ tử vừa vào trước, rồi xuất quyền đánh bất
thần một đòn như chớp. Gã vào trước kịp nhận ra ai thì đã bị nhào xuống đất ngất
lịm!
Dương Qua ngạc nhiên trố mắt nhìn kỹ, thì té ra ngời đánh trộm lại là nàng Công
Tôn Lục Ngạc, con gái của động chủ! Chàng kinh hãi kêu lên:
- Cô! Cô!
Lục Ngạc vội quay ra gài chốt cửa cẩn thận, rồi quay vào thì thào:
- Anh Dương! Nói khẽ chứ! Tôi vào cứu anh đây.
Dứt lời, Lục Ngạc đã mở lưới, tha Dương Qua ra ngoài. Chàng đứng dậy khẽ nói:
- Nếu Công Tôn động chủ biết, thì...
Nàng không để cho chàng nói hết câu, vội nói:
- Thì tôi phải chịu hình phạt là cùng.
Nàng lượm một bó "Tình hoa" nhỏ đem đặt trên miệng gã đệ tử áo xanh, để khi hắn
tỉnh dậy không thể kêu la được, rồi lấy lưưới bao hắn lại, lượm hoa rắc lên mình.
Nàng hạ giọng bảo chàng:
- Anh Dương ơi! Anh ở đây, nếu có ai vào anh núp sau cánh cửa nhé! Vì lúc này anh
đã bị gai "Tình hoa" truyền chất độc vào mình dữ lắm. Để tôi đi lấy thuốc cho anh
dùng.
Chàng quá cám động, thấy nàng mạo hiểm liều thân như vậy, nên thầm nghĩ: "Mình
với nàng gặp nhau cha đầy một ngày, mà nàng đã phản cha nàng để cứu mình ?".
Chàng ấp úng:
- Thưa cô nương. Tôi làm phản cô nương nhiều... sợ...cô...
Lòng chàng quá xúc động, không thể nói hết câu đứng lặng thinh với đôi mắt ngấn lệ.
Nàng Lục Ngạc đang lo âu, sợ sệt, bỗng nhiên trở nên vui tơi hớn hở, thầm nhủ:
- Anh có lòng với em nh thế, thì em có rủi ro bị cha em hành phạt đến đâu, em cũng
nhắm mắt cam lòng...
Đoạn nàng dặn tiếp:
- Anh ở đây đợi em một chút nhé? Em trở lại ngay với anh.
Nàng nhẹ bước thoăn thoắt ra khỏi phòng. Dương Qua ngẩn người như trong cơn
mộng:
- Sao ta lại được nàng đối đãi như thế này?... ôi! Lạ thật! nàng là con gái của lão gian
ác kia mà! Ôi! Từ nhỏ bị khinh khi nhục nhã, tưởng trên đời không ai là người nhân
từ đạo đức nữa, nào ngờ lại có nhiều người đem chân tâm đối với ta. Nhu cô Tiểu
Long Nữ, thầy dạy học của ta đã đành, còn Tôn Bà, Hồng thất Công, nghĩa phụ Âu dương Phong, Hoàng dược Sư và nay còn có những thiếu nữ chịu liều thân sống chết với ta trong cơn nguy biến như Trình Anh, Lục Vô Song, và Lục Ngạc nữa. Thật những người đối với ta hết lòng hết dạ. Giá đừng có những kẻ đối với ta quá ác độc như chúa động, thì đâu thấy những cái quý hóa của người có chân tâm, hy sinh đau đớn lo cho ta như cô Tiểu long Nữ và nàng Lục- Ngạc?
Thực ra, những cuộc tương ngộ trên đời Dương Qua đều thấy cả hai thái cực. Nếu
không phải là người yêu mến giúp đỡ chàng thật lòng, thì là kẻ cực ác, làm cho chàng
thiệt hại một cách tàn nhẫn. Đó không phài là tại người mà chính là thiên tính của
chàng đã gây nên. Khi gặp ai hợp tình là chàng dốc hết lòng thành đối với họ, nếu ai
không hợp ý hợp lời, thì chàng đối xử như kẻ thù. Bởi chàng đối với người như thế,
nên người ta cũng đối xử lại chàng như vậy...
Chàng đứng sau cánh cửa chờ đợi đã lâu mà chẳng thấy bóng Lục Ngạc trở vào. Thời
giờ cứ lặng lẽ trôi qua trong cảnh hồi hộp. Dần dần gã đệ tử nằm trong lưới tỉnh lại,
mắt hắn trắng nhợt, toàn thân run run. Hắn quá đau đớn nhưng không thể nói ra lời.
Dương Qua thấy quá lâu, lòng lo ngại. Lúc đầu chàng nghĩ rằng vì trong phòng thuốc
có người nên nàng chưa tiện lấy trộm được. Nhưng rồi mỗi lúc một biệt tăm chàng lại
nghĩ: - Nếu nàng không thể lấy được thuốc thì nàng cũng trở lại nói một lời cho ta
biết, lẽ nào nàng để mình đứng chờ lâu thế này sao? Có lẽ nàng gặp điều gì không
may đâu! Nàng đã vì mình mắc vạ to thì mình phải đi tìm cứu ân nhân chứ?
Chàng bèn đẩy hé cánh cửa đa mắt nhìn ra ngoài không thấy một bóng người. Chàng
vội nhón chân bước ra. Nhng chàng không biết, Lục Ngạc bị hành phạt ở phòng
nào?
Chàng đang bối rối, chợt nghe có tiếng chân bước rầm rập. Chàng vội nép mình vào
góc tường sau thấy hai gã đệ từ áo xanh sánh vai đi tới, tay cầm một cây tua tủa
những gai. Đó là loại binh khí đặc biệt làm cho chàng thầm nghĩ: có lẽ nào động chủ
lại hành hạ đứa con gái ông ta bằng hình phạt ghê gớm nầy!
Chàng liền nhón chân theo hai gã đệ tử, mà họ vẫn không biết. Đi loanh quanh qua
các ngạch đá một lúc, thì đến trước một căn nhà. Họ cất tiếng thưa:
- Bẩm động chủ, chúng con đã đem trượng gai đến.
Rồi hai gã đẩy cửa bước vào. Tim của Dương Qua nh muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Lão động chủ khốn kiếp quả đang ngồi trong phòng nầy. Chàng đảo mắt nhìn quanh,
thấy phía đông căn phòng đá có một cửa sổ, bèn nhón chân bước tới đó, nhìn trộm
vào trong, thì y hệt như chàng đã đoán: Nàng Lục Ngạc bị bắt dẫn vào phòng. Cha
nàng ngồi giữa, hai gã đệ tử cầm trượng gai đứng hai bên. Động chủ thấy trượng gai
đã đem đến, liền đưa tay nắm lấy, hằn học bảo con gái:
- Con Ngạc! Mày là máu mủ của tao, sao mầy lại phản cha mày như thế?
Nàng Lục Ngạc chỉ cúi đầu không đáp. Lão mắng tiếp:
- Mày đã mê cái thằng họ Dương ấy rồi, lý nào tao không biết? Nhưng tao đã bảo là
tao phải hành phạt nó, rồi đến ngày mai tao tha cho nó đi, sao mày dám vội vàng như
vậy? Thôi để ngày mai tao hỏi ý kiến rồi tao gả cho nó là xong.
Dương Qua đâu phải là kẻ ngây ngốc gì mà không hiểu ý Lục Ngạc. Chàng vẫn biết
rằng nàng có lòng dạ yêu chàng. Song vì lòng chàng đang bấn loạn đắm đuối Tiểu
long Nữ, nên chàng phải quên đi, không nghĩ đến. Nhưng lúc này, nghe lão động chủ
nói trắng trợn ra, chàng giật mình hồi hộp, hai má nóng rần... Chợt thấy nàng Lục
Ngạc ngẩng đầu cất tiếng lanh lảnh:
- Thưa cha! Lúc nầy cha đang bận tâm lo ba việc thành hôn của cha, thì đâu còn để ý
gì đến con?
Động chủ quắc mắt "hừ" một tiếng không thèm nói. Nàng lại tiếp:
- Thưa cha, điều đó không sai. Con quả khâm phục Dương công tử là người đường
đường chính chính, chí nghĩa, chí tình. Nhưng con đã thấy rõ lòng chàng lúc nào cũng
chỉ biết có Long cô nương mà thôi! Sỡ dĩ con phải cứu chàng là vì... con thấy việc
làm của cha thật quá chứ con không có ý gì khác.
Dương Qua núp bên ngoài nghe rõ, lòng vô cùng kính phục:
- Lão động chủ là một tay gian xảo, bạc ác ai ngờ lại sanh một cô gái đầy đủ đức
hạnh, cao thượng thế này!
Công Tôn động chủ mặt hầm hầm, trơ trơ như tượng gỗ. Lão lạnh lùng đáp:
- Mày nói như thế tức là mày mắng cha mày vô nhân, bất nghĩa hả?
- Lục Ngạc ngơ ngác nói:
- Con đâu dám nghĩ nh thế! chỉ có điều...
Lão gắt giọng, hỏi:
- Điều gì?
Nàng bối rối nói:
- Dạ, chỉ có điều Dương công tử đã bị Tình hoa châm chích muôn ngàn mũi, thì
chàng chịu đau đớn sao nổi? Cha ơi! Cha hãy ban ân đức thả chàng ra!...
Động chủ cười nhạt:
- Cứ để đến ngày mai tao hãy cứu nó, thả nó việc gì mầy phải xen vào cho lôi thôi?
Lục Ngạc cúi đầu suy nghĩ:
- Cha ta làm sao có được hảo ý với chàng. Nếu chàng còn sống thì Long Nữ không
thể thuận lời cha ta. Hơn nữa tình yêu nồng thắm của họ chỉ tạo cho cha ta một ý căm
hờn làm sao cha ta có thể đối với chàng như cha ta vừa nói?
- Thưa cha, con mang ơn dưỡng dục từ bé đến giờ, có lẽ nào con lại vì Dương công tử
là người xa lạ bên ngoài mới đến? Nếu con biết chắc ngày mai cha sẽ cho thuốc và
thả hắn đi thì con đâu dám bước vào phòng đàn ông.
Lão gằn giọng hỏi:
- Mày biết thế sao còn lẻn vào đây?
Nàng bạo dạn tiếp:
- Vì con biết ý cha không tốt với hắn. Đêm nay, sau khi thành thân với Long cô
nương rồi, ngày mai cha sẽ có độc mưu trừ mạng hắn, để cho tình duyên giữa hắn và
Long cô nương không còn nữa.
Công Tôn động chủ thường ngày dù giận dù mừng, không mất vẻ bình thân, nên
những lúc phân xử mọi việc lớn nhỏ trong động lão xét đoán được công minh đối xử
với đệ tử, cho nên trong động ai ai cũng một lòng khâm phục. Nhưng Lục Ngạc lần
này đã thầm biểu tình ý cũa lão nên lão nổi giận gầm gừ:
- Hừm? Đúng là sanh con hoang rước họa vào mình! Tao nuôi mày khôn lớn chừng
nầy, không ngờ nay mày lại kết tội tao!
Lão tóm lấy vạt áo Lục Ngạc lôi mạnh một cái. Lục Ngạc hỏi:
- Cha làm gì thế?
- Mày còn giả ngơ ngẩn ? Đừng chối nữa! Viên thuốc "tuyệt tình" trị chất độc đâu
rồi?
Nàng thản nhiên đáp:
- Con không hề lấy.
Lão đứng phắt dậy lớn tiếng:
- Thế thì nó biến đi đâu?
Bấy giờ, Dương Qua nhìn vào phòng, thấy các hộp mở nắp, đặt trên bàn la liệt. Trên
tường treo đầy các thứ cỏ, lá, rễ... không biết được là thuốc gì. Bàn phía Tây để ba cái
lò luyện thuốc trước cửa phòng có đề hai chữ "đơn phòng". Chàng nhìn vẻ mặt động
chủ thầm lo:
- Hôm nay dù thế nào nàng Lục Ngạc cũng không thể tránh khỏi trọng hình:
Bỗng có tiếng nàng nói:
- Thưa cha! con tự tiện vào đơn phòng, quả có ác ý muốn lấy thuốc, để cứu Dương
công tử, nhưng con tìm hơn nửa ngày mà chẳng kiếm được. Nếu con tìm được thì con đã đi rồi, đâu đến nỗi lại bị cha bắt được?
Động chủ hét:
- Chỗ cất thuốc bí mật vô cùng. Những quan khách hiện còn ngồi ở đại sảnh, chưa ai
rời đi một bước thế mà viên thuốc "Tuyệt tình" đã biến đâu mất tích? lẽ nào nó có
cánh?
Nàng quỳ xuống khóc sụt sùi:
- Lạy cha! Cha rộng lượng tha cho Dương công tử, để hắn được toàn mạng ra khỏi
động, vĩnh viễn không cho vào nữa thế là yên.
Động chủ cười nhạt:
- Nếu không may tính mạng tao lâm nguy chưa chắc mày đã chịu quỳ khóc để cầu
cứu.
Nàng không nói nữa, cứ ôm lấy hai chân cha nàng. Lão động chủ nói:
- Mày lấy mất viên thuốc "tuyệt tình đơn" rồi, tao lấy gì mà cứu nó? Được! Mày
không nhận thì mặc mày. Để cho mày cứ ngồi đây trọn ngày thâu đêm. Mày lấy
thuốc mà không cho thằng họ Dương ấy uống, thì để hai ngày tao mới thả nó ra.
Nói rồi lão ra cửa. Nàng biết rõ một gai tình hoa chỉ châm sơ vào da một cái cũng đã
gây độc đau đớn mãi đến ba ngày. Thế mà
(*** mất 10 trang ***)
Dù có đau đớn thế nào cũng phải cố sống để cứu nàng mới được. Lão động chủ kia dù
có ác độc đến đâu đi nữa, cũng phải có tình cha con. Thế nào rồi lão cũng sẽ hồi tâm
đổi ý, khi gặp con gái lão thoát nạn.
Chàng miên man suy nghĩ nhiều chuyện. Trong chốc lát quên hẳn cả Tiểu Long Nữ,
rồi cơn đau được dịu dần. Chàng nói:
- Công Tôn cô nương ơi! Đừng sợ nữa. Tôi tin chắc thế nào Công Tôn động chủ cũng
cứu cô lên. Người chỉ giận một mình tôi thôi, chứ cô dù thế nào cũng là nguời thương
yêu của người. Và lúc này nhất định thân phụ cô đang hối hận.
Nàng Lục Ngạc nghe qua lòng xúc động ứa lệ nói:
- Hồi em còn nhỏ, quả thật cha em thương em lắm. Nhưng sau khi mẹ em mất, tình
thương của cha em đối với em trở nên khe khắt. Tuy thế, em cũng hiểu là trong thâm
tâm cha em không hề ghét em.
Nàng ngừng một lúc, để hồi tưởng lại bao nhiêu chuyện kỳ lạ lúc trước, rồi bảo
chàng:
- Anh Dương ơi? Em vừa nhớ lại hình như cha em có ý sợ em vậy. Anh ạ!
Dương Qua ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao người lại sợ cô? Điều nầy thật kỳ lạ.
Nàng nói tiếp:
- Thật vậy. Trước đây em nhận thấy nhiều lúc sắc mặt cha em đổi khác, mất hẳn vẻ tự
nhiên, tựa như trong lòng có giấu giếm một ẩn tình gì đó, sợ em hiểu được. Thật ra từ
trước đến nay mỗi lúc thấy vẻ mặt người cha đổi khác nàng Lục Ngạc vẫn lấy làm lạ.
Nhưng rồi lần nào cũng quên đi. Vì cho rằng cha nàng quá thương mẹ nàng, nên khi
nhìn thấy con thì xúc động, đau buồn biến sắc. Nhưng đến lúc nầy nàng không cho là
thế nữa. Vì cha nàng đã xô nàng rơi xuống hầm cá sấu rõ ràng là một mưu mô cố ý,
chứ không phải trong cơn nóng giận mà lỡ tay. Trong lúc cha nàng đổi chỗ ba cái lò
luyện đơn trong "đan phòng" chính là ông ta đã mở then chốt của bộ máy giết người
vậy. Nếu nói rằng lão căm giận Dương Qua nên tống nàng xuống chỗ chết, thì không
đúng, vì lão cần gì phải làm nh thế? Trên mình chàng đã bị châm muôn ngàn mũi
gai "tình hoa", chất độc đã ngấm nhiều lắm rồi! Lão cứ việc làm ngơ không cứu, là
chàng phải chết! Cần gì phải xô xuống vực sâu? Mà nếu lão muốn giết chàng xuống,
sao lại nắm vai nàng thúc một chưởng cho rớt xuống luôn?
Bàn tay lão đã tàn nhẫn như thế thì đâu còn tình cha con!
Nàng càng nghĩ càng băn khoăn, lại càng nhớ nhung hành vi ngôn ngữ của cha nàng
trước đây. Khi nãy nàng không hiểu, vì không lưu ý tìm hiểu, chỉ cho rằng đó chỉ là
những hành vi cùa một người tu luyện, nên khác với người thường. Nhưng lúc này
nàng không thể nghĩ như thế được nữa. Bây giờ cá sấu đã quây quần nhau lại một
chỗ. Chúng tranh nhau xé thây một con đồng loại bị Dương Qua giết chết. Thấy
chúng không bò lên đá nữa, Dương Qua nhìn mặt Lục Ngạc, thấy nàng ngơ ngẩn, liền
hỏi:
- Phải chăng thân phụ cô có điều gì bí ẩn, vô ý để cô bắt gặp?
Nàng lắc đầu nói:
- Không! Cha tôi vốn đoan nghiêm đường hoàng, xử sự công minh chính trực nên mọi
người trong động đều kính trọng. Cho đến hôm nay, cha tôi mới đối xử với anh như
thế nầy.
Dương Qua mới bước chân vào động "Thủy Tiên" lần đầu, chưa hiểu gì về lai lịch nên
khó mà đoán giúp cho nàng về ẩn ý của cha nàng được. Dưới vực thẳm, bên đám cá
sấu khí lạnh như băng, hai người lại bị ướt cả mình mẩy. Vê phần Dương Qua, trước
kia đã luyện nội công trên giường "ngọc hàn" nên khí lạnh lúc nầy đối với chàng
không ra gì. Còn nàng Lục Ngạc thì đã tái tê, run lập cập, phải nằm gọn vào lòng
chàng để chờ khí ấm. Dương Qua lo lắng:
- Sức nàng không thể chịu nổi cảnh rét buốt nầy.
Chàng vừa thương vừa sợ, định kiếm vài câu chuyện nói cho nàng vui, nhưng chợt
nhìn xuống bầy cá sấu lố nhố dưới hầm, thấy chúng xâu xé cướp giật con vật đồng
loại bị chết, chàng mỉm cười bảo nàng:
- Công Tôn cô nương ơi! Hôm nay chúng ta cùng chết, thì sau này cô định làm kiếp
gì? Phần tôi, nhất định không bao giờ tôi làm cá sấu kia! Nàng khẽ mỉm cười:
- à! Thế anh biến làm một đóa hoa "Thủy Tiên" nhé! Vừa đẹp vừa thơm, ai trông thấy
cũng yêu mến.
Chàng vui vẻ nói:
- Nếu biến làm kiếp hoa thì chỉ có người như cô mới hợp. Chứ như tôi có quý lắm là
biến đực cây gai ngạc đầu là cùng.
Nàng bật cười:
- Nếu nh Diêm Vương bắt anh phải biến thành một đóa hoa "Tình hoa" anh có bằng
lòng không?
Chàng im lặng không đáp, lòng hối tiếc thầm nghĩ:
- Nếu cứ dùng gươm tiếp tay "Ngọc nữ tố tâm" với cô ta, thì lão động chủ làm gì
chống nổi. Tuy lão võ công cao cường, nhưng vị tất đã hơn Kim Luân Pháp Vương.
Nhưng rủi cho cô ta đã phải gai "tình hoa" trong phòng kiếm mà phép đánh kiếm "tố
tâm" lại buộc hai người phải cảm thông tâm linh như nhau mới phát xuất được uy lực.
ôi! Như thế nầy cũng là số trời đã định, ta không nói làm chi nữa! Nhưng không hiểu
lúc này số phận cô ta ra sao?
Nghĩ đến Tiểu Long Nữ, các vết thương trong người chàng ngấm ngầm đau nhói lên.
Nàng Lục Ngạc thấy chàng không đáp, biết mình lỡ lời nhắc đến "Tình hoa" bèn nói
lảng sang chuyện khác:
- Anh Dương ơi! Trong bóng tối đen mò thế nầy, mà mắt anh kịp thời nhận ra cá sấu.
Em thì như mù tịt chẳng trông thấy gì cả.
Chàng cười nói:
- Thôi, mấy ông cá sấu kia xấu và tồi quá, đừng nhìn các ông ấy nữa.
Dứt lời chàng nhè nhẹ vỗ vai nàng, tỏ ý an ủi. Nào ngờ toàn thân nàng cảm thấy mát
rợi, đê mê cả tâm hồn. Chàng thầm nghĩ: "à! Lúc nàng ở trong phòng thuốc, bị tra
khảo gắt gao, lão già đó đã khăng khăng kết tội nàng lấy cắp thuốc cho nên nàng đã
phải thoát cả xiêm y thanh minh. Bây giờ mình nàng chỉ còn có chiếc áo lót nhỏ nầy
?
Chàng giật mình vội co tay lại. Nàng nghĩ đến thần lực của đôi mắt chàng có thể nhìn
rõ trong bóng tối như chỗ sáng thì nàng vô cùng thẹn thùng. Vì toàn thân ngọc ngà
của nàng đã đi lộ trước mặt chàng.
Lúc đầu, cả hai đều hoảng hốt trước lưỡi kiếm của lão già, kế đến lại điên đầu trước
cuộc chống với lũ cá sấu, cho nên cả hai sát lấy nhau mà tuyệt nhiên không hề nghĩ
đến việc nam nữ tiếp xúc quá thân. Đến lúc này, một đàng giật mình rụt tay một đàng
cùng đường hết cách, chỉ có thăng thiên độn thổ mới thoát được.
Dương Qua vội ngồi nhích ra xa, rồi cởi áo ngoài khoác lên mình nàng. Trong lúc cởi
áo chàng không những chỉ tưởng đến Tiểu long Nữ, mà còn liên tương đến nàng Trình
Anh, người đã tự tay may áo tặng cho chàng. Chàng lại còn nghĩ đến nàng Lục vô
Song đã tự nguyện chết thế cho chàng nữa. Chàng cảm thấy một đời chàng đã mang
lấy ơn bao nhiêu người đẹp mà thẹn là cha báo đáp được ai, nên quá xúc động thở
một hơi dài não ruột!
Nàng Lục Ngạc lấy chiếc áo chàng mặc vào rồi thắt dây lưng lại. Bỗng nhận thấy
trong túi áo chàng có vật gì nhỏ. Nàng lần tay ra móc trả cho chàng và hỏi:
- Cái gói gì đây hả anh? ậ trong túi áo anh đây nầy.
Dương Qua đưa tay cầm lấy và lạ lùng nói:
- ủa cái gì thế này?
Nàng càng ngạc nhiên hơn, vội nói:
- Vật nầy, ở trong túi áo anh, sao anh lại hỏi em?
Chàng định thần nhìn kỹ thì thấy một gói có bọc vải xanh từ trước đến nay chàng
chưa trông thấy bao giờ. Chàng liền mở ra xem, thì lập tức có một tia sáng từ trong
gói lóe ra, và thấy bốn lọ tròn nhỏ xíu, trong lọ có ánh sáng tỏa ra, hình như ánh sáng
của loại ngọc quí.
Lục Ngạc bỗng kêu lên:
- Ôi này!
Nàng đưa tay lấy mấy lọ thuốc trong tay chàng rối rít bảo:
- Thuốc "Tuyệt tình đan" đây rồi anh ơi?
Dương Qua vừa giật mình vừa mừng rỡ, vội hỏi:
- Có phải là thuốc chữa vết thuơng bị "Tình hoa" đâm chăng?
Nàng vui mừng đáp:
- Đúng là thuốc chữa bệnh cho anh đấy!
Hồi nãy em vào đan phòng tìm cả nửa ngày trời mà không thấy. Làm sao lại lọt vào
túi anh thế này? đã lấy được sao anh không uống đi? anh không biết đó là thuốc chữa
độc "Tình hoa" ?
Quá vui sướng, Lục Ngạc hỏi dồn dập làm cho Dương Qua không kịp trả lời, chàng
đưa tay ra trước mặt, nói:
- Tôi không hiểu gì cả, đây là lọ đan dược ? Tại sao nó lại lọt vào túi tôi thế này?
Thật là chẳng hiểu đầu đuôi ra sao!
Viên ngọc gắn trên đầu thìa tỏa ánh sáng lờ mờ, nhờ đó Lục Ngạc thấy được những
vật xung quanh. Nàng bắt gặp một cái gói, một lọ thuốc một mảnh giấy và một nửa
tai nấm tía Linh Chi.
Nàng lầm bầm:
- Nửa tai nấm Linh Chi nầy là do lão già quỷ quái đã bẻ gãy...
Dương Qua hỏi:
- Lão già nào? Có phải lão họ Châu?
Lục Ngạc đáp:
- Phải, chính lão đó đã đại náo nơi thư phòng, kiếm phòng, đan phòng, bẻ gãy cây
nấm Linh Chi nầy đây! Một tay lão gây ra bao nhiêu chuyện. Bấy giờ Dương Qua mới
chợt nhớ ra, gãi đầu gãi tai nói:
- Phải rồi! Chắc là thế.
Lục Ngạc hỏi lại:
- Cái gì mà phải? Mà chắc?
Dương Qua không đáp, nghĩ thầm: "Cái túi nhỏ xíu này là chính tay lão Châu đã nhét vào túi mình!
Thì ra đến lúc đó Dương Qua mới hiểu Châu bá Thông có ý thân giúp chàng. Chàng
đổi thái độ, không gọi Bá Thông là lão già nữa mà bằng "cụ Châu".
Nàng Lục Ngạc đoán biết phần nào, liền hỏi:
- Thế ra ông ấy trao cho anh?
Duơng Qua vừa cười vừa nói:
- Quả vậy! Vị tiền bối đó là một tay cao thủ đệ nhất võ lâm, đã từng đi đó đi đây quấy
phá mọi ngời để làm vui. Ông ta lấy cây kéo và chiếc mặt nạ của tôi mà tôi không
biết đã đành, ông ta lại còn bỏ gói thuốc nầy vào ngời tôi nữa? Ôi chao! Thật chẳng
khác nào một bậc thần thánh. Võ công của tôi so với ông ta kém xa một trời một vực.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 052
CÂU TRUYỆN RÙNG RỢN CỦA 20 NĂM CŨ
Bà Cừu thiên xích sực nhớ lại con gái mình mồ côi mẹ ngay từ khi còn thơ ấu, thì xúc động trong lòng muốn ứa nước mắt. Bà dịu giọng nói:
- Hai cậu con là anh em song sinh, cậu lớn tên Cừu Thiên Lý. Cậu thứ hai tên Cừu Thiên Nhận. Hai người giống nhau như hai giọt nước, từ dáng điệu mặt mày cho tới lối trang phục. Nhưng trái lại tính tình và cuộc đời lại hoàn toàn khác nhau. Cậu hai thì võ nghệ tuyệt luân cậu cả thì chỉ tầm thường mà thôi. Võ nghệ và nội công của mẹ hoàn toãn do cậu hai truyền dạy lại cả đấy. Nhưng trái lại mẹ và cậu cả lại gần nhau và hợp ý hơn. Cậu hai là Bang chủ Thiết Chưởng bang, tính tình nghiêm nghị khắc khổ lại bận rộn nhiều công việc trong Bang đâu còn đủ thì giờ để chuyện trò với mẹ. Cậu cả thương mẹ lắm, một lời cũng "em anh" hai lời cũng "anh em", mẹ cũng mến cậu ấy cho nên mỗi khi có sự xung đột về ý kiến giữa hai cậu, lúc nào mẹ cũng bệnh vực cậu cả hết.
Lục Ngạc hỏi:
- Nhưng tại sao hai cậu lại hay cãi vã xung đột lắm vậy?
Bà có vẻ tươi vui hơn, bèn cười bảo con:
- Câu chuyện này kể ra cũng không quan trọng lắm và cũng không thể gọi là nhỏ được. Tựu trung cũng vì cậu hai hơi quá đáng. Cậu hai là Bang chủ Thiết Chưởng với danh hiệu "thủy thượng phiêu" khắp sông hồ ai ai lại không nghe tiếng? Cậu cả thì tầm thường nên có ai hay nên biết hiệu được. Vì vậy nên thỉnh thoảng trong những dịp đi du ngoạn xa, cậu cả cũng thừa dịp hai người giống nhau như đúc, và cũng ỷ tình máu mủ ruột thịt, tạm mượn danh hiệu của cậu hai lòe với thiên hạ để cho nở mày nở mặt đôi chút. Việc này có lấy chi làm quan hệ, thế mà cậu hai cứ hằn học tức tối mãi về việc này, nhiều khi nặng lời cùng anh. Nhưng cậu cả được cái tính xuề xòa, dù sao cũng chỉ giả lả xin lỗi mà thôi. Có một bận, thấy cậu hai nặng lời quá đáng, mẹ đứng gần không dằn lòng được cố xen vào bênh vực cậu cả. Trong khi tức sẵn anh cả, cậu hai đem bao nhiêu nỗi uất hận trút hết lên đầu mẹ, vì vậy một cuộc cãi vã xảy ra vô cùng gay cấn. Sau đó mẹ tức quá, bỏ núi Thiết Chưởng ra đi, không trở về nữa. Một thân một bóng ngang dọc giang hồ, có một bận, mẹ theo đuổi một tên hắc đạo lạc vào động Thuỷ tiên này. âu cũng là bắt đầu của một mối tình oan nghiệt.
Bà nghỉ một chút rồi nói tiếp:
- Vào đây mẹ gặp Công Tôn Chỉ. Hai người yêu nhau rồi lấy nhau. Nếu so về tuổi tác và tài nghệ thì hắn nhỏ tuổi hơn mẹ và bản lãnh lại càng kém xa. Tuy là vợ chồng nhưng lúc nào mẹ cũng xem hắn như đứa em, mọi việc, từ miếng ăn manh áo nhất nhất thảy đều lo lắng chu toàn, hắn không mảy may lo lắng.
Bà thở dài, lắc đầu mấy cái rồi tiếp luôn:
- Mẹ không ngờ lại có hạng người lòng thú dạ lang, lấy ơn làm oán sau khi có bản lãnh cao cường không biết nhớ ơn kẻ đã truyền dạy võ công cho mình, lại đem lòng phụ bạc. Nếu không thì làm sao có cái cảnh như ngày nay?
Nói tới đây bà phẫn uất quá nổi nóng chửi rủa Công Tôn Chỉ thậm tệ, với nhưng lời lẽ thô bỉ nặng nề hết sức, khiến cho nàng Lục Ngạc ngượng quá, nhìn Dương Qua mặt mày đỏ gay vì mẹ mình ăn nói hồ đồ tục tĩu như vậy thì làm sao mình không bị ảnh hưởng lây? Nàng luôn miệng can ngăn nhưng vẫn không kết quả gì hết.
Dương Qua trong lòng nuôi sẵn một mối hận cùng Công Tôn Chỉ nên khi nghe bà chửi rủa lão ấy thì hả dạ vô cùng, cứ tìm lời tán dương thêm, thật không khác nào lửa chế thêm dầu, làm cho bà thêm hứng chí càng chửi tệ hơn nữa. Giá không có mỹ nhân bên cạnh, Dương Qua cũng muốn hùa lời chửi theo cho hả dạ. Bà Cừu Thiên Xích chửi bới mãi một hồi lâu mỏi miệng rồi mới chịu ngừng và nói tiếp:
- Hồi ấy, mẹ đang mang thai con. Một người đàn bà trong lúc bụng mang dạ chửa ai ai cũng bị mỏi mệt suy yếu, hay cau có gắt gỏng và cần được chăm sóc dịu dàng chu đáo. Hắn đối đãi với mẹ rất ân cần, nhưng không ngờ đó là việc che đậy bên ngoài mà thôi. Thật ra hắn đã lén lút thông gian với một con hầu trẻ tuổi trong động. Hắn cố dàn cảnh bên ngoài để mẹ khỏi nghi ngờ và tiếp tục hành động bỉ ổi, tồi bại đó. Khi mẹ sinh hạ con thì hắn càng tỏ ra ân cần chăm sóc hơn nữa. Công chuyện cứ tiếp diễn mãi tới mấy năm sau. Khi con đã khá lớn, biết đi biết chạy, nói năng, tình cờ một hôm mẹ nghe được câu chuyện kín đáo của đôi gian phu dâm phụ ấy. Bọn chúng bàn lén với nhau là sẽ tìm cách trốn thoát rời khỏi động Thủy Tiên này và mãi mãi không trở lại nữa. Khi Công Tôn Chỉ thủ thỉ cùng con bé kia thì mẹ nấp vào một gốc cây lớn bên cạnh nghe được rõ ràng.
Hai đứa vì hãi sợ võ nghệ của ta quá cao không thể nào chúng cự nổi, chỉ còn một cách xa lánh mà thôi. Và trốn càng xa càng bảo đảm. Bọn chúng cho rằng vì ta kiểm soát kiềm chế quá chặt chẽ nên không thể tự do luyến ái, và muốn tìm một chỗ khác để tận hưởng mọi sinh thú ở đời mà không bị áp bức của ta.
Bà chép miệng, lắc đầu mấy cái rồi kể tiếp:
- Con ạ, xưa nay mẹ vẫn đinh ninh Công Tôn Chỉ một dạ yêu thương quý mến vợ con. Hôm ấy nghe được câu chuyện này, mẹ uất ức quá suýt ngất xỉu. Giận quá, mẹ muốn xuống cho mỗi tên một chưởng xong đời, nhưng bỗng hồi tâm nghĩ lại:
- Chẳng qua hắn vì bị nữ sắc quyến rũ nhất thời, chứ xưa nay bản chất hắn cũng tốt. Hơn nữa, dù sao cũng vợ chồng chung sống gần mười năm qua, có con có cái với nhau rồi, không nên vì một câu chuyện này mà dứt đoạn tình nghĩa được, biết đâu không phải vì con bé kia dùng giọng tiếng quyền mà khiêu động dâm tình, đưa hắn vào vòng tội lỗi? Vì vậy nên ta cố nén giận núp bên gốc cây chăm chú nghe thêm cho tường tận. Hai đứa đã bàn kỹ: Sau ba ngày nhân lúc ta vào phòng riêng luyện công và ở luôn trong ấy bảy ngày đêm liên tiếp, bọn chúng thừa dịp trốn đi. Quá bảy ngày, khi ta ra khỏi phòng, dù có biết cũng không thể nào theo đuổi bắt kịp nữa! Nghe tới đây trong lòng ta như bị nung nấu, tóc tai dựng ngược, nhưng trong lòng cũng thầm cám ơn trời đất xui khiến cho ta tình cờ biết, nếu không thì trong mấy ngày nữa chúng cao bay xa chạy? trời đất mênh mông biết đâu mà tìm nữa?
Kể tới đây, bà giận quá nghiến răng kèn kẹt, mắt lộ tròng rất dữ tợn. Lục Ngạc nói thêm:
- Đứa nữ tỳ hồi ấy bao lớn, tên họ là gì, có xinh đẹp lắm không mà có sức cám dỗ mãnh liệt như vậy?
Bà "hừ" một tiếng rồi bĩu môi đáp:
- Con đó đâu có đẹp đẽ gì, nhưng nó chỉ giỏi cái chiều chuộng. Mỗi khi lão Công Tôn Chỉ thích gì thì hắn chiều chuộng thỏa mãn ngay. Con bé đòi hỏi thứ gì trái lại thằng kia cũng thật tình hết. Không biết nó có bùa ngải, phép thuật gì hay không chẳng rõ. Còn tên nó, hừ, nó tên... con Nhu!
Nghe tới đây Dương Qua cảm thấy ái ngại trong lòng và lo lắng cho Công Tôn Chỉ. Chàng nghĩ thầm :
- Có lẽ cũng vì bà ta kèm riết quá đáng, làm cho ông ta mất cả tự do hứng thú, mọi việc nhất nhất phải tuân theo quyền điều khiển của bà, và có lẽ đó là mầm mống của sự phản bội chăng?
Lục Ngạc hỏi thêm:
- Rồi sao nữa mẹ?
Bà nói :
- Trước khi chia tay nhau, hai tên khốn kiếp đã hẹn nhau đến trưa ngày thứ hai sẽ gặp nhau tại nơi đây. Chúng đã căn dặn nhau giữ kín đáo trong hai người chờ đợi, đừng lộ một cử chỉ gì có thể khiến ta nghi ngờ. Lắng nghe bọn chúng tán tỉnh nhau, ta đứng ngẩn ngơ gần như chết cứng tại chỗ, nhưng cũng nghiến răng bấm bụng đi về phòng. Đêm đó ta suy nghĩ xốn xang và trằn trọc mãi không thể nào ngủ được. Chờ tới ngày thứ ba, ta có cảm giác như thời gian kéo dài hàng năm. Sáng hôm ấy, ta giả vờ vào nhà kịp chuẩn bị luyện công, Công Tôn Chỉ rón rén đứng ngoài cửa sổ, mặt mày lấm la lấm lét nhìn trộm vào, có vẻ hả hê sung sướng lắm. Nhưng cái bản mặt đểu giả của hắn ta đã đoán được hết những cảm tưởng tiềm tàng trong ruột gan hắn. Chờ khi hắn bước đi một chập, tức thì ta thi triển thượng thặng khinh công phóng tới chỗ bọn chúng đã hò hẹn. Vừa tới nơi, đã thấy con Nhu đứng chờ từ lâu. Ta nổi giận, không thèm nói một lời, tung cước đá một chiếc nó lăn lông lốc rồi túm ngay ngực ném tuốt vào bụi tình hoa.
Dương Qua và Lục Ngạc nín nghe bà kể chuyện, đến khi nghe nàng Nhu bị quăng vào bụi tình hoa thì cảm thấy rợn người cùng "ồ" lên một tiếng vì quá hoảng hốt.
Cừu Thiên Xích nhìn hai người có vẻ kinh ngạc lắm, nhưng bà không nói gì điềm nhiên kể tiếp:
- Mấy phút sau, lão Công Tôn Chỉ tới, thấy con bé Nhu đang lăn lộn trong bụi tình hoa, lão vội vàng nhảy xổ định cứu ra, nhưng ta đã từ phía sau bụi cây phóng ra vung tay xô lão văng luôn vào đấy rồi quay mình, đi thẳng về phía phòng riêng. Ta đi rồi, lão loay hoay tìm cách chui ra và cứu con nọ ra khỏi bụi tình hoa. Theo thủ tục trong động này lưu truyền đời này sang đời khác, mỗi khi có người bị trúng gai tình hoa thì dùng thuốc tuyệt tình đan để giải cứu. Vì vậy nên Công Tôn Chỉ dìu con khốn ấy vào phòng thuốc để tìm cách cứu chữa và lấy thuốc cho uống.
Kể tới đây bà vùng dậy cười lớn và hỏi hai người:
- Ta hỏi thử các con có biết lão ấy có tìm được thuốc tuyệt tình đan cho con bé ấy không nào?
Lục Ngạc lắc đầu đáp:
- Mẹ cứ nói đi, chứ con biết làm sao được chuyện hồi ấy?
Dương Qua nghĩ bụng:
- Có lẽ bà ta đã đem lọ tuyệt tình đan giấu mất chứ còn gì nữa mà tìm cho uổng công.
Bà ta cười lớn:
- Khi lão dìu con bé vào phòng thấy bao nhiêu tuyệt tình đan đều đổ hết ra một cái bát thật to hòa lẫn với chất độc "tỳ sương", nếu uống vào chết ngay nên lão không dám cho nó uống. Nguyên phương pháp luyện chế tuyệt tình đan, do ông tổ mấy đời của lão truyền lại, nhưng việc luyện chế không phải ngày một buổi mà nên được hơn nữa, các thứ thuốc để chế cũng không dễ gì tìm có ngay đủ hết. Nhiều thứ đã có sẵn, nhưng cần phải bằng nước sương mùa thu, nước mưa mùa xuân trong suốt một năm trời mới có hiệu lực. Nản quá, lão không còn biết làm gì hơn bèn quay chạy về phòng ta quỳ xuống lạy mãi, cầu ta cứu mạng cho con bé.
Nghĩ một chặp, bà nói với giọng dịu hơn:
- Hắn cũng thừa hiểu, dù sao ta cũng nghĩ tình chồng vợ không đến nỗi nhẫn tâm lắm và thế nào cũng phải giữ lại một vài viên thuốc tuyệt tình đan. Vì vậy nên lão vừa khóc vừa thề nguyền: Nếu cứu sống cho hai mạng rồi, lão sẽ đuổi con bé đi khỏi và từ đấy về sau xin thề không còn dám mèo chuột bậy bạ với bất cứ một ai nữa. Để cho lão van xin một hồi lâu, ta đặt một viên tuyệt tình đan lên bàn rồi nghiêm giọng bảo: "Tôi chỉ còn giữ lại một hoàn mà thôi. Chắc anh cũng biết rõ một viên chỉ có thể cứu mạng cho một người mà thôi. Nếu chia đôi, cho mỗi người một nửa thì không công hiệu nữa. Vậy tùy anh liệu định, hoặc cứu lấy mạng anh, hoặc anh chịu hy sinh tánh mạng để cứu con ma đầu kia cũng được". Nghe ta nói như vậy, lão lặng thinh lấy hoàn thuốc rồi lặng lẽ đi ra không nói một lời. Ta cũng bước theo xem thử lão gỉai quyết ra sao cho biết. Khi vào tới phòng chứa thuốc, thấy con bé Nhu đang lăn lộn rên xiết thảm thiết. Thấy vậy, lão lên tiếng an ủi: "Em Nhu, cứ yên tâm. Bây giờ không còn thuốc cứu chữa nữa, vậy anh sẽ cùng chết bên em cho trọn tình". Nói dứt lời, lão tuốt gươm ra. Con bé nọ tưởng đâu lão giữ vẹn mối tình chung thủy cùng mình nên lộ vẻ hân hoan nói: "Hay lắm, anh hãy giết em rồi tự tử luôn, để chúng ta cùng xuống âm ty tiếp tục nối tình chồng vợ kiếp này". Lão không trả lời. Một tiếng "soẹt" khô khan vừa vang lên thì lưỡi gươm đã xuyên qua ngay tim con bé khốn nạn. Ta đứng ngoài cửa sổ sợ rằng lão sẽ tự vận luôn theo nó nên vội vàng lên tiếng định cản ngăn, nhưng lão điềm nhiên chùi lưỡi kiếm vào mông con Nhu, khoan thai tra gươm vào bao rồi quay lại vòng tay nói với ta: "Việc trót lỗi lầm, xin nương tử rộng lòng dung thứ một phen". Nói dứt lời, lão bỏ viên tuyệt tình đan vào miệng nuốt luôn. Thật ra ta cũng không ngờ lão xử trí như vậy nên cũng động lòng về sự hối hận của lão, không còn giận nữa. Ngay đêm đó, lão sai đặt biệt tiệc tại phòng riêng để tạ lỗi. Cứ mỗi bận nâng ly, lão lại nhắc lại lời thề chung thủy, từ đây một dạ trung thành với nghĩa vợ chồng đến trọn đời mãn kiếp.
Nghe tới đấy, nàng Lục Ngạc bỗng òa lên khóc. Bà Cừu Thiện Xích nổi giận mắng luôn:
- Con thương tiếc con bé Nhu lắm sao mà khóc lóc như vậy hử?
Nàng Lục Ngạc chỉ lắc đầu không đáp, vì trong thâm tâm nàng lúc đó xúc động quá thương cha biết hối hận ăn năn.
Bà tiếp tục kể:
- Ta vừa uống rượu vừa tươi cười sung sướng vì thấy người chồng đã thật tâm hối cải và hy vọng từ nay sẽ độc chiếm tình yêu trong hạnh phúc gia đình. Ta thò tay vào túi lấy ra hai viên tuyệt tình đan khác, đặt lên trên bàn vừa cười vừa nói:
- Hồi sáng nay anh nông nổi giết nó cũng tội nghiệp thật. Chậm lại đôi chút, cũng có thể dùng thuốc nầy lấy mạng nó.
Lục Ngạc nhìn mẹ hỏi:
- Lúc ấy mẹ đang có định ý cho giải cứu nàng ta hay quyết giết?
Bà suy nghĩ một chặp rồi đáp:
- Thật ra lòng ta cũng không nỡ hạ sát nó và dự định cứu chữa để sau này nó còn cải tà quy chánh rồi biết ơn mình mãi mãi.
Rồi bà kể thêm:
- Nửa ngày sau, Công Tôn Chỉ vui vẻ đến nâng chén, mời ta uống một chén để tạ ơn tha tội. Thấy chồng đã thật tình biết lỗi, lòng ta hân hoan sung sướng, tiếp lấy uống cạn. Ngờ đâu vừa uống khỏi miệng đã ngã xuống mê man ngay.Khi ta tỉnh dậy thì thấy bao nhiêu gân ở chân đều bị cắt đứt và bị ném trong động này. Và từ đó tới nay ta vẫn sống một mình không biết trên đó đã xảy ra những gì. Có lẽ sau khi hạ xong độc thủ, nó tin rằng ta đã bò xuống nơi chốn này rồi.
Nói tới đây bà trợn mắt tỏ vẻ vô cùng oán hận.
Lục Ngạc hỏi:
- Suốt bao nhiêu năm qua, mẹ chỉ ăn táo mà sống thôi sao?
Bà nhìn con buồn rầu đáp:
- Chứ còn gì nữa mà ăn hử con? Trong mấy ngày đầu, mỗi buổi sáng Công Tôn Chỉ có ném xuống cho một vắt cơm, nhưng chỉ có mấy ngày rồi dứt hẳn. Trong thời gian ấy, mẹ chỉ có tìm rêu rong ăn đỡ, ngoài ra còn biết lấy gì đỡ dạ nữa?
Nàng Lục Ngạc đau lòng quá vội ôm chầm lấy mẹ gào lên:
- Trời ơi khổ thân mẹ tôi quá. Có ngờ đâu mẹ lại phải chịu đựng một cực hình kéo dài mãi như thế này?
Dương Qua không muốn nghe kể chuyện dài dòng nữa, nên mới gợi ý hỏi bà:
- Thưa bá mẫu, trước khi bị vứt xuống đây, có khi nào Công Tôn Chỉ kể cho bá mẫu nghe biết có lối nào ra khỏi động này hay không?
Bà cười chua xót đáp:
- Ta với lão tuy kết nghĩa vợ chồng nhưng tình chồng vợ không khác chi Trang Tử xưa kia, cho nên chẳng có chuyện gì kín đáo mà lão chịu để cho ta nghe hết. Ngay như cái đầm cá sấu trước kia lão cũng không hề cho ta hay biết bao giờ. Còn cái động này dù có lối ra chăng nữa, nhưng tay chân ta đã bị cắt gân hết rồi, làm sao mà trèo leo đi ra cho được?
Nghe bà nói thế, Dương Qua mừng như chết đi sống lại. Chàng vội đề nghị:
- Như vậy bá mẫu cùng hai chúng tôi hợp sức lại cả ba cùng tìm cách thoát ra, dù gian nguy khó nhọc tới đâu cũng vượt qua được.
Nghe chàng đề nghị, Lục Ngạc bèn nói với mẹ:
- Bây giờ để con cõng mẹ lên lưng rồi mẹ chỉ đường cho cả ba cùng đi ra.
Nguyên trong động này có một lối bí mật để đi ra, nhưng vì đường sá quanh co khúc khuỷu lên xuống khó khăn, khi đi được vài chục trượng sẽ có một khoang rộng có mấy chục cây táo mọc, bà Cừu Thiên Xích đưa tay chỉ vào lối đó và nói:
- Nơi có táo mọc mà vừa rồi chúng ta chọi trái rụng xuống để ăn đó chỉ là một lối hờ mà thôi. Đi lối đó có nhiều thứ rắn rết thật nguy hiểm và nhiều chất nhựa độc, chạm phải chết ngay. Còn cửa hang này có thể thông thương với bên ngoài được, nhưng vức vách đá cao hàng trăm trượng, làm sao ra cho được?
Dương Qua ngước mặt nhìn lên, thấy miệng hang cao vòi vọi, không thể nhẩy hay leo lên được. Dù có leo lên đọt táo cũng không thấm thía gì hết. Vì mỗi cây táo cao nhất cũng bảy tám trượng là cùng. Như vậy chắc không phương thế nào thoát ra được nữa. Nhưng chàng lại thầm nghĩ: "Nhưng bây giờ chẳng lẽ mình khoanh tay chờ chết hay sống mãn kiếp nơi đây sao?". Nghĩ xong, chàng phi thân lên trên đọt táo cao nhất, phóng tầm mắt quan sát hết khắp nơi. Từ phía trên đọt táo, vách đá có nhiều chỗ lồi ra lõm vào chứ không thẳng đứng như dưới. Chàng bèn nín hơi vận sức nhảy phóng lên cao thêm bám vào vách đá rồi tiếp tục nhảy thêm nữa, mỗi lúc một cao. Trong bụng mừng hớn hở, Dương Qua quay đầu nhìn xuống gọi lớn:
- Có hy vọng rồi, cô nương và bá mẫu cứ yên tâm chờ một tý. Tôi lên tới miệng hang sẽ thòng dây xuống kéo lên nhé.
Thế rồi chàng cứ bám vào vách đá trèo lên như vượn, vừa leo vừa nhảy, chuyền từ mỏm này sang mỏm khác. Có nhiều chỗ quá cheo leo phải bám chặt như dơi. Nhờ tài khinh công trác tuyệt, không bao lâu Dương Qua đã vượt hơn một trăm trượng cao. Khi còn cách miệng hang tháng hai chục trượng nữa, chàng nhìn thấy vách đá trở nên
nhẵn thín, không còn một chỗ nào để bám víu được nữa. Dù có móng vuốt như hùm beo hay có nhiều chân như rết cũng chưa chắc leo được nữa. Ngắm nghía một chặp lâu thấy không thể nào leo lên nữa được, chàng bèn tuột xuống. Khi tuột xuống tới đáy hang, chàng mừng rỡ báo tin lành:
- Thôi, chuyến này có thể leo ra được rồi, nhưng trên ấy cần phải có dây tốt mới được.
Nói xong chàng dùng dao tách một số lớn vỏ táo rồi cùng Công Tôn Lục Ngạc hì hục bện được một sợi dây thật dài và khá chắc chắn.
Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu tối. Dương Qua cầm hai mối dây giằng thử thật mạnh miệng nói:
- Dây cũng khá bền lắm, không thể nào đứt được đâu mà sợ.
Nói xong, chàng níu một cành táo khá lớn, chặt lấy một khúc đem buộc vào một đầu dây mang theo. Thế rồi chàng từ từ leo lên lần nữa. Khi leo lần tới miệng, gặp chỗ vách đá trơn trợt, chàng bèn vận sức ném thẳng khúc gỗ táo lao vút lên trên xa, miệng hét:
- Tôi lên này!
Sức chàng ném mạnh quá, cành táo lao vút lên không trung nằm bắc ngang trên miệng hầm. Chàng đưa tay khẽ giật giật mấy cái khiến cành táo ngáng vào hai hốc đá trên miệng hang, rồi nhìn xuống la lớn:
- Tôi leo lên đây này.
Nói vừa dứt lời chàng dùng hai tay thu dây leo lên thoăn thoắt như một con sóc. Không bao lâu đã tới miệng hang. Dương Qua quay đầu nhìn xuống, thấy hai mẹ con Lục Ngạc chỉ còn là hai cái bóng mờ mờ nhỏ xíu. Ngồi nghỉ trên miệng hang, chàng suy nghĩ: "Không bao lâu nữa, ta sẽ đem được thuốc trị độc tình hoa để trao tận tay Long cô nương rồi. Sung sướng quá". Chàng đem cột thật chặt hai đầu cây vào mỏm đá để khỏi lăn hay sút ra. Trong khi đó trăng đã lên khỏi đỉnh núi, chiếu ánh sáng xuống nửa hang, nhưng nhìn xuống phía dưới thì tối đen như mực. Dương Qua ngửa mặt nhìn trăng rồi trông xuống hang sâu, lòng suy nghĩ: "Ngày còn chung sống với cô nương trong Cổ Mộ, có bao giờ ta ngán cảnh thâm u của rừng núi, chẳng hiểu tại sao hôm nay chỉ vừa trông thấy hang này đã ngán lắm rồi. Té ra cảnh vui hay buồn chỉ tại lòng người mà ra chứ không phải vì cảnh". Suy nghĩ xong, chàng loay hoay tìm cách thòng dây xuống.
Trong lúc đó dưới hang bà Cừu Thiên Xích biết rõ chàng đã lên tận trên miệng hang rồi nên lớn tiếng rầy con gái:
- Sao mày ngốc vậy? Mày để nó leo lên một mình, thoát thân rồi thì còn nghĩ gì tới mẹ con mình nữa?
Lục Ngạc đáp:
- Xin mẹ cứ yên tâm. Con biết rõ bản tánh anh ấy lắm. Con người như anh ấy rất thủy chung và trọng điều tín nghĩa, không khi nào quên tình phụ nghĩa mà bỏ rơi mẹ con mình đâu.
Bà không tin, càng mắng lớn:
- Con gái tôi thật thà quá, như vậy thì còn gì là đời con gái với cái tánh quá tin người như vậy nữa? Con trai đời này có thằng nào có thể gọi là thủy chung với con gái đâu mà con tin như vậy?
Lục Ngạc đỏ mặt nói:
- Mẹ nói sao con chẳng hiểu.
Bà cười nói:
- Không hiểu sao mặt mày đỏ bừng lên như vậy? Phàm ở đời có lạ chi thứ gái gần trai như rơm gần lửa. Mày tin nó thì nó dại gì không lợi dụng. Một khi bướm đã bắt hoa thì còn thiết tha gì nữa? Mày đã lỡ rồi thì phải bám riết lấy nó chứ sao lại bỏ tuột đi như vậy? Chẳng lẽ rồi đây một mình nuôi con cho hắn hay sao? Con gái trong trắng, khôn ba năm dại một giờ, có lẽ thằng Công Tôn Chỉ đã phụ rẫy tao rồi mày là con gái phải trả nợ cho cha ư?
Hai mẹ con đương cãi vã giằng co thì đường dây của Dương Qua thòng xuống đã chạm mặt đất. Lục Ngạc mừng quá, vội vàng bẻ hai cành cây cột chữ thập thật chắc đặt mẹ ngồi lên, quấn thêm một vòng bụng cho bảo đảm rồi vừa cười vừa hỏi:
- Bây giờ mẹ tin lời con chưa? Anh Dương Qua đâu phải như mẹ tưởng. Bà Cừu Thiên Xích hử một tiếng rồi nói:
- Ta chỉ dặn cho mà xem chừng, từ nay nên bám riết nó đừng thả ra như vậy nữa nghe không. ở đời hễ tin bợm thì mất bò con ạ.
Nghe mẹ nói, nàng Lục Ngạc chạnh lòng suy nghĩ: "Mẹ mình đã nếm mùi tình phụ, nên đã thành kiến với tất cả đàn ông trên trần thế. Ai ai bà cũng cho là hạng đểu giả, lúc nào cũng chực phụ rẫy đàn bà". Nàng giật nhẹ mối dây ra hiệu. Phía trên, Dương Qua cầm dây kéo lên vùn vụt. Bà Cừu Thiên Xích tung bổng người lên cao vùn vụt như muốn bay lên mây, không mấy chốc mất dạng.
Lục Ngạc đứng dưới nhìn theo. Nàng biết chắc thế nào Dương Qua cũng thòng dây trở xuống kéo mình lên, nhưng ảnh hưởng những lời nói của Bà Cừu vừa dặn cũng khiến cho nàng ngài ngại và cảnh vắng lặng trong hang đá khiến nàng cảm thấy sờ sợ, muốn rợn gáy.
Dương Qua kéo được bà Cừu Thiên Xích lên khỏi miệng hang rồi bèn mở ra đặt bà ngồi trên một tảng đá bên cạnh, rồi thòng dây trở xuống cho Lục Ngạc. Nàng Lục Ngạc nắm được đầu dây, đem quấn vào lưng mấy vòng rồi hai tay bám thật chặt, giật giật mấy cái ra hiệu. Dây được từ từ kéo lên. Nàng quay đầu nhìn xuống thấy ngọn táo mỗi lúc một xa dần và ánh trăng càng lúc càng sáng chói lọi. Khi còn cách miệng hang độ vài chục trượng, bỗng nghe có tiếng quát thật lớn, dây lại tuột xuống. Nàng thất kinh lo sợ và nghĩ bụng:
- Trời ơi sao thế này? Nếu rơi xuống đáy thì còn gì là xương thịt nữa?
Trên miệng hầm Dương Qua đang cố phăng dây, chỉ còn chút nữa là thành công, thình lình có tiếng chân người đi rầm rập rồi có tiếng gươm khua, chàng đoán mình đang bị kẻ nào đánh lén. Chưa kịp quay đầu lại nhìn, bỗng nhiên chàng nghe có tiếng người quát lớn: "bọn bây định làm trò chi tại đây" tiếp theo một tiếng vụt như trời giáng vào lưng chàng. Trước tình thế đó Dương Qua phải buộc lỏng buông dây, để dùng hai tay đỡ đòn, chàng vừa gạt được một cây gậy sắt nặng linh trăm cân thì nhìn lại kẻ địch là Phàn Nhất ông đệ nhất đệ tử của Công Tôn động chủ. Trước đây Phàn Nhất ông bị Dương Qua xén mất bộ râu quý nên trong lòng mang mãi mối hận, hôm nay lại bị chàng gạt luôn cây gậy sắt, ông bực tức thêm bèn xông nhầu vào vụt loạn đả. Nếu Dương Qua chỉ chậm một tý cũng tan xương nát thịt. Dưới làn gậy vô cùng ác liệt, Dương Qua
không còn cách nào lẩn tránh nữa, chàng bèn nhảy liều xuống hang theo Lục Ngạc. Lục Ngạc theo đầu dây tuột gấp xuống, sợ thét hỏi ầm ĩ. Trên miệng hang, bà Cừu Thiên Xích cũng quát lớn bảo Phàn Nhất Ông:
- Mày hại con ta thì ta cũng cho mày phải cùng chết với nó luôn thể.
Nói xong bà tung đầu dây ra quấn luôn trên người họ Phàn ba vòng rồi giật mạnh.
Phàn Nhất ông hoảng quá hai tay vội nắm lấy đầu dây kéo lại. Trong lúc đang giằng co, Phàn Nhất Ông bỗng cảm thấy sau lưng đau nhói như kim
châm và Cừu Thiên Xích quát lớn:
- Huyệt linh đài đã bị ta điểm rồi, các mạch máu đều ngừng chạy, đừng hòng chống cự nữa vô ích.
Vừa nghe ba tiếng "linh đài huyệt" Phàn Nhất Ông rụng rời không hồn vía nữa. Từ trước đến nay ông thường nghe sư phụ giảng giải cho biết Linh đài huyệt đạo trọng yếu nhất trong con người hễ bị điêm trúng, tất nhiên bao nhiêu mạch máu đều ngừng chảy "Linh Đài tiểu tổn, bách mạch câu phế". Vì vậy nên khi nghe bà nói xong, ông chỉ biết đứng sửng
sốt không dám cử động hay bỏ chạy nữa. Rồi máu tươi từ miệng ra như suối.
Thấy địch thủ đă bị trọng thương. Thiên Xích yên trí, nắm lấy đầu dây giật và thét lớn:
- Các con leo lên, đừng sợ nữa.
Nhờ có võ công cao siêu và thuật khinh công tuyệt đỉnh, Dương Qua nhảy xuống hang, đứng được trên ngọn cây táo mà chàng đã đoán trước được vị trí rồi cố nắm dây cho tuột xuống từ từ để Lục Ngạc khỏi bị thương tích. Trong khi ấy Lục Ngạc hoảng sợ quá đã hôn mê bất tỉnh rồi. Dương Qua bèn dùng dây buộc ngang lưng nàng hai vòng thật bảo đảm rồi kẹp bên hông leo lên. Leo lên khỏi miệng hầm, chàng thấy Lục Ngạc còn đê mê hồn quế nên giải huyệt cho nàng. Lục Ngạc mở mắt nhìn quanh, trong tâm hồn nửa mê nửa tỉnh, vừa trông thấy Dương Qua đứng dưới ánh trăng nhìn mình cười mỉm thì nàng mừng quá chồm lên ôm chàng thổn thức:
- Dương đại ca! Có phải hai ta đã cùng chết hết rồi phải không? Đây là chốn nào, có phải âm ty chăng?
Dương Qua đỡ nàng ngồi dậy, xoa nhẹ nơi má cười nói:
- Phải đấy, cả hai chúng ta đều chết hết rồi.
Lục Ngạc thấy chàng nói đùa cùng mình, bèn liếc nhìn ra sau thấy mẫu thân đang nhìn mình miệng cười âu yếm. Nàng ngượng quá, nhảy xổ lại ôm mẹ gọi lớn:
- Mẹ ơi, chúng ta đã thoát khỏi hầm rồi, sướng quá.
Dương Qua nhìn lại thấy bà Cừu Thiên Xích tuy bị cắt đứt hết chân tay mà vẫn có thể hạ thủ dễ dàng một tay võ công lợi hại là Phàn Nhất Ông thì phục sát đất, vội hỏi:
- Lão bà đã dùng phép gì hạ được thằng cha nầy như vậy?
Bà Cừu Thiên Xích vừa cười vừa đáp:
- Chỉ dùng một viên đá nhỏ là đủ, cần chi phải dùng phép thuật đối với hắn?
Nguyên trước kia bà đã dạy cho Công Tôn Chỉ vê thuật điểm Linh đài huyệt, nên thế nào Công Tôn Chỉ cũng đem dạy lại và lòe với bọn đệ tử cho nên khi dùng mồm phóng viên đá chạm vào mình Phàn Nhất Ông mất tinh thần, không dám chống đối nữa.
Riêng Dương Qua thì bất cứ lúc nào cũng chỉ trông mong được gặp lại Tiểu Long Nữ, nay thấy hai mẹ con Lục Ngạc đã ra khỏi hang bình yên vô sự, và kẻ địch là Phàn Nhất Ông đã bị điểm huyệt nằm sóng soài trên mặt đất, thì vội lên tiếng nói:
- Xin lão bà và cô nương hãy ngồi tạm nơi đây một chút, để tôi đem tuyệt tình đan cứu cho một người bạn thân.
Cừu Thiên Xích hỏi lớn:
- Nhà ngươi cũng có tuyệt tình đan sao? Hãy đưa ta xem thử nào?
Dương Qua vui vẻ đáp:
- Dạ cháu có mấy viên, xin lão bà xem lại có chân thật tuyệt tình đan hay không?
Miệng nói, tay thò vào túi rút ra một cái bình thuỷ tinh nho nhỏ trút ra mấy viên thuốc đen hình vuông đưa cho bà.
Bà Cừu Thiên Xích mân mê mấy viên thuốc trong tay, đưa lên mũi ngửi thấy thơm ngào ngạt, gật đầu khen:
- Phải đúng là tuyệt tình đan đây. Ngươi lấy ở đâu mà được số này. Nghe ngươi cũng bị tình hoa đâm phải sao không uống đi cho rồi?
Dương Qua chắp tay đáp:
- Cám ơn lão bà, câu chuyện này hơi dài. Chờ cháu đi cứu cho người quen xong sẽ trở lại đây và kể chuyện lại cho lão bà rõ.
Nói xong chàng đưa tay cầm lại mấy viên thuốc chực bước đi. Lục Ngạc thấy vậy có ý quyến luyến vừa lo âu hỏi nhỏ:
- Dương huynh! Nếu cha em ngăn trở thì anh làm sao?
Bà Thiên Xích nổi giận thét lớn:
- Con bé này gan thật, ai cho phép mi gọi lão ấy bằng cha nữa? Nếu từ nay mi còn gọi hắn là cha thì đừng gọi ta là mẹ nữa nghe không?
Để bà khỏi la con, Dương Qua xen vào nói:
- Tôi đem thuốc cho Long cô nương thì can chi ông lại cản ngăn. Theo tôi nghĩ có lẽ ông còn mừng rỡ là khác chứ.
Lục Ngạc bảo:
- Nếu ông không can ng ăn thì ông cũng có thề dùng độc dược khác để hại mạng anh, cần phải đề phòng cho lắm.
Dương Qua cười nhạt nói:
- Sự việc tới đâu hay đó biết đâu mà đoán trước được?
Cừu Thiên Xích nghe hai người trò chuyện thì xen vào hỏi:
- Bây giờ tìm gặp Công Tôn Chỉ đấy sao?
Dương Qua gật đầu đáp:
- Dạ phải.
Bà sáng rực đôi mắt nói:
- Nếu vậy ngươi cho ta cùng theo với. Biết đâu ta sẽ giúp được nhiều việc có ích cho ngươi.
Trong khi quá nóng lòng gặp Tiểu Long Nữ, Dương Qua quên nghĩ chuyện xa gần hơn thiệt. Nay nghe bà nói vậy, chàng bỗng suy nghĩ:
- Bây giờ ta đem vợ lớn của lão tới đó, thì nhất định lão không còn dám thành thân cùng Long cô nương rồi. Hay quá, tiện quá.
Nghĩ xong chàng, mừng rỡ nhưng lại ngại chuyện khác:
- Tuyệt tình đan chỉ còn có một lọ vừa cho Long cô nương uống. Còn ta, thuốc đâu để uống nữa đây? Như thế chắc mình phải chết rồi.
Trong lòng lo ngại, nét phân vân hiện rõ ràng trên nét mặt chàng. Thấy Dương Qua mới vui mừng bỗng lo ngại buồn rầu ngay Lục Ngạc cũng thấy buồn lây và nghĩ bụng:
- Phần ta cũng còn nhiều chuyện đáng lo lắm. Khi cha mẹ giáp mặt nhau thế nào cũng xảy ra nhiều chuyện động trời và vô cùng khó xử.
Nghĩ vậy nàng càng bối rối thêm. Bà Cừu Thiên Xích lớn tiếng bảo:
- Ngạc con, hãy cõng mẹ đi con. Lẹ lên!
Lục Ngạc đáp:
- Thưa mẹ, nếu mẹ muốn đi, cũng cần phải tắm rửa cho sạch sẽ kiếm quần áo thay tử tế chẳng lẽ đễ mình mẩy lõa lồ lá cây bao phủ quanh người như vậy coi sao được?
Sở dĩ Lục Ngạc đề nghị như thế là muốn diên trì cuộc gặp gỡ của cha mẹ được chừng nào hay chừng ấy, vì nàng nghĩ nếu hai người gặp nhau thế nào cũng có sự đụng độ nẩy lửa, một mất một còn.
Bà Cừu Thiên Xích cau mày gắt lớn:
- áo quần rách hết, rồi lấy đâu mà thay? Xưa nay vẫn dùng vỏ cây che thân đã sao? Chỉ trừ phi...
Nói tới đây bà bỗng suy nghĩ:
- Hai anh mình là Cừu Thiên Nhận và Cừu Thiên Lý thường xô xát nhau vì bởi Lý hay cải trang giả làm Cừu Thiên Nhận. Hôm nay ta bị cắt hết gân chân gân tay thì làm sao đủ sức chống lại Công Tôn Chỉ? chi bằng ta
cũng noi gương anh cả giả dạng hai anh để lòe lão trước đã. Xưa nay lão chưa biết nhị ca ta và yên chí là ta đã rục xương trong động đá từ năm nào rồi nên không thể nào nghi ngờ được.
Nhưng bà lại lo lắng:
- Ta cùng lão đã cùng nhau chung sống bao năm quen mặt biết lời quá nhiều từ hôm nay làm sao lừa gạt cho được?
Dương Qua thấy sắc diện Bà quá ư phân vân lo lắng bèn hỏi nhỏ:
- Có phải lão bà ngại Công Tôn Chỉ nhận diện ra được phải không? Nếu vậy cháu đã có cách hay đây rồi, xin đừng lo nữa.
Nói xong chàng thò tay vào túi rút ra chiếc mặt nạ da người trao cho bà và nói:
- Xin lão bà cứ dùng cái mặt nạ này đeo vào người thì có trời mà biết được.
Bà Thiên Xích mừng rỡ đưa tay cầm chiếc mặt nạ rồi quay sang Lục Ngạc bảo:
- Ngạc con, con hãy cõng mẹ lại gần động Thủy tiên, tìm cho mẹ một bộ quần áo thay đỡ và một cây quạt lớn với một áo rộng nhé.
Lục Ngạc ghé vai cõng mẹ rồi theo Dương Qua bước đi. Dương Qua định thần nhìn lại phương hướng để tìm lối đi. Chàng thấy bọn mình đang đứng trên một núi cao vòi vọi, tứ bề cây mọc rậm rạp xanh um. Trông về phía Thạch trang u cốc, hình như cách xa hàng mấy dặm đường trường.
Cừu Thiê n Xích cũng đễ ý quan sát phong cảnh xung quanh rồi thở dài nói:
- Đây là ngọn núi Lệ Quỷ. Tử đời này sang đời khác, người trong động khẩu truyền cùng nhau rằng trên núi này thường có quỷ hiện và sát hại tất cả những ai vô phước gặp chúng. Vì vậy nên không có một kẻ nào dám đặt chân lên đây. Không ngờ ngày hôm nay chúng ta vừa thoát khỏi miệng hầm thì lại trúng đúng ngay chỗ núi này, hay thật.
Dương Qua quát hỏi Phàn ông:
- Nhà ngươi đến đây do lối nào?
Lúc này Phàn Nhất Ông cũng vừa tỉnh dậy, mặc dù biết mình đã rơi vào tay địch nhưng ông vẫn không sờn lòng. Khi nghe Dương Qua hỏi, ông cười gằn quát lớn:
- Mi cứ giết ta đi cho rồi, đừng nói dài dòng vô ích.
Dương Qua hỏi nữa:
- Có phải Công Tôn động chúa sai mi tới đây dò xét phải không?
Phàn Nhất Ông trợn mắt đáp:
- Phải đấy. Chính sư phụ ta sợ bọn tay sai tác yêu tác quái, nên có dặn ta phải để ý coi chừng trước sau. Quả nhiên ông đoán không sai, và ta đã bắt gặp bọn bay làm ma quỷ trên đỉnh núi này.
Miệng đáp nhưng mắt ông vẫn không rời Cừu Thiên Xích bụng nghĩ:
- Không biết lão già này là ai mà Công Tôn Cô nương lại gọi bà là mẹ?
Nguyên Phàn Nhất Ông tuổi tác không thua vợ chồng Cừu Thiên Xích là bao nhiêu nhưng lão nhận Công Tôn Chỉ làm sư phụ để học võ công. Khi lão bắt đầu về sống nơi động Thủy Tiên thì Cừu Thiên Xích đã bị hại rồi nên lão không hề biết gì về bà. Trong khi bị đau, nằm tịnh dưỡng, nghe ba người nói chuyện, ông đoán biết có ý không tốt đối với sư phụ mình nên xông ra can thiệp mà thôi.
Cừu Thiên Xích nghe qua biết lão ta rất trung thành cùng Công Tôn Chỉ nên trong lòng oán ghét vô cùng. Bà bảo Dương Qua:
- Hãy giết phứt hắn đi cho rảnh nợ.
Dương Qua liếc nhìn thấy Phàn Nhất Ông vẫn lộ vẻ khí khái, cũng có lòng mến phục, tuy nhiên vì không muốn làm phiền ý bà nên chàng nhìn lão nói:
- Vâng tôi sẽ thanh toán thằng cha này cho. Xin cô nương cứ cõng Lão bà đi trước. Xong chuyện tôi sẽ chạy theo.
Lục Ngạc xưa nay vẫn mến cái đức tính ngay thẳng khảng khái của Phàn Nhất Ông, không nỡ để ông bị chết oan uổng, bèn nhìn Dương Qua khẩn khoản nói:
- Dương đại ca...
Nhưng Cừu Thiên Xích đã quát lớn, cắt lời:
- Thôi lẹ lên chứ. Tao nói gì mày cũng chẳng nghe, thì còn mẹ con gì nữa chứ?
Lục Ngạc chẳng dám nói gì thêm lẳng lặng cõng mẹ bước đi tìm lối xuống núi.
Thấy hai người đi một đoạn khá xa, Dương Qua bước lại cạnh Phàn Nhất Ông khẽ bảo:
- Phàn đại huynh. Tôi và đại huynh không thù không oán, tôi nỡ nào giết hại đại huynh cho đành. Đùi bên trái đai huynh bị điểm huyệt, tôi đã giải cho rồi. Rán chờ vào lúc cuối giờ thìn sẽ mạnh lại như cũ, anh đừng ngại gì hết nhé.
Chàng đưa tay giải huyệt xong rồi tung mình chạy theo Lục Ngạc. Phàn Nhất Ông đang lặng thinh nhắm mắt chờ chết, không ngờ Dương Qua đã không giết còn đối xử tốt với mình như vậy thì trong lòng ngỡ ngàng và cảm động quá. Ông chưa kịp nói gì thì Dương Qua đã quay mình chạy ra rồi, nên đành ngồi dậy ngơ ngác nhìn theo ba bóng người đang khuất dần trong rặng cây rừng đang tắm ánh trăng khuya.
Dương Qua chạy một chặp đã theo kịp Lục Ngạc. Chàng nặng lòng muốn gặp Tiểu Long Nữ, thấy Lục Ngạc đi chậm quá nên cất tiếng nói:
- Lão bá, xin để tôi cõng đỡ sức cho cô nương một quãng đường nhé.
Lục Ngạc đang lo ngại tánh ý của mẹ mình và Dương Qua không hợp nhau, nay bỗng nhiên nghe chàng tự nguyện xin cõng bà thì lòng mừng vô hạn, nhưng cũng vờ từ chối:
- Có đâu lại làm phiền Dương huynh nhiều như vậy?
Nàng dịnh nói như vậy để dò ý mẹ thì bà Cừu Thiên Xích gắt:
- Ta mang thai mày mười tháng, nuông chiều quý mến mày như ngọc bây giờ mới cõng ta vài dặm đường đã muốn trao lại cho người khác sao? Hiếu lắm thế con gái?
Dương Qua chẳng nói gì, bế xốc bà lên vai rồi tung người bay lẹ như tên bắn. Bà Cừu Thiên Xích xưa nay tự hào khinh công của mình là cao diệu được chân truyền từ Thiết chưởng thủy thượng phiêu, từ Trung Nguyên đến miền Tây vực chưa mấy ai dám ra mặt so tài. Thế mà từ lúc nằm trên lưng Dương Qua thấy chàng tung người lao đi vun vút như chẳng hề đặt chân trần mặt đất thì bà hết sức kinh ngạc phải tấm tắc khen thầm:
- Thằng bé này còn ít tuổi mà khinh công cao diệu như thế này kể ra cũng hiếm có. Như vậy quả xứng đáng làm rể duy nhất của ta lắm.
Chưa bao lâu, Dương Qua đã công bà xuống tận chân núi. Chàng quay đầu nhìn lại thấy Lục Ngạc còn lẽo đẽo chạy theo trên lưng chừng núi, nên phải tạm dừng chân chờ đợi. Một lát sau nàng vừa tới nơi, mệt thở hổn hển, mồ hổi mồ kê đầm mình.
Xuống khỏi núi rồi, cả ba cùng bàn cách vào trang viện. Lục Ngạc chạy lại xóm gần mượn được một bộ áo quần, một cái áo rộng và một cây quạt khá lớn đem lại cho mẹ.
Cừu Thiên Xích mặc áo, đeo mặt nạ và cầm quạt rồi để cho Lục Ngạc và Dương Qua dìu đi dần vào trang viện. Sau khi bước qua khỏi cổng. Cừu thiên Xích cảm thấy cõi lòng rào rạt vì không ngờ sau hai chục năm gian khổ ngày nay còn hân hạnh nhìn lại cảnh này và đặt chân lại trên con đường này. Càng suy nghĩ lòng bà càng ngập một niềm bi thương, mừng mừng tủi tủi.
Ngay trước cửa trang viện có treo đèn kết hoa rực rỡ, bên trong chưng diện toàn những đồ xa hoa lộng lẫy, văng vẳng thoáng qua có tiếng nhạc dìu dặt du dương. Hình như trong trang viện có việc gì vui mừng. Bọn gia đinh nhìn ra thấy có ba ngườị đi vào thì cùng đứng lên định ngăn cản, nhưng khi trông thấy có bóng Công Tôn Lục Ngạc đi kèm một bên thì không nghi ngờ gì, để cho ba người tự do đi vào. Khi bước vào phòng khách thấy đông người, ai ai cũng lộ vẻ hân hoan vui vẻ. Công Tôn Chỉ mặc áo gấm hoa, phía bên mặt là cô dâu đầu đội mũ cánh phượng, mặt che khăn choàng thêu, không trông thấy mặt, nhưng Dương Qua đã đoán biết là Tiểu Long Nữ.
Bỗng ba hồi chuông trống vang lên, sau đó ba tràng pháo thi nhau nổ, rồi tiếng người xướng lớn:
- Giờ lành đã đến, xin mời chú rể cô dâu làm lễ bái tạ trời đất...
Cừu Thiên Xích cười lên ha hà. Tiếng cười vang lên làm bao nhiêu đèn đuốc đều chập chờn muốn tắt, rồi nghiêm giọng hỏi:
- Cô dâu chú rể bái tạ thiên địa, còn người cũ thì làm chi đây?
Tuy gân tay gân chân bị cắt đứt nhưng nội công bà vẫn còn như cũ. Hơn nữa suốt mười mấy năm bị giam hãm trong hang, bà đã dốc lòng rèn luyện chuyên cần, không kém gì kẻ khác tập trong hai mươi tám năm, vì vậy hôm nay bà vận nội công nói ra âm thanh là rung chuyển cả căn nhà, khiến mọi người phải đinh tai nhức óc. Đèn đuốc trong nhà cũng vì tiếng
nói tắt gần phân nửa. Mọi ngươi thất sắc cùng quay đầu nhìn ra.
Công Tôn Chỉ vừa nghe tiếng cười đã thấy ớn lạnh xương sống rồi. Nhìn lại thấy Dương Qua và con gái mình hãy còn sống yên lành đứng cạnh một người mặt mày như quỷ, ông vừa kinh ngạc vừa lo sợ, run run cất tiếng hỏi:
- Tôn giá là ai, xin vui lòng cho biết rõ phương danh quý tánh.
Cừu Thiên Xích cười gằn rồi đáp lớn:
- Ta với ngươi vốn cũng là họ hàng quen thuộc, thế mà ngươi nỡ làm mặt lạ, như vậy sao phải?
Xung quanh động Thủy tiên bao bọc toàn núi cao vách đá trên chu vi bốn năm dặm. Tiếng nói của bà tuy không vang rền như sấm sét nhưng tiếng vọng ra cũng thấy kinh người và vách núi dội đi dội lại mãi không dứt. Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đứng ngoài dự lễ, nghe nói thảy đều thầm phục nội công ngươi này quả thiên hạ vô song. Nghĩ vậy nên ai nấy cùng chăm chú nhìn theo không chớp mắt. Công Tôn Chỉ nhìn thấy người nầy mặc áo rộng, tay phe phẩy cây quạt lông thì giật mình nghĩ bụng:
- Con người này sao có vẻ giống hệt anh vợ của ta lắm vậy?
Tuy chưa biết mặt Cừu Thiên Nhận nhưng trước đây lão thường nghe vợ tả lại hình dáng và trang phục của ông. Nghĩ xong ông thầm suy tiếp:
- Hình như người này có ý không tốt đối với ta. Vậy phải đề phòng chu đáo mới được.
Nghĩ xong, ông lễ phép hỏi:
- Tôi và ngài thật chưa hề quen biết, chẳng hiểu vì sao lại bảo có họ hàng quen thuộc, thật cũng khá buồn cười.
Trong các cao thủ có mặt hôm nay chỉ có Doãn Khắc Tây là người am thạo công chuyện trong giới võ lâm hơn cả, cho nên khi thấy Cừu Thiên Xích mặc áo rộng phe phẩy quạt lông thì bỗng nghĩ ra một người rồi cất tiếng nói:
- Các hạ có phải Thiết Chưởng thủy thượng phiêu Cừu Thiên Nhận hay chăng?
Cừu Thiên Xích ngước mặt cười lớn làm vang động cả gian nhà rồi nói lớn:
- Tôi những tưởng bao nhiêu người cũ lúc này chết cả rồi nhưng không ngờ vẫn còn một vị hề... hề...
Công Tôn Chỉ chẳng sờn lòng hỏi vặn lại:
- Lẽ ngài là Cừu Thiên Nhận? Tôi chỉ ngại có kẻ dám đội lốt hùm lắm.
Cừu Thiên Xích nghe nói chột dạ nghĩ: "Thằng già này có thể đoán ra được sự giả mạo của mình chăng?". Tuy vậy, nhưng bà chỉ cười lạt không nói gì để dò xét thêm thái độ của Công Tôn Chỉ.
Dương Qua thừa lúc hai ông bà cãi nhau, và mọi người chăm chú nhìn vào Cừu Thiên Xích, vội vàng chạy lại gần Tiểu Long Nữ, tay mặt đưa thuốc, tai trái vạch tấm lụa đỏ che mặt cô dâu nói nhỏ:
- Việc chi cô nương phải che mặt như thế?
Tiểu Long Nữ nhận ra chàng, vừa mừng vừa sợ vội hỏi:
- Cậu vẫn mạnh giỏi đấy chứ?
Tiễu Long Nữ biết rõ lòng dạ Công Tôn Chỉ ác độc vô cùng. Nếu nàng cự tuyệt nhất định lão sẽ giết Dương Qua ngay. Hôm nay bỗng nhiên thấy chàng tới đây, thì đinh ninh rằng Công Tôn Chỉ đã giứ đúng lời hứa, giải độc cho Dương Qua và tha chàng tìm tới gặp mình.
Dương Qua đưa thuốc kề miệng nàng giục:
- Cô nương hãy uống liền lẹ lên đi.
Tiểu Long Nữ không hiểu chi hết, nhưng nghe chàng giục gấp cũng nuốt ngay. Thuốc vừa chạy qua khỏi cổ, nàng thấy toàn thân mát rượi, tinh thần sảng khoái vô cùng.
Lục Ngạc thấy vậy vội gọi chàng hỏi lớn:
- Dương huynh, sao anh đưa cả cho Long cô nương mà không uống viên nào hết?
Tiểu Long nữ nghe nói hiểu ngay vội hỏi gặng lại:
- Cậu chưa uống thuốc giải độc sao?
Trong cảnh rối loạn này, Công Tôn Chỉ thấy Dương Qua lại tới phá rối, muốn tìm cách can ngăn, nhưng ngặt có người khách lạ kỳ quái này nữa nên chưa dám động thủ ra sao.
Dương Qua giật chiếc mũ thêu phượng trên đầu Tiểu Long Nữ xé nhỏ ném xuống đất, kéo nàng và nói khẽ:
- Để lát nữa cô nương xem. Hôm nay lão động chủ sẽ bị điên đầu với câu chuyện sắp xảy ra.
Lòng Tiểu Long Nữ rối beng, không biết nói gì hơn, chỉ đứng tựa bên chàng thổn thức. Mã Quang Tổ thấy Dương Qua bất ngờ lại xuất hiện, bèn chạy lại lớn tiếng hỏi thăm. Doãn Khắc Tây xưa nay vốn nghe oai danh Cừu Thiên Nhận và có lòng ngưỡng mộ từ lâu. Hôm nay tình cờ được gặp, lão mừng rỡ muốn tìm cách làm quen giao hảo, nên lễ phép chắp tay vái dài một cái thưa lớn:
- Hôm nay là ngay vui mừng nhất đời của Công Tôn động chủ, xiu Cừu lão tiền bối hãy cùng chúng tôi uống cốc rượu mừng.
Cừu Thiên Xích trỏ vào Công Tôn Chỉ hỏi:
- Ông có biết hắn có liên hệ gì với tôi không?
Doãn Khắc Tây đáp:
- Quả tình tôi không được biết.
Cừu Thiên Xích nói:
- Vậy ông cứ hỏi y tự khắc biết ngay.
Công Tôn Chỉ bực mình quá hỏi lại:
- Có phải ngài là Thiết chưởng thủy thượng phiêu thật không? Miệng hỏi ông vỗ tay và hướng về phía bọn đệ tử nói:
- Chúng bay vào phòng ở bàn phía đông mang cái hộp đem ra đây.
Lục Ngạc lúc nào tinh thần cũng dao động chẳng nói năng gì hết. Nàng thẫn thờ đứng một bên rồi kéo mẹ cùng ngồi xuống ghế.
Công Tôn Chỉ nhìn Lục Ngạc và Dương Qua lạ lùng tự hỏi:
- Hai đứa này đã sa xuống hầm cá sấu, nhưng tại sao còn sóng sót về đây? Ai cứu chúng thoát chết? Cũng lạ thiệt!
Ngay lúc ấy, bọn đệ tử áo xanh mang ra một cái hộp trình lên. Công Tôn Chỉ tiếp lấy rồi mở ra, rút một phong thư lạnh lùng nói:
- Trước đây vài năm tôi có nhận thư của Cừu Thiên Nhận gởi. Nếu ngài là Cừu Thiên Nhận thiệt, thì chẳng lẽ lá thư này là giả hay sao?
Nghe nói bà Cừu Thiên Xích bỡ ngỡ và ngạc nhiên quá, nghĩ bụng:
- Lâu quá không có tin tức gì về anh ta, chẳng hiểu tại sao lại gửi thư cho lăo mọi này? Không biết trong thư nói gì đây, rắc rối nhỉ.
Suy nghĩ một khắc bà bỗng nghiêm giọng mắng lớn:
- Ngươi chớ đặt điều nói láo. Ta chưa bao giờ có gửi thư hết.
Vừa nghe giọng nói sau, Công Tôn Chỉ bỗng nhớ lại giọng nói của một người và cảm thấy rùng mình, lạnh cả xương sống. Ông lẩm bẩm:
- Không lẽ là mụ được? Ta đã cắt hết gân, bỏ vào hang kia, bây giờ có lẽ cũng đã mục xương rồi. Nhưng tại sao tiếng nói giống quá như vậy? Nếu không phải thì là ai đây?
Tuy phân vân như vậy nhưng ông không biết giải quyết ra sao, đành lấy thư ra đọc: "Anh tin cho hai em Chỉ và Xích được rõ: Từ ngày đại ca bị chết dưới tay Quách Tỉnh trên núi Thiết Chưởng, do vợ y là Hoàng Dung giúp sức thì..."
Vì tình cốt nhục bị xúc động quá mãnh liệt nên khi nghe đọc tới đây Cừu Thiên Xích không suy nghĩ gì hết, quát lớn:
- Vô lý tại sao dám bảo đại ca ta bị giết? Vô lý!
Ngay từ khi còn thơ ấu, Cừu Thiên Xích và Cừu Thiêu Lý hợp tính tình nhau và thương yêu thắm thiết, cho nên khi nghe tin Lý chết, bà đau đớn như xé ruột banh gan quát lớn câu trên. Nhưng vì thiếu bình tĩnh, đã để lộ ra tiếng đàn bà rõ rệt.
Công Tôn Chỉ vốn con người lanh lợi man trá, khi nghe tiếng nói đàn bà thì đoán ngay nhất định kẻ này không phải là Cừu Thiên Nhận". Tuy nhiên lão vẫn tiếp tục đọc hết bức thư: "Thằng anh này rất ăn năn và xấu hổ đối với hai em về hành động của hai mươi năm trước, do sự cố chấp khiến cho huynh đệ bất hòa, tan rã tình cốt nhục. Trăm điều tội lỗi cũng tại nơi anh mà ra cả. Lắm đêm trằn trọc không ngủ được, anh thiết nghĩ đối với anh Cả, anh làm không tròn nghĩa vụ đứa em, đối với em gái anh cũng không xứng là người anh nữa. Kỳ luận kiếm Hoa sơn lần thứ hai, anh may mắn được Nhất Đăng đại sư giác ngộ, bỏ hết gươm đao, quy y tam bào. Tục duyên chưa cắt đứt, hiềm vì thời gian nương mình dưới bóng từ bi chưa bao lâu, anh tự thấy mình vẫn chưa trút hết những tham vọng vô lý của trần ai. Lắm khi thả hồn theo tiếng chuông câu kệ, anh chợt nhớ lại người anh hiền và đứa em thảo, cũng chỉ có cách gửi tình thương nỗi nhớ theo gió trăng và dĩ vãng. Anh chỉ biết cầu mong cho anh cả chóng siêu thăng miền cực lạc và em gái của anh sẽ hưởng muôn điều
hạnh phúc trong cõi trần ai".
Lắng nghe đọc thư, Cừu Thiên Xích thương anh quá không cầm được giọt lệ, và khi đọc xong bức thư, bà không còn dằn tâm được kêu lớn:
- Đại ca ơi, anh chết rồi sao? Nhị ca ơi, anh có hiểu cho em của anh bị bao điều cơ cực như thế này không?
Nói xong bà gỡ chiếc mặt nạ xuống hỏi lớn:
- Công Tôn Chỉ, mi có nhận ra ta chăng?
Câu hỏi của bà làm rung động không khí như trận cuồng phong khiến bảy tám cây đèn trong phòng phải lung linh rồi tắt ngấm. Còn mấy cây tuy còn cháy nhưng không đủ ánh sáng rọi rõ trong nhà. Trong cảnh nửa tối nửa sáng, mọi người nhìn lại kẻ này là một bà lão. Ai ai cũng đều ngơ ngác lạ lùng, vì thật ra không một ai biết bà lão ấy là ai hết. Có nghi ngờ không biết đó là người hay là ma quỷ?
Bỗng trong đám người hầu, có một lão bộc nhảy xổ tới trước mặt bà la lớn:
- Trời ơi lão mẫu. Chủ mẫu ơi, người còn sống đến nay hay sao?
Cừu Thiên Xích gật đầu đáp:
- Phải, ta đây. Té ra Trương Nhị Thúc cũng còn nhận ra được ta hay sao?
Lão bộc vốn người thẳng cương trực, thấy chủ mình còn sống mừng rỡ quá mức, chắp tay bái lia lịa rồi nói:
- Ơn trời phật phù trì lão chủ vẫn còn sống thật là điều quý hóa.
Công Tôn Chỉ lớn tiếng bảo:
- Mọi người hãy tránh ra cho ta xem lại.
Ai nấy đều ngạc nhiên nhìn lại thì thấy ông ta đưa tay chỉ vào mặt Cừu Thiên Xích hét lớn:
- Nữ tặc, mi ở đâu về đây? Ngày nay mi còn mặt mũi nào về nhìn lại mặt ta nữa?
Lục Ngạc thấy cha thịnh nộ, rón rén lại gần quỳ xuống ôm chân cha năn nỉ:
- Con xin cha tha lỗi cho mẹ con.
Công Tôn Chỉ trợn mắt thét lên một tiếng vang trời:
- Khốn kiếp, hãy cút đi.
Rồi bất thình lình, lão tung ra một ngọn cước như trời giáng, bắn tung cả thân hình ngà ngọc mảnh mai của Công Tôn Lục Ngạc bay lộn lên không và bay vút vào giữa mặt Cừu Thiên Xích.
Bị cắt đứt gân cốt, tê liệt trên mười năm trời, Cừu Thiên Xích còn hơi sức đâu chống đỡ nổi, đành hứng lấy ngọn đòn ác nghiệt rồi bật ngửa ra sau đập mặt vào tường, huyết lưu mãn địa.
Thấy cảnh thương tâm diễn ra trước mắt quá ư tàn nhẫn, Dương Qua không chịu được nữa. Chàng định ra tay can thiệp. Nhưng Tiểu Long Nữ đã rút tay mình ra khỏi tay chàng, lao vút một cái như một bóng mờ đáp tới cạnh Cừu Thiên Xích, đưa ngón tay trắng muốt như ngọc điểm nhẹ trên huyệt "ngọc chẩm" sau ót bà để cầm máu lại.
Dương Qua cũng nhảy theo, xé vạt áo ra băng bó vết thương cho bà Cừu Thiên Xích.
Thấy hai người lại xoắn xít lấy nhau, cơn ghen nổi dậy đùng đùng, định quát mắng, thì Tiểu Long Nữ đã quay lại trừng mắt nhìn ông hỏi lớn:
- Công Tôn Chỉ, bà này là vợ chính của mi mà mi nỡ đang tâm tàn nhẫn với người ta như vậy sao? Mi đã có vợ tại sao còn cưới ta nữa? Nếu ngày nay ta ưng mi thì mai hậu cũng sẽ bị mi đối xử tàn ác như thế mà thôi.
Tiêu Tương Tử ngồi tận trên hàng cao nhất, nghe nói gõ nhẹ cái thìa xuống mặt bàn tán thưởng:
- Nàng nói nghe chí lý quá!
Bị bêu xấu quá, Công Tôn Chỉ tím mặt không biết đáp ra sao. Lão thối lui vài bước. Lật phắt chiếc thảm nhung trải giữa nhà rút cặp "âm dương song đao" rồi hét lớn:
- Ta nhất định liều chết cùng bọn bay phen này.
Tiểu Long Nữ cười nhạt một tiếng rồi thò tay vào chiếc áo thêu phụng của cô dâu, rút ra một thanh kiếm đen như huyền.
Toàn thể quan khách sửng sốt thấy cả chú rể và cô dâu thảy đều có dự bị sẵn khí giới ngay trong buổi lễ hợp cẩn. Quả thật là một chuyện thế gian hi hữu. âu cũng là một chuyện ngang trái của tình đời.
Dương Qua thấy vậy reo lên mừng rỡ. Chàng mừng không phải vì gặp cặp kiếm quý mà vì được thấy cô nương quyết tâm đánh với lão già ác ôn để cứu mình.
Chàng kính cẩn tiếp lấy thanh "quân tử" kiếm từ trong tay mỹ nhân trao sang, lùi lại hai bước chuẩn bị trận thế "Song kiếm liên hoàn" để đối địch. Vì đã từng nếm qua những đường kiếm tinh diệu của kiếm pháp này nên ngay sau khi vào trận, Công Tôn Chỉ đã áp dụng ngay những thế võ hết sức hiểm độc, xưa nay chưa từng thấy để áp đảo cấp tốc đối phương trong thời gian ngắn. Quả đúng theo điều lão tiên liệu, ngay trong mấy hiệp đầu lão đã dồn ép cả Dương Qua và Tiểu Long Nữ trong thế bị động, đường kiếm lúng túng không thi thố được gì hết và đã lâm vào thế hạ phong rõ rệt. Dần dần hai người phải đấu lưng vào nhau và đứng lùi vào một góc phòng.
Trong khi hàng trăm quan khách đang mải mê theo dõi trận đấu, thình lình có một tiếng rít lên như lụa xé. Tiểu Long Nữ phi thân lao vút ra trận chiến như làn điện xẹt. Chiếc áo cô dâu đang mặc đã rách toạc một đường dài và máu tươi phun dầm dề trên vai tả.
Thấy người yêu bị thương không chiến đấu được nữa, Dương Qua đau lòng như dao cắt, chàng thét lên môt tiếng thanh thoát rồi thay đổi kiếm pháp quyết tử chiến cùng Công Tôn Chỉ.
Phía đầu phòng, Lục Ngạc dần dần tỉnh dậy. Nàng lết lại kéo một chiếc ghế cho mẹ ngồi rồi xé áo băng cho Tiểu Long Nữ. Lúc ấy Dương Qua đã bỏ hẳn kiếm pháp của Toàn Chân phái, sử dụng Ngọc nữ tâm kinh quyết chiến.
Công Tôn Chỉ thấy những đường kiếm của Dương Qua hoàn toàn đổi hẳn, mới trong mấy phút mà hình như có hai ngươi khác nhau. Nhiều thế kiếm vừa tinh kỳ vừa bóng bẩy lả lướt nhưng tựu trung có một sức mạnh phi thường, ông cũng phải thầm khen bản lãnh chàng quả đáng nể. Nhưng chỉ trong vòng mươi hiệp, Dương Qua đã dần dần núng thế, mắt nổ đom đóm, mồ hôi ra như tắm, tay chân đã bắt đầu luống cuống.
Trong lúc mười phần nguy biến, bỗng nhiên Cừu Thiên Xích nhắc lớn:
- Đao không phải đao, kiếm chẳng phải kiếm!
Câu nói ấy không khác nào một lằn chớp nhoáng đang rọi sáng trong đầu óc Dương Qua đang tối đen và bối rối. Như người vừa chợt tỉnh cơn mê, chàng đã nhận thấy võ thuật của Công Tôn Chỉ là một lối võ hư hư thực thực, tráo trở vô cùng, chỉ chuyên môn làm rối trí đối phương. Ngọn đao nặng nề của ông chỉ sử dụng toàn những ngón nhẹ nhàng lả lướt, quả là những đường gươm tuyệt diệu. Nhưng trái lại thanh kiếm mỏng manh nhẹ nhàng của ông lại luôn luôn chém ngang chặt dọc, toàn là những thế hùng mạnh và cứng nặng của môn đại đao.
Nhờ nhận thức được bí quyết này mà Dương Qua đã tránh né được dễ dàng hai thế tuyệt kỹ của Công Tôn Chỉ. Lòng hân hoan mừng rỡ, Dương Qua cảm thấy tinh thần càng phấn khởi, bắt đầu mở cuộc tấn công. Trong khi ấy bỗng tiếng quát của Cừu Thiên Xích lại nổi lên the thé:
- Tấn công đùi bên tả, mau lên, tấn công ngay tức khắc.
Dương Qua như một cái máy tuân theo lệnh của tài xế, vội hoành thân qua một bên tấn công ngay vào đùi bên trái. Tức thì Công Tôn Chỉ hạ ngang thanh đao xuống chận đòn. Trong khi ấy vai bên trái của ông ló ra vô cùng trống trải. Không chờ Cừu Thiên Xích mách nữa, Dương Qua lập tức quay ngược thanh quân tử kiếm đâm thốc từ dưới lên trên, đâm ngay bả vai, nhưng Công Tôn Chỉ đã lanh chân trốn thoát được. Tuy vậy nhưng mũi kiếm đã rạch thẳng một đường ngay trên chiếc áo rộng xanh của chàng rể. Công Tôn Chỉ nổi nóng, chửi đổng mấy câu rồi trừng mắt nhìn thẳng vào mặt Cừu Thiên Xích hình như muốn ăn gan uống máu bà mới đã. Lão hậm hực nghiến răng rít lớn:
- Con mọi già, mi hãy xem ta phen nầy. Ta không thể nào để mi sống sót nữa.
Nói xong hắn vũ lộng hai môn vũ khí tấn công Dương Qua tới tấp. Dương Qua vừa chống đỡ thêm một hiệp thì Cừu Thiên Xích lại quát to:
- Đá móc vào hậu tâm lập tức. Đá mau.
Trong khi đấu cùng một tay cao thủ tài nghệ cao hơn mình mà bảo đá vào hậu tâm thì quả là một điều mạo hiểm quá đáng. Nhưng vì Dương Qua quá tin tưởng vào bà Cừu Thiên Xích, nên khi vừa nghe xong đã áp dụng ngay thuật khinh công lòn ra sau, đá móc vào ngay hậu tâm Công Tôn Chỉ nghe vút một cái. Công Tôn Chỉ hoảng hốt vội lật lưỡi kim đao đâm ngược ra sau để bảo vệ hậu tâm, nhưng trái lại để trống phía trước mặt. Đã thất bại chuyến trước, lần nầy Dương Qua rút kinh nghiệm thận trọng hơn quay vòng mũi gươm lại thích mạnh vào ngay chỗ hở. Lần này Công Tôn Chỉ hết phương tránh né, đành nhận lấy một đòn vô cùng hiểm ác. Lưỡi gươm của Dương Qua đâm thủng qua hai lần áo, ghìm luôn vào bả vai, máu tuôn xối xả. Toàn thể cử tọa đều ngạc nhiên, cùng "ồ" lên một tiếng rất to, rồi đều đứng dậy một lúc, hình như quá ngạc nhiên về cái thảm hại của Công Tôn Chỉ.
Công Tôn Chỉ mặt mày biến sắc, mồ hôi xuất dầm dề, phải bước lùi ra sau trên năm bước, giữ vững tinh thần rồi mới tiếp đấu lại được. Lúc bấy giờ cả đôi bên đã thấm mệt, tiến thoái qua lại không còn lanh lẹ như trước nữa, cuộc tranh tài cũng gần tới giờ kết liễu. Hễ bên nào sơ hở trên đường tơ kẽ tóc sẽ nếm mùi thất bại ngay.
Nàng Lục Ngạc lo sợ quá ghé vào tai mẹ nói nhỏ:
- Mẹ ơi, nên bảo họ dừng tay lại cho rồi.
Cừu Thiên Xích hử một tiếng rồi bảo lớn:
- Hãy rót cho ta hai cốc nước, mau lên.
Lục Ngạc tuy chưa biết mục đích để làm gì nhưng trong lúc tinh thần căng thẳng vội vàng tuân lệnh ngay. Nàng chạy ra ngoài rót hai cốc nước đầy mang vào.
Cừu Thiên Xích lặng lẽ tháo chiếc băng quấn đầu, vết thương lại ứa máu tuôn ra từng giọt.
Lục Ngạc thất sắc vội gọi lớn:
- Mẹ, tại sao thế?
Nhưng Cừu Thiên Xích trợn mắt bảo:
- Hãy nín im, đừng nói gì hết.
Mặc Lục Ngạc há hốc mồm nhìn theo, mặt đầy kinh ngạc, bà lẳng lặng vắt chiếc băng máu nhỏ mấy giọt vào hai cốc nước rồi gọi lớn:
- Thôi cả hai đều có vẻ mỏi mệt lắm rồi. Xin hãy dừng tay tạm nghỉ và uống chén trà giải lao.
Nói xong bà nhìn Công Tôn Lục Ngạc bảo như ra lệnh:
- Hãy bưng trao cho hai người mỗi người một cốc trà để giải khát, mau lên.
Sau trận kịch chiến của hai đấu thủ đã mệt mỏi thở dốc, mồ hôi ướt đẫm mình, miệng khô cổ rát, khát nước quá sức. Khi nghe nói được giải khát ai ai cũng lộ vẻ vui mừng và chờ đợi.
Công Tôn Lục Ngạc bưng hai cốc trà vào giữa sảnh đường cung kính dâng lên. Công Tôn Chỉ ái ngại nhìn hai cốc trà, bụng nghĩ thầm:
- Phải xem chừng, có pha thuốc độc vào đấy rồi cũng nên.
Suy nghĩ xong, lão đưa mũi gươm khoát mấy cái rồi trỏ vào Dương Qua nói:
- Hãy mang lại cho hắn uống trước.
Dương Qua thản nhiên tiếp lấy cốc trà sắp đưa lên miệng. Công Tôn Chỉ bỗng quát lớn:
- Hãy khoan. Để lại cốc này cho ta.
Nói vừa dứt lời, y đưa tay cướp lấy cốc trà trên tay Dương Qua, sẽ liếc qua nhìn mặt Lục Ngạc thấy vẫn điềm nhiên tươi tỉnh không lộ nét nào đáng nghi ngại thì lão bưng cốc trà uống luôn một hơi cạn ráo rồi ném cái cốc không lại giữa sảnh đường thét lớn:
- Thôi, hãy đấu lại lập tức khỏi cần phải nghỉ ngơi nữa.
Nói xong tay vung binh khí, hùng hổ tấn công ngay. Nhưng Cừu Thiên Xích đã cười một tràng dài rùng rợn và thét lớn:
- Này Dương Qua cháu, phép vận công bế huyệt của lão này ta đã phá mất rồi, vậy cháu cứ tấn công vào các yếu huyệt hắn cho rồi đời.
Nghe câu nói ấy, Công Tôn Chỉ có cảm giác như tiếng sét đánh lưng trời, rồi một mùi máu tanh bỗng xông lên trong miệng, đầu lưỡi nghe tê tái, cổ họng muốn lợm mửa. Lão kinh hoàng muốn đổ mồ hôi hột, vì theo phép bế huyệt của lão thì tuyệt đối kỵ máu tươi, nếu lỡ nếm một giọt máu nhất định bao nhiêu công phu thảy tan theo mây khói hết. Cũng vì vậy mà xưa nay lão ra nghiêm lệnh cho toàn thể những người trong động Thủy Tiên phải ăn chay trường tất cả. Mặc dù đã phòng bị như vậy, nhưng không ngờ hôm nay chỉ sơ hở một chốc mà công phu khổ luyện trong mấy chục năm trường đã trôi theo dòng nước hết. Nhưng cơn giận vừa thoáng qua, xem thêm những cảm giác cả lo lắng và mến tiếc, tiếc bao công phu của mình cũng như tiếc vì kẻ hỏi mình lại là Cừu Thiên Xích. Lửa giận bốc lên ngùn ngụt, Công Tôn Chỉ liếc mắt thấy Cừu Thiên Xích đang nằm ngửa trên một cái ghế bành, tay bưng một đĩa lệ chi nhai ngấu nghiến có vẻ ngon lành lắm.
Bà thản nhiên nói:
- Ta đã truyền cho mi phép "vận công bế huyện" này, thì ngày nay chính ta phá hủy công phu ấy của mi, kể ra cũng không có gì là lạ và đáng tức cả.
Công Tôn Chỉ tức quá lịm người, đôi mắt đỏ ngầu và long lên sòng sọc nhìn thẳng vào Cừu Thiên Xích như muốn nhảy xổ lại ăn tươi nuốt sống bà ta mới hả dạ.
Lão hét lên một tiếng thật lớn, phi thân lao vút về phía ấy, quyết sống chết một lần cùng Cừu Thiên Xích.
Lục Ngạc hoảng hốt, vội vàng nhảy xổ ra chận giữa hai người để tìm cách can gián. Nhưng chân nàng chưa chạm đất đã nghe tiếng ám khí bay vút xé không khí qua cạnh tai, và tiếp theo đó là tiếng thét hãi hùng của Công Tôn Chỉ. Nàng định nhỡn nhìn lại thấy cha mình tay chân xuội lơ, buông rơi hai món vũ khí đánh choang xuống đất rồi bụm mặt chạy dài ra cửa trước. âm thanh thét dội qua các vách núi trong động Thủy Tiên chưa dứt, thì bóng của Công Tôn Chỉ đã khuất dạng sau bức màn đêm âm u của rừng thẳm.
Thấy Công Tôn Chỉ chạy đi rồi, Dương Qua bỗng sực nhớ lại một chuyện. Chàng thò tay vào túi lấy ra một viên thuốc, bảo nhỏ Tiểu Long Nữ:
- Cô nương hãy há miệng ra.
Lời nói của chàng có một ma lực rất mạnh khiến cho mỹ nhân riu ríu nghe theo. Nàng mỉm cười, từ từ hé hai làn môi thắm như hoa hồng, Dương Qua khẽ đặt viên thuốc giữa hai hàm răng trắng trong như ngọc và dịu dàng bảo:
- Nuốt đi!
Tiểu Long Nữ cũng ngoan ngoãn nghe theo và nuốt liền. Viên thuốc vừa qua cổ họng, bỗng có một mùi thơm nhè nhẹ như xạ hương xông lên tận mũi, và trong châu thân có một cảm giác mới mẻ chạy khắp nơi, khí huyết luân chuyển mạnh, và cân não trở lên khoan khoái sáng suốt vô cùng.Tiểu Long Nữ vừa mừng vừa ngạc nhiên đắm đuối nhìn chàng hỏi nhỏ:
- Thuốc gì lạ vậy?
Dương Qua đáp:
- Tuyệt tình đan đấy.
Chàng vừa nói dứt lời bỗng Lục Ngạc hoảng hốt hỏi lại:
- Trời, anh đưa hết cho nàng, chứ không chịu uống, thì làm sao giải độc cho anh được hở Dương huynh?
Tiểu Long Nữ nghe qua bao nhiêu đó đã hiểu ngay là Dương Qua đành cam tâm hy sinh phần mình để dành viên thuốc duy nhất giải độc Tình hoa cho mình. Nàng cảm động quá, không biết nói gì hơn, chỉ nhìn chàng sửng sốt rồi hai tay siết chặt lấy tay chàng, trong lòng vừa sung sướng vừa đau khổ. Nàng sung sướng vì thấy người mình yêu đã hy sinh tuyệt đối, không kể mạng sống để cứu mệnh. Nàng buồn là vì hiện nay không còn một phương thuốc nào khả dĩ trục hết nọc độc và một ngày gần đây chàng sẽ thảm tử bỏ cõi đời.
Hai người cứ lẳng lặng bước ra, tay trong tay, đầu óc bâng khuâng không định hướng. Nhưng khi Dương Qua vừa bước chân ra khỏi ngạch cửa, bà Cừu Thiên Xích đã quát lớn:
- Dương Qua, cháu đi đâu vậy?
Dương Qua từ từ quay lại, chắp tay xá bà một xá thật dài, miệng lễ phép thưa:
- Thưa lão bà và cô nương, xin cho phép cháu được đi khỏi chốn này.
Bà Cừu Thiên Xích quát lớn:
- ủa, ta đã hứa gả con gái ta cho mi rồi, sao mi chưa gọi ta là nhạc mẫu mà giờ nầy lại còn định bỏ đi đâu nữa?
Dương Qua cười thầm và nghĩ bụng:
- Bà hứa gả con cho ta, nhưng ta đã nhận lời đâu mà vội chất vấn như vậy. Bà nầy ngang thật.
Nghĩ xong, tay trái chàng cầm tay Tiểu Long Nữ, tay phải để nơi chuôi thanh "Quân tử kiếm" nghiêng mình thưa rằng:
- Thưa lão bà, cháu luôn luôn ghi nhận lòng hảo tâm của lão bà đối với cháu. Nhưng tiếc rằng tim cháu đã trót gởi cho cô nương Tiểu Long Nữ từ lâu, kính xin lão bà và cô nương thứ lỗi cho.
Lục Ngạc lòng đau như kim châm, nhưng nàng cố gắng thưa với mẹ:
- Mẹ ơi, Dương huynh và Long cô nương đã hứa hôn cùng nhau từ trước rồi, xin mẹ đừng bận tâm nữa. Ngày mai mẹ con mình sẽ lên đường đi tìm cậu của con nhé. Mẹ tính sao?
Vừa nghe con gái nhắc tới mấy chữ "đi tìm cậu con" bà Cừu Thiên Xích thấy cõi lòng quặn thắt vì tình cốt nhục phân ly. Cứ theo trong thư thì Cừu Thiên Lý đã bị vợ chồng Quách Tỉnh sát hại rồi. Bà đối với anh cả có nhiều cảm tình tha thiết hơn anh hai. Nên đối với Quách Tỉnh bà đã thấy có một mối thù không đội trời chung cần phải thanh toán. Bỗng bà nghĩ ra một kế nên cười gằn nói:
- Dương Qua, cháu có biết cháu sắp từ giã cõi đời chăng?
Nghe nói, Dương Qua sực nhớ lại mình đã bị chất độc của tình hoa xâm nhập vào cơ thể quá nhiều, chỉ trong vòng ba mươi sáu hôm phải chết nếu không được uống Tuyệt tình đan. Chàng chán nản buồn rầu, không biết nói sao chỉ thở dài và siết chặt bàn tay mềm mại của Tiểu Long Nữ hình như sợ nàng sẽ biến mất đời đời. Nhưng bà Cừu Thiên Xích đã thò tay vào túi lấy ra một viên thuốc vuông màu đen lấp lánh đưa lên cao. Dương Qua vừa trông thấy mừng quá rú lên:
- ủa, lão bà cũng còn tuyệt tình đan sao?
Cừu Thiên Xích cười hà hà đáp:
- Còn chứ, nhưng chỉ còn một viên duy nhất này mà thôi, Dương Qua, ta nhận cho cháu viên này để cứu mạng cháu nhưng trái lại cháu phải giúp tạ thực hiện được một điều...
Không khác gì người chết đuối vớ phải bè chuối, Dương Qua vội hỏi:
- Lão bà cần việc gì, xin cứ nói ra xem?
Cừu Thiên Xích nhìn thằng vào mặt chàng nói:
- Ta cần thủ cấp hai người.
Dương Qua bàng hoàng nhìn Tiểu Long Nữ không hiểu gì hết. Trong khi ấy bà Cừu Thiên Xích nói tiếp:
- Ta không hiểu nhà ngươi có liên hệ gì tới hai người ấy hay không, nhưng ta nhất định phải thanh toán tánh mạng họ để trả thù, vì họ đã nhẫn tâm giết hại anh cả của ta.
Để khích động sự thèm muốn của Dương Qua, bà mân mê viên thuốc dồi lên dồi xuống trong bàn tay rồi nói tiếp:
- Cháu có biết hai người ấy không? Họ chính là Quách Tỉnh và vợ là Hoàng Dung đó.
Dương Qua mừng rỡ nói lớn:
- ồ thế thì hay lắm. Việc này sẽ nhất cử lưỡng tiện, vì đối với họ, cháu cũng có một mối thù lớn. Họ đã sát hại cả cha và mẹ cháu.
Cừu Thiên Xích tươi hẳn nét mặt, đưa ngay viên thuốc cho Dương Qua. Chàng tiếp lấy xem lại thì thấy chỉ có nửa viên thôi. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc, chàng mỉm cười hỏi bà với một giọng lạnh lùng chua chát:
- Phải có đủ thủ cấp của hai người mới đổi được nửa viên thuốn kia phải không?
Bà Cừu Thiên Xích cười lớn gật đầu nói:
- Đúng lắm, hay lắm cháu quả thông minh tuyệt vời, đoán trúng ý muốn của ta.
Dương Qua ngẫm nghĩ:
- Việc tới đâu hay tới đó, bây giờ ta cứ uống nửa viên này, rồi hạ hồi phân giải.
Nghĩ xong, chàng bỏ luôn nửa viên thuốc vào miệng nuốt luôn.
Bà Cừu Thiêu Xích nhìn chàng thong thả nói từng tiếng một, với một giọng nói thật trịnh trọng:
- Đây là viên thuốc giải độc tình hoa duy nhất còn sót lại trên thế gian này. Cháu đã uống được một nửa rồi. Còn một nửa ta cất kỹ nơi đây. Sau mười tám hôm, cháu cố gắng mang hai cái thủ cấp kia lại đây để đổi, nếu không có thì không thể nào nhận được thuốc đâu nhé. Bây giờ chúng ta tạm biệt nhau, mười tám hôm nữa sẽ gặp lại nhé.
Nói vừa dứt lời bà ngồi dựa người trên chiếc ghế bành hai mắt nhắm nghiền như nhập định.
Tiểu Long Nữ lạ lùng quá lẩm bẩm:
- Tại sao lại chỉ có mười tám hôm thôi?
Cừu Thiên Xích vẫn nhắm mắt nhưng miệng đáp:
- Theo lẽ thì phải ba mươi sáu ngày nọc độc mới phát. Nhưng vì Dương Qua đã uống hết nửa viên, cho nên bao nhiêu chất độc đều tụ hết về đan điền, thời gian cũng được rút ngắn lại phân nửa. Sau mười tám ngày phải
uống tiếp thêm nửa viên khác để trừ nọc, nếu không thì nọc độc sẽ phát lên công phạt, chừng ấy thì...
Nói tới đây bà ngừng bặt rồi đưa tay ra dấu tống khách. Cả hai thấy vậy biết rằng dù có nói nhiều cũng vô ích nên lặng lẽ đi ra luôn. Dương Qua tóm lại con ngưa ốm của mình, rồi cả hai cùng lên yên theo đường lớn ra khỏi động Thủy Tiên.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 053
Quyết Lấy Đầu Quách Tỉnh
Khi hai người cưỡi ngựa ra khỏi thung lũng thì trời vừa hửng sáng, ánh hồng đã le lói phương đông, chim rừng ríu rít bay từng đoàn và trên đường cỏ hãy còn đẫm sương mai ướt át. Quay đầu nhìn lại phía sau thấy quang cảnh lòng chảo của động Thủy Tiên tưng bừng đón nắng mai rực rỡ, Dương Qua bồi hồi nhớ lại nhứng giờ phút sống chết và nguy hiểm đã cùng người ngọc sống nơi đây suốt ba ngày qua, trong lòng thấy bàng hoàng cảm động.
Tiểu Long Nữ cảm thấy trong lòng ấm áp rộn rực, nàng áp người vào ngực Dương Qua cho hơi nóng chan hòa, không nói tiếng gì hết. Dương Qua, một tay cầm cương, một tay ôm ghì lấy tấm thân dịu dàng mảnh khảnh của người yêu, run run vì hồi hộp và sung sướng. Nhìn xuống, thấy nàng đang nhoẻn miệng cười tươi như đóa hoa hồng hé nở dưới nắng ban mai chàng khẽ gọi:
- Cô... Cô... nương!
Tiểu Long Nữ âu yếm nói:
- Thôi, từ nay khỏi gọi bằng cô nương nữa.
Dương Qua cảm thấy tâm hồn lâng lâng như muốn bay bổng lên mấy từng mây. Chàng lim dim đôi mắt như để tận hưởng giây phút say sưa bên cạnh người ngọc và thả hồn trôi về dĩ vãng, chàng lẩm bẩm:
- Trong đời tôi, những ngày rực rỡ nhất là thời gian cùng chung sống trong Cổ Mộ. Đó là những ngày đầm ấm nhất và nên thơ nhất, và cũng là những ngày đáng ghi nhớ nhất đã nuôi dưỡng và làm trưởng thành cả mối tình mãnh liệt và cao thượng nhất ngày nay. Hồi ấy tôi gọi bằng cô nương, thì về sau và mãi cho đến khi trút hơi thở cuối cùng tôi cũng thích được xưng hô bằng cô nương mà thôi. Cô nương... cô nương...
Luồng gió nhẹ thoảng qua, đem lại một mùi hương thơm của cây nội hoa ngàn, hòa lẫn với mùi thơm da thịt từ trong mình Tiều Long Nữ phát ra khiến cho chàng càng say sưa ngây ngất.
Đang đi nước kiệu, con ngựa bỗng vấp phải một viên đá nhủi tới gần té Dương Qua vội vàng ghìm cương đứng lại và nhìn xuống thấy đôi mắt nàng long lanh đẫm lệ. Chàng giật mình vội hỏi:
- ủa, tại sao cô nương lại khóc?
Nghe hỏi, Tiểu Long Nữ bỗng òa lên khóc lớn. Nàng khóc nức nở không nói được. Mãi một hồi lâu nàng rúc đầu vào vai chàng nói nhỏ:
- Chúng ta chỉ gần nhau được mười tám hôm nữa mà thôi.
Bao nhiêu câu đó đã diễn tả hết lòng nàng. Dương Qua chợt hiểu, cảm động, đưa tay đỡ nhẹ chiếc cằm thon thon, nhìn thẳng vào khuôn mặt sáng rực rỡ như ngọc và đôi mắt ướt, lóng lánh đen huyền như đôi mắt bồ câu, cương quyết nói:
- Dù thiên sơn, vạn hải, khổ nhọc tới đâu, tôi cũng quyết tâm lấy cho được hai chiếc thủ cấp của Quách Tỉnh và Hoàng Dung để đánh đổi chuỗi ngày hạnh phúc đời đời của hai ta. Cô nương đừng ngại và lo âu gì hết.
Nói xong chàng âu yếm đặt trên làn môi đỏ mọng một cái hôn đắm đuối.
Trong lúc cả hai đang chìm đắm trong những cảm giác mê ly nhất đời, bỗng đàng xa có tiếng cười ha hả và một giọng nói nổi lên rang rảng:
- Giữa ba quân thiên hạ mà các người cũng cứ tự do, không nể nang ai hết sao?
Dương Qua mắc cỡ đỏ bừng hai má, quay đầu nhìn lại thì không ai lạ, trước mặt đủ cả đoàn người của Kim Luân Pháp Vương, Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử. Lúc bấy giờ hai người mới chợt hiểu, bọn này cũng rời thung lũng Thủy Tiên bám sát theo mình từ lâu mà cả hai vô tình đâu có để ý? Vừa thẹn vừa bực trí, chàng muốn lên tiếng mắng lại, bỗng đâu đàng xa có tiếng vó câu dồn dập, hình như có một đoàn người ngựa rất đông đang tiến lại gần. Từ trong eo núi xông ra một đoàn nhân mã, đi đầu là một vị đại tướng oai phong lẫm liệt tướng mạo phi phàm, khôi giáp rực rỡ, trong tay cầm một cánh cung sắt thật lớn, rõ ràng là đương kim Thái tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt.
Thấy Thái Tử Hốt Tất Liệt bất ngờ xuất hiện, cả bọn vội vàng chạy lại gần, xuống ngựa phủ phục thi lễ.
Hốt Tất Liệt cười ha hả nói lớn:
- Quý vị đi đâu mà suốt ba hôm không về? Ta nóng ruột quá chờ không được, phải đi tìm xem sao, không ngờ may lại gặp đây. Hiện nay chiến cuộc tại thành Tương Dương quá ư khẩn thiết, tôi ngại không gặp lại các ngài cho nên trước khi đi có viết thư đề lại căn dặn, bây giờ gặp nhau càng hay.
Nói xong nhìn qua phía Tiểu Long nữ y nghĩ bụng: "Trên đời sao có mỹ nhân xinh đẹp quá như thế này, cả tam cung lục viện chưa chắc đã có người bì nổi".
Thấy nàng cùng Dương Qua nắm tay ra vẻ trìu mến thân mật lắm, Hốt Tất Liệt nhìn chàng hỏi:
- Nàng là ai vậy?
Dương Qua đáp:
- Đây là sư phụ dạy võ nghệ cho tôi, và cũng là hôn thê của tôi nữa đấy.
Hốt Tất Liệt cười nói:
- Hai người quả thật xứng đôi vừa lứa. Trên đời khó tìm được cặp trai gái nào xứng đôi như thế này.
Kim Luân bèn hỏi qua chuyện lớn:
- Bẩm Thái tử, quân đội ta tấn công thành Tương Dương có thu được kết quả nào hay không?
Hốt Tất Liệt nhăn mặt và rầu rầu đáp:
- Viên tướng thủ thành Tương Dương là Lữ Văn Hoán, tài nghệ đâu đáng ta lưu ý. Nhưng người đáng ngán nhất là Quách Tỉnh, và cũng chỉ có một mình Quách Tỉnh là người đáng sợ nhất cho chúng ta mà thôi.
Nghe nói tới tên Quách Tỉnh, Dương Qua cảm thấy bồi hồi trong lòng, tim đập đồm độp vội hỏi:
- Hiện nay Quách Tỉnh cũng có mặt tại thành Tương Dương hay sao? Hốt Tất Liệt điềm tĩnh trả lời:
- Xưa kia Quách Tỉnh là bạn chí thân của phụ vương ta, đã từng lập những chiến công rực rỡ trong quân đoàn bách thắng của đại quân Mông Cổ. Khi phụ vương ta băng hà có trối lại rằng: "tại miền Nam hiện nay vua tôi nhà Tống không có ai đáng kể, vì vua thì ham mê tửu sắc, thì gian nịnh, binh tướng ươn hèn. Nhưng nếu gặp Quách Tỉnh thì cần phải đề phòng cho lắm. Ngày nay, gặp được Quách Tỉnh rồi ta mới biết những lời di thác của phụ vương là chí lý. Suốt mấy tháng trời nay quân ta công phá thành Tương Dương biết mấy trăm lần, nhưng có Quách Tỉnh thủ thành nên cũng đành bó tay không làm chi được".
Dương Qua vùng đứng phắt dậy thưa rằng:
- Quách Tỉnh đối với tôi có mối đại thù giết cha, vì vậy nên tuy tôi bất tài cũng tình nguyện xin đến thành Tương Dương tìm cách lấy đầu hắn.
Hốt Tất Liệt mừng rỡ nói:
- Hay lắm, lâu nay ta chỉ trông mong có chừng ấy thôi. Nhưng Quách Tỉnh là một người thao lược và võ công song toàn một mình ngươi không làm chi xuể, việc cần phải tập trung nhiều lực lượng phù trợ nữa mới mong thành công được. Khi nào công việc xong ai ai tham gia cũng đều có công lớn cả. Nhưng người nào chính tay giết được Quách Tỉnh thì ta sẽ tâu cùng Hoàng thượng phong cho chức Mông Cổ đệ nhất dũng sĩ.
Đối với bọn Doãn Khắc Tây, Tiểu Tương Tử thì chữ Công Hầu Khanh nào có nghĩa lý gì đâu. Nhưng đối với họ, chức vị "Mông cổ đệ nhất dũng sĩ" mới là điều ước vọng cao quý nhất. Khi nghe Hốt Tất Liệt công bố điều kiện này thì ai nấy đều thấy phấn khởi và hớn hở vô cùng.
Nhưng Tiểu Long Nữ lại nghĩ khác. Nàng liếc mắt nhìn Dương Qua rồi nghĩ bụng: "Công Hầu Khanh Tướng mà chi, đệ nhất dũng sĩ mà làm gì? Ta chỉ cần được một mình Dương Qua, để cùng nhau chung sống mãn đời trong Cổ Mộ là hạnh phúc lắm rồi".
Hàng chục vệ sĩ đem chiến mã lại cho bọn Dương Qua, Kim Luân, Tiêu Tương Tử... lên đường. Toàn bọn nối gót Hốt Tất Liệt buông cương nhằm Tương Dương thành trực chỉ.
Đi suốt ba ngày đêm, bọn nguời đã đi gần tới địa phận thành Tương Dương. Nghe tin Hoàng Thái Tử đích thân chỉ huy cuộc tấn công thành này, tất cả các vị quan văn võ có mặt tại đây thẩy đều tập trung cùng nhau ra cách thành ba chục dặm nghênh đón. Khi Hốt Tất Liệt tới nơi, hơn hai chục vị quan Mông Cổ cùng xuống ngựa phủ phục bên đường. Hốt Tất Liệt gò cương đứng lại nhìn mọi người gằn giọng nói:
- Tại sao đã mấy tháng trời bao vây thành Tương Dương mà không hạ được? Các ngươi muốn đem chôn vùi thanh danh của Đại Mông Cổ nơi chốn này chăng?
Mọi người thất kinh cùng đập đầu xuống đất và đồng thanh thưa lớn:
- Muôn tâu Thái Tử, tội của chúng thần thật đáng muôn thác, xin Thái Tử rộng lòng khoan dung.
Hốt Tất Liệt không nói thêm lời nào, vung roi quất mạnh vào mông ngựa giục mau tới trước. Toàn thể các quan đều gục đầu nhìn xuống đất nín im thin thít chẳng dám nói một lời. Dương Qua thấy Hốt Tất Liệt đối với bọn Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử thật khoan hòa nhân ái, trái lại đối với các quan binh Mông Cồ thì hết sức nghiêm nghị đanh thép, trong lòng hết sức khâm phục, nghĩ rằng: "Người Mông Cồ quân hùng tướng mạnh, kỷ luật sắc bén minh minh, họ đã nhờ vào đó xua quân nam tiến thôn tính đất nước ta. Vua quan nhà Tống ươn hèn nhu nhược như thế thì làm sao chống cự cho lại. Giang san gấm vóc của Tống trào không sớm thì muộn cũng vào tay quân địch mà thôi".
Sáng tinh sương ngày sau, quân Mông Cổ đã cử toàn lực tấn công. Tiếng tù và rúc từng hồi một, tên bắn như mưa rào, ngựa hí vang rân, quân Mông Cổ thừa thế xông tới bên chân thành vác thang leo lên như kiến cỏ. Thình lình một tiếng pháo nổ vang, mõ đánh liên miên vang dội, từ trên đầu tường một đoàn quân cung nỏ thủ, dùng toàn cung cứng tên bén, cùng buông ra một lượt, chận đứng ngay cuộc tấn công ào ạt của địch quân. Tiếp theo đó từ trong thành xông ra một đoàn quân dùng toàn đoản đao đánh xáp lá cà với quân Mông Cổ. Trong đoàn quân ấy ai cũng thấy một vị tướng quân tạc độ trung niên, mình mặc áo dài màu nâu, trong tay không có vũ khí, chỉ múa hai quyền xông xáo, tung hoành trong rừng người, đi tới đâu quan tướng Mông Cổ nhào như rạ. Hốt Tất Liệt đang đứng lược trận phía xa xa trông thấy người ấy quá ư dũng mãnh thì bất giác thở dài than nhỏ:
- Thật bao nhiêu dũng sĩ trên thế gian nầy, chưa một người nào qua mặt được vị anh hùng này. Chẳng hay vị ấy là ai?
Dương Qua đứng cạnh nghe hỏi vội nói:
- Vương gia không biết nguời ấy là ai sao?
Hốt Tất Liệt sửng sốt một chặp và chợt nghĩ lại hỏi gấp:
- Người ấy có phải là... Quách Tỉnh chăng?
Dương Qua đáp:
- Thưa chính là Quách Tỉnh đấy.
Nói tới đây thì mấy trăm quân Mông Cổ đang leo lên thang đã bị đánh bật trở xuống hết, chỉ còn vẻn vẹn có ba viên Bách phu trưởng tay trái cầm khiên, tay phải cầm giáo dài dựa lưng vào vách thành tử chiến cùng binh Tống.
Viên vạn phu trưởng bèn rúc lên mấy hồi (mất 4 trang)
Tiểu nhân này tuy bất tài, nhưng xin phép Vương gia cho tới thành Tương Dương lấy được thủ cấp Quách Tỉnh mang về cho Vương gia.
Hốt Tất Liệt ngẫm nghĩ một chặp rồi nhìn Dương Qua ân cần nói:
- Quách Tỉnh là người dũng lược song toàn, người có đi, xin khá cẩn thận cho lắm mới được, chớ có xem thường mà nguy hiểm lắm đấy.
Dương Qua lãnh ý lui ra.
Chiều hôm ấy Dương Qua và Tiểu long Nữ giả dạng thường dân đến trước thành Tương Dương gọi lính trong thành nói lớn:
- Tôi là họ Dương tên Qua, có việc muốn đến xin ra mắt Quách Tỉnh đại hiệp, nhờ các ông vào trình lại.
Quân vào thông báo giây lâu mới thấy trên mặt thành hiện ra hai người thanh niên mặt mày tuấn tú, nhìn lại không ai khác hơn là hai anh em Võ tu Văn và Võ đôn Nho. Vừa trông thấy Dương Qua, Võ tu Văn mừng rỡ gọi lớn:
- Quả thật là anh Dương Qua đây rồi.
Đôn Nho cũng reo lớn:
- Kính mời chư vị vào thành.
Nói xong truyền lính bỏ cần treo, rước hai người vào thành.
Dương Qua và Tiểu long Nữ bước theo hai anh em họ Võ đến trước một ngôi dinh thự khá đồ sộ. Quách Tỉnh vừa trông thấy, mừng rỡ từ trong chạy ra niềm nở đón tiếp và bái Tiểu long Nữ một cái. Đoạn ông nắm tay Dương Qua thân mật nói:
- Hôm nay quân Mông Cổ công thành rất gắt, thời nay con và Cô nương tới đây thật là phải lúc vô cùng. Thật là một hồng phúc cho nước nhà mà cũng là một cái hên cho bá tánh thành này lắm lắm. Hai người có thể giúp cho chúng tôi một lực lượng mới.
Dương Qua và Tiểu long Nữ muốn vào trong xin ra mắt Hoàng Dung. Quách Tỉnh tươi cười gật đầu nhưng sau cản lại nói:
- Hiện nay bác gái của con đã tới gần ngày sanh đẻ nên không được mạnh lắm, để vài hôm sau sẽ gặp nhau không muộn gì.
Nói rồi truyền lệnh dọn tiệc đãi dằng cho hai người. Dương Qua và Tiểu long Nữ ăn tiệc xong đã quá canh ba, Quách Tỉnh bảo Quách Phù đưa Tiểu long Nữ vào phòng trong an nghỉ, còn mình thì nắm tay Dương Qua đưa vào nằm chung một giường. Dắt Dương Qua về giường, Quách Tỉnh luôn mồm ca ngợi Dương Qua đã can đảm xả thân đánh Kim Luân Pháp Vương và đã biết dùng cơ mưu cứu được Hoàng Dung ra khỏi trận loạn thạch. Rồi ông bắt chuyện hỏi thăm sức khoẻ của chàng và Tiểu long nữ trong những ngày gần đây ra sao?
Dương Qua ranh mãnh không cho biết những cuộc gặp gỡ Trình Anh, Lục vô Song, bà già điên và Hoàng dược Sư mà chỉ trả lời có một câu vắn tắt như sau:
- Sau khi bị thương cháu lẩn trốn, nằm dưỡng bệnh trong một hốc núi, bất ngờ gặp cô nương của cháu đây rồi hai người cùng đưa nhau tới để gặp Quách bá bá.
Quách Tỉnh vừa cởi áo dài vừa hỏi:
- Hiện nay cơ đồ nhà Tống thật bấp bênh như chuông reo chỉ mảnh, như trứng để đầu gậy. Thành Tương Dương là vị trí yết hầu của Tống Bang, nếu một mai thành này thất thủ thì bao nhiêu dân Hán sẽ trở thành nô lệ cho bọn rợ Mông Cổ cả thẩy. Người nào có chút tinh thần vì Quốc gia dân tộc, nếu được chứng kiến cái cảnh quân Mông Cổ sát hại dân lành cũng không thể nào chịu đựng nổi.
Ngừng một chặp, ông nói tiếp:
- Chúng ta là con nhà võ tất nhiên phải đem hết tài năng sở trường ra làm việc nghĩa, cứu nước giúp dân qua cơn nguy biến. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một việc nhỏ mà thôi. Xưa nay thiên hạ thường tôn ta làm đại hiệp là vì ta biết xả thân đền nợ nước chứ không phải vì ta tài giỏi hơn ai. Nhưng tuy vậy ta vẫn suy nghĩ mà thẹn với lương tâm, vì sức mình không đủ tài sức lo cho tròn nghĩa vụ với quốc gia dân tộc để xứng đáng với cái mỹ danh "đại hiệp". Ta nhận thấy cháu thông minh, trí tuệ sáng suốt hơn ta nhiều lắm, tuy còn nhỏ tuổi mà bản lãnh cũng khá cao cường, hơn nữa chí khí cũng đáng khen, vậy tương lai của cháu nhất định sẽ rạng rỡ hơn ta. Ngày nay ta chỉ có một ước vọng là cháu ghi tạc trong tâm khảm tám chữ "vị dân vị quốc hiệp chi đại giả" và lấy đó làm phương châm rèn tâm dưỡng tánh hầu trở nên một vị "đại hiệp" bốn biển lừng danh, nêu gương muôn thuở. Đó là kỳ vọng duy nhất của ta nơi cháu đó.
Nghe những lời nói nghiêm trang, đầy lòng nghĩa khí, chính đại quang minh, Dương Qua hết sức cảm động. Mặc dù Quách Tỉnh là kẻ tử thù đã giết chết cha mình, nhưng trong giờ phút này trước những câu nói bao hàm bao nhiêu ý nghĩa cao cả, đáng kính khiến cho chàng thấy vô cùng mến phục. Chàng trả lời với giọng run run vì cảm động:
- Thưa Bá bá, những lời nói đáng giá nghìn vàng của Bá bá, cháu xin ghi tạc trong tim, dù biển cạn sông mòn cháu cũng không quên.
Quách Tỉnh thấy cháu biết nghe thì hể hả lắm, nhìn Dương Qua mỉm cười rồi đặt lưng xuống chiếu ngủ ngay. Dương Qua thấy Quách Tỉnh đã ngủ vùi thì mối phụ thù trong thâm tâm lại nổi dậy bừng bừng. Chàng mân mê chiếc đoản đao đã giấu trong mình đề phòng hành thích và nghĩ bụng: "Thật là dịp may hiếm có. Thôi đêm nay ta thừa lúc xuất kỳ bất ý, cắt đầu ông ta rồi tìm luôn Hoàng Dung thanh toán cho rồi. Bà ấy tuy tài cao, võ giỏi tới đâu, nhưng đã tới gần ngày sinh đẻ cũng không tài nào chống cự nổi. Đem hai chiếc thủ cấp này về động Thủy Tiên để đổi lấy nửa viên thuốc tuyệt tình đan giải độc. Xong đâu đấy rồi, ta cùng Tiểu long Nữ trở về cổ mộ sống một cuộc đời ẩn dật tự tại an nhàn, mặc cho giang sơn nhà Tống ra sao thì ra, mặc cho người đời sâu xé chém giết nhau muốn sao thì muốn...".
Nghĩ tới đây chàng phấn khởi vô cùng lẳng lặng rút chiếc đoản đao sắc như nước định ra tay hạ sát. Bỗng nhiên bên phòng kế đó có tiếng trẻ con khóc oa oa và tiếp theo đó là tiếng hát à ơi của người mẹ ru nho nhỏ với giọng hát ngái ngủ. Tiếng khóc nhỏ dần và dứt hẳn, và mẹ cũng thôi ru khi đứa con ngủ kỹ. Tiếng trẻ con khóc gợi lại trong lòng Dương Qua hình ảnh ngày nào bọn lính Mông Cổ tàn sát dân chúng. Chàng tưởng tượng lại hình ảnh một tên Mông Cổ đang say rượu dùng một thanh dáo thật dài xe vào bụng một đứa con nít mới lên ba, vung lên không trung rồi vác đi cùng đường để thị uy. Tiếng rên rỉ của đứa trẻ con khốn nạn ấy bây giờ còn văng vẳng bên tai chàng, khiến Dương Qua lại suy nghĩ: "Ta giết Quách Tỉnh rồi, thành Tương Dương nhất định sẽ mất, chừng ấy bao nhiêu vạn dân chúng, nam phụ lão ấu trong thành này sẽ làm mồi cho lửa đạn, hàng ngàn trẻ con sẽ chết thê thảm như độ nào. Ta chỉ vì báo thù riêng mà gieo tang tóc lại cho muôn dân lành thì quả là điều không nên làm. Bây giờ phải xử sao đây?".
Trong tâm hồn chàng bỗng nổi lên một cuộc tranh chấp kịch liệt giữa hai ý kiến mâu thuẫn. Nhưng bỗng chốc thêm một ý kiến thứ ba lại xẩy ra:
- Đêm nay là một dịp may ngàn năm có một, nếu ta không giết được Quách Tỉnh thì làm sao nhận được viên thuốc giải độc của Cừu thiên Xích? Ta chết rồi thì Tiều long Nữ sẽ ra sao? Chắc chắn nàng không thể nào sống được nữa... Trời ơi, làm sao đây? Thôi, mặc cho bá tánh thành Tương Dương, mặc cho giang sơn nhà Tống... Ta từ nhỏ tới lớn nếm biết bao nhiêu điều cay đắng gian lao, có kẻ nào đoái hoài tới ta đâu? Như thế chuyện gì ta phải lo cho họ để đến nỗi cả hai đều chết yểu một cách âm thầm và bi thương như thế này?
Nghĩ xong, chàng quả quyết nắm chặt thanh đoản đao, trừng mắt nhìn Quách Tỉnh định ra tay. Dưới ánh đèn lờ mờ, Quách Tỉnh nằm ngửa mặt ngáy pho pho, vô cùng nhân hậu, khiến Dương Qua chạnh lòng nghĩ lại: "Quách Bá bá một đời quanh minh chính trực, hánh động hết sức quân tử đại lượng, chẳng lẽ vô cớ đi giết cha mình sao? Câu chuyện này thế nào cũng có sự bí ẩn đây, cần phải tìm biết mới được". Thần trí đang phân vân rối loạn, bỗng nhiên có tiếng gõ cửa nhè nhẹ.
Vừa nghe tiếng gõ cửa, Quách Tỉnh trở mình hỏi:
- Ai đó, bà phải không?
Dương Qua hoảng hồn vội dấu đao nằm xuống không dám cục cựa. Bên ngoài vẫn lặng yên không ai lên tiếng cả. Quách Tỉnh lạ lùng quá vùng dậy bước ra mở cửa, đưa mắt nhìn quanh, thấy Hoàng Dung đứng tận ngoài xa, đưa tay vẫy. Quách Tỉnh bước theo ra, lạ lùng hỏi nhỏ:
- Chuyện chi mà có vẻ bí mật lắm vậy?
Hoàng Dung không đáp, nắm tay Quách Tỉnh kéo đi cách nhà khá xa, nhìn quanh quất một chặp, không có ai mới khẽ bảo chàng:
- Hồi chiều em nghe Quách Phù thuật lại, lần này Dương Qua đột nhiên trở lại thành Tương Dương nhưng thần sắc có vẻ bất thường, nên ngại có chuyện gì bên trong chưa biết. Lại nghe anh cùng ngủ chung một giường với hắn thì em lo quá. Vì vậy nên em trằn trọc mãi không ngủ được, cứ quanh quẩn xem chừng trước phòng để đề phòng nếu có gì không hay sẽ xẩy ra chăng? Theo ý em thì hình như nó tình nghi chúng mình giết cha nó trước kia, vì vậy nên anh không nên ngủ chung một giường cùng nó nữa.
Quách Tỉnh nghe xong đứng lặng người suy nghĩ một chập rồi gật đầu đáp:
- Em nói cũng có lý. Thôi ngày mai ta sẽ vào trong dinh ngủ cũng được.
Quách Tỉnh đưa vợ về phòng riêng rồi trở lại chỗ cũ, thấy Dương Qua đang nằm ngáy vang xem chừng ngủ mê lắm. Quách Tỉnh vô tình không biết rằng trong lúc hai vợ chồng ra ngoài nói chuyện thầm Dương Qua đã rón rén đi theo lắng tai nghe trộm hết mọi việc. Khi hai người bàn xong, Quách Tỉnh đưa vợ về nhà trong, chàng vội trở về giường giả vờ nằm ngủ mê man. Thật ra trong khi đó chàng đã nghĩ ra một chuyện táo bạo: "Nếu để ngày mai hai vợ chồng lão vào trong dinh ngủ riêng thì còn cơ hội nào hạ thủ nữa? Nhất định trong đêm nay phải thi hành cho xong ý định, nếu không thì không bao giờ còn gặp dịp này nữa...". Rồi nằm ngáy vang nhưng tâm thần Dương Qua vẫn tỉnh táo và đang lẳng lặng theo dõi mọi hành động của Quách Tỉnh. Chàng thấy Quách Tỉnh sẽ kéo chăn đắp ngực cho mình, miệng lẩm bẩm:
- Chú bé này ngủ ngon quá!
Quách Tỉnh vừa đặt lưng xuống chiếu định ngủ, bỗng thấy Dương Qua cựa mình lăn qua một vòng, nhưng miệng vẫn ngáy đều không gián đoạn. Ông giật mình suy nghĩ: "Phàm người nào đang ngủ mà cựa mình thì hơi thở và tiếng ngáy phải gián đoạn, cớ sao tiếng ngáy của Dương Qua vẫn cứ đều đều một cách lạ lùng như vậy? Hắn bị bệnh gì chăng?". Suy nghĩ vậy, ông bỗng lo lắng cho Dương Qua vô cùng, và từ đó ông không ngủ nữa, cứ nằm lặng yên theo dõi hơi thở và tiếng ngáy của chàng. Dương Qua trở mình hai ba lần thấy Quách Tỉnh vẫn nằm mê không cục cựa. Chàng vẫn giữ hơi ngáy đều đặn rồi se sẽ ngồi dậy, bò dần xuống giường. Chàng dự định đứng cạnh thành giường, đâm mạnh vào ngực Quách Tỉnh rồi thoát ra ngoài cửa sổ. Tuy nhắm mắt nhưng bao nhiêu hành động, cử chỉ của Dương Qua Quách Tỉnh thẩy đều biết rõ. Ông đinh ninh có lẽ chú bé này vì ham mê luyện công quá nhiều cho nên tâm thần thác loạn. Ông không nỡ làm trở ngại giấc ngủ của chàng, chỉ lẳng lặng theo dõi xem sao. Dương Qua se sẽ rút mũi đao găm giấu trong tay áo, nắm chặt lấy chuôi vận sức đưa lên cao, định đâm phập xuống một nhát. Bỗng nhiên Quách Tỉnh hỏi một cách êm ái ngọt ngào:
- Qua con! con nằm chiêm bao thấy gì đó?
Nghe câu hỏi như tiếng sét đánh ngang đầu, Dương Qua lạnh cả xương sống, rồi không biết xử trí ra sao cho tiện, chỉ khẽ nhún mình nhảy tung ra ngoài khung cửa sổ. Nhưng khi thân hình chàng vừa ra khỏi cửa, chân chưa chạm đất thì đã bị Quách Tỉnh chộp đứng trên lưng xách bổng trở vô phòng. Tinh thần giao động đến cực độ, Dương Qua bi quan quá, biết thế nào cũng bị chết, nên lẳng lặng chờ đợi một cực hình ghê gớm. Không ngờ Quách Tỉnh chỉ đặt nhẹ nhàng lên giường rồi ngồi ngay ngắn, nhắm mắt như đang nhập định than thiền. Dương Qua ngạc nhiên quá sức, chẳng hiểu Quách Tỉnh định dùng thủ đoạn lạ lùng như thế nào để hành tội mình đây? Chàng bỗng nhớ tới Tiểu long Nữ rồi vận sức hít một hơi thật dài gọi lớn:
- Cô nương, mau cứu tôi với, tôi đã sa cơ bị bắt rồi...
Không ngờ Quách Tỉnh vừa trông thấy chàng mấy hơi hít mạnh lại sợ dùm cho sức khoẻ của chàng nên vội vàng đưa bàn tay chặn ngay trên đan điền, khiến chàng không gọi ra tiếng nữa. Dương Qua đang hoang mang chưa biết số mạng sẽ ra sao, bỗng Quách Tỉnh từ tốn bảo:
- Dương Qua cháu, vì cháu nôn nóng luyện công quá sức, khiến thần kinh thác loạn, thường mơ tưởng những mộng mị viển vông, tinh thần không định được, có hại cho sức khỏe lắm. âu cũng là một bài học về câu "giục tốc bất đạt" đấy nhá, hãy lấy đó mà làm gương về sau. Bây giờ cháu hãy ngồi yên, để ta giúp cháu điều hành lại khí huyết trong người cho.
Ông nói chưa dứt lời đã thấy một luồng hơi ấm truyền từ bàn tay Quách Tỉnh, qua khắp cơ thể, khiến tinh thần trở nên khoan khoái dễ chịu vô cùng. Vốn con người thông minh tuyệt mức, nên bao nhiêu đó cũng đủ cho Dương Qua hiểu hết tự sự. Chàng bèn tương kế tựu kế, lập tức vận dụng nội công, khiến cho huyết mạch chạy lộn xộn để lừa Quách Tỉnh. Quách Tỉnh tính thật đâu biết, ông cố đem hết sức mình truyền vào thân thể Dương Qua để giúp chàng chỉnh đốn lại kinh mạch đang bị xáo trộn. Mãi tới hết canh năm, huyết mạch của Dương Qua mới điều hòa lại bình thường. Vì dùng sức chọi nhau nên cả hai đều mệt nhoài. Mỗi người phải ngồi tĩnh tọa mãi tới rạng đông mới phục hồi lại công lực đầy đủ như trước. Quách Tỉnh vui mừng bảo Dương Qua:
- Cháu đã thấy khoẻ và đỡ hơn trước chưa? Thật ra không ngờ cháu có một công lực cao siêu như vậy?
Dương Qua chắp tay tạ ơn, đáp:
- Cháu cám ơn Quách Bá bá đã có lòng cứu giúp, nếu không có Bá bá chuyển sức phù trợ cho thì mạng cháu đã nguy rồi.
Ngay lúc đó có người mang thức ăn điểm tâm tới. Cả hai người cùng ăn xong, Quách Tỉnh bảo Dương Qua:
- Cháu sắp sửa yên cương cùng theo ta ra ngoài thành thị sát một chặp nhé.
Nừa giờ sau hai bác cháu so cương sát cánh nhau cùng ra ngoài thành. Nhưng khi vừa ra khỏi cửa tây đã gặp một con sông đang uốn khúc chảy vòng quanh theo chân đồi, nước trong leo lẻo. Quách Tỉnh nói:
- Con sông tuy bé nhỏ nhưng đã được ghi tên vào lịch sử Trung Quốc, cháu có biết nó tên chi không? Đó là con sông "Đàn khê" đấy.
Nghe tiếng "Đàn khê" Dương Qua ô một tiếng vì ngạc nhiên và nói:
- Xưa kia Lưu hoàng Thúc giục ngựa nhảy Đàn khê, không ngờ lại là con sông này!
Quách Tỉnh cười nói:
- Thiên hạ hồi ấy đồn rằng con ngựa Đích Lô sát chủ, nhưng không, chính con Đích Lô đã nhảy khỏi dòng sông, cứu được Lưu hoàng Thúc là chủ nó.
Hai người vừa nói vừa đi mãi, một chập sau đã lên tận đỉnh đồi. Đứng trên đồi cao nhìn xuống, thấy dòng sông Hán Thuỷ cuồn cuộn chảy siết về phía Nam. Nhìn lại bốn phía, trong đồng nội bao la, chỗ nào cũng đầy cả dân chúng đang bồng bế nhau lũ lượt kéo về thành Tương Dương tỵ nạn. Quách Tỉnh cầm roi chỉ vào đám dân đi lánh nạn bảo Dương Qua:
- Có lẽ quân Mông Cổ tới đâu tàn sát dân lành tới đó, nên bao nhiêu người phải đành bỏ nhà chạy trốn về thành Tương Dương hết thảy.
Rồi ông lại chỉ về bên kia triền đồi phía hữu thấy có dựng một tấm bia lớn có khắc hàng chữ:
"Đường Công Bộ lang, Đỗ Phủ cố lý"
Dương Qua chắc lưỡi nói:
- Không ngờ thành Tương Dương bé nhỏ như thế này mà lại có lai lịch nổi danh như vậy. Thì ra đây là quê hương của đại thi hào Đỗ Phủ đây mà.
Quách Tỉnh không nói gì, chỉ quất mạnh chiếc roi ngựa trong không khí nghe vun vút rồi khẽ ngâm mấy dòng thơ của nhà thi hào Đỗ Phủ đã quá cố:
"Hồ lại đang tự phủ,
Khái phục ưu tây đô
Gian nan phấn trường kích
Vạn cổ dụng nhất phu"
Câu thơ ngâm chưa dứt, bỗng thấy bao nhiêu dân chúng đang xúm xít trước cửa thành chạy thối lui trở lại rần rần, khóc lóc vang dậy.
Tuy phía trước thối lui, nhưng làn sóng người phía sau vẫn ào ạt tiến tới như nước vỡ bờ. Quách Tỉnh giật mình tự hỏi:
- ủa, tại sao lại cản ngăn không cho dân chúng vào thành ty nạn?
Nói rồi giục ngưa chạy xuống phía trước thành. Bỗng đâu một Đám quân cung thủ đang lắp tên sẵn, ở trên thành chĩa thẳng vào đám dân, Quách Tỉnh thấy vậy nạt lớn:
- Bọn bây làm gì lạ vậy? hãy mở cửa thành cho dân chúng vào ty nạn chứ?
Viên trưởng chi huy chỗ này trông thấy Quách Tỉnh và Dương Qua bèn vội vàng mở cửa thành cho vào và thưa rằng:
- Lữ đại nhân vừa cho biết bọn gian tế Mông Cổ đang trà trộn vào số dân này, nên người ra lệnh đóng chặt cửa thành lại không cho ai được vào hết.
Quách Tỉnh hét lớn:
- Cứ mở cửa cho dân vào.
Quách Tỉnh đối với quan binh trong thành rất có uy tín, cho nên khi ông bảo lập tức viên thủ thành tuân theo ngay, mở cửa cho dân chúng tuôn vào như thác lũ, đồng thời sai người cấp báọ với Lữ Văn Hoán biết.
Dân chúng vừa dắt nhau vào thành thì bỗng thấy cát bụi rợp trời, một quân đoàn Mông Cổ đã từ hướng Bắc kéo tới tấn công ngay. Đứng trên cao nhìn xuống, thấy đoàn hùng binh Mông Cổ đi sau và chặn trước có một đám đông người ăn mặc rách rưới, tay cầm gậy gộc vừa chạy vừa la hét:
- Chúng tôi đều là dân chúng của Đại Tống cả, xin trên thành dừng bắn xuống tội nghiệp.
Kể từ triều đại Thành Cát Tư Hãn, bọn Mông Cổ áp dụng một chiến thuật vô cùng dã man là bắt dân lành đi trước đỡ tên cho chúng, và cũng nhờ kế hoạch này mà bọn chúng đã đoạt được rất nhiêu thành địch. Thấy đoàn kỵ binh Mông Cô binh khí tuốt trần, đi thẳng vào lương dân lương thiện, thúc đẩy tiến tới sát thành, không còn bao nhiêu bước nữa là tới sát bên thang. Lữ văn Hoán thấy nguy quá bèn ra lệnh buông tên, xạ thủ. Tức thì từng loạt tên bay xuống thành như mưa bấc, khiến đoàn bá tánh phải chạy đều trở lại. Đoàn kỵ binh Mông Cổ đi sau thấy vậy, huy động binh khí chém giết không tiếc tay. Bá tánh đã lọt vào tình thế tiến không được mà lùi cũng chết nên kêu khóc vang trời. Thấy rõ âm mưu thâm độc của Mông Cổ, Lữ văn Hoán đứng trên thành ra lệnh tiếp tục bắn mãi. Quách Tỉnh bất nhẫn quá luôn miệng gào thét:
- Dừng tay, đừng giết dân vô tội.
Mặc dù Quách Tỉnh quát tháo, nhưng trên thành tên vẫn thi nhau bay như mưa bấc. Quách Tỉnh thấy tình thế có phần gay cấn, bèn đốc suất một đội quân tinh nhuệ, toàn là những phần tử có bản lãnh trong Cái Bang xông ra ngoài thành cản bước tiến của quân giặc.
Dương Qua muốn đi theo, nhưng Quách Tỉnh bảo:
- Cháu chưa được mạnh lắm, hãy ở trên thành lược trận cũng được, không nên ỷ sức xông xáo ra trận tiền.
Dương Qua vâng lời bèn leo lên mặt thành nhìn xuống. Quách Tỉnh dẫn đoàn quân mở cửa thành xông ra đánh thốc vào mặt tả của cánh quân Mông Cổ. Hai bên vừa chạm nhau thì ngót một trăm quân Mông Cổ đã ngã gục ngay. Đoàn quân của Quách Tỉnh quá ư dũng mãnh và thiện chiến, tiến lên như vũ bão, như vào chỗ không người. Bá tánh thấy trong thành có đoàn quân xông ra ứng chiến, quân Mông Cô đang chống đỡ, bèn thừa dịp chạy toán loạn hết. Bỗng nhiên có từng hồi tù và rúc lên liên tục, và từ hướng Đông có hai thiên nhân đội, mỗi đội ngàn người, xông ra. Kế đó ở phía Tây cũng có hai thiên nhân đội nữa. Bốn thiên nhân đội cùng ào ra một lượt phủ vây cánh quân Quách Tỉnh vào giữa. Dương Qua đứng trên mặt thành tuy mắt nhìn xem trận đấu nhưng trong lòng vẫn nhớ lại mấy câu nói nhân đạo của Quách Tỉnh "dừng tay, đừng giết dân vô tội" mà lòng tràn ngập một niềm cảm xúc vô biên.
Thấy vòng vây của bốn đội quân Mông Cổ mỗi lúc một siết chặt thêm Dương Qua chợt nghĩ: "Nếu trên thành cứ buông tên bắn mãi thì quân Mông Cổ không thể nào đến sát bên tường để tấn công được nhưng sở dĩ Quách bá bá đã liều thân đem quân ra tiếp chiến với Mông Cổ là vì người không muốn giết người vô tội. Ôi những người dân ấy đối với ông nào có bà con ruột thịt chi đâu? Thế mà Bác đã không nghĩ thân mình xông ra cứu họ. Một người lòng dạ rộng rãi nhân đạo như thế, lẽ nào đi đang tâm giết hại cha ta là một người anh em kết nghĩa?".
Chàng đang phân vân suy nghĩ thì dưới thành tiếng trống trận thúc liên hồi, tiếng quân reo tở mở. Đoàn quân của Quách Tỉnh cố liều mạng mở một đường máu nhưng đánh mãi không phùng nổi. Chu tử Liễu thấy vậy bèn cùng hai anh em họ Võ thống lãnh một đoàn quân khác xông ra để giải vây. Bỗng tiếng tù và lại rít lên từng hồi nữa. Thêm bốn ngàn quân tinh nhuệ của Mông Cổ từ xa xông lại chờ sẵn bên thành, hễ trong này mở cửa thì cướp đường xông vào chiếm thành ngay lập tức.
Lữ văn Hoán thấy thế giặc như vậy thất kinh, hạ lệnh không cho ai được phép mở cửa thành nữa. Rồi ông ra lệnh cho mấy trăm tên lính lực lưỡng, hờm sẵn đại đao đứng gác cửa, hễ ai đến gần chém ngay tức khắc.
Trong thành cũng như ngoài thành, tiếng quân hòa lẫn với tiếng trống thúc liên hồi. Trong lòng Dương Qua cũng đã xẩy một trận tranh chấp kịch liệt giữa hai luồng tư tưởng trái ngược nhau. Có khi chàng cầu mong cho Quách Tỉnh đắc thắng khải hoàn, cũng có lúc chàng lại muốn ông bỏ thây nơi chiến địa. Bỗng nhiên hàng ngũ quân Mông Cổ bắt đầu rung động và lộn xộn hẳn lên. Quách Tỉnh tay cầm giáo dài múa tít xông khỏi trùng vây, phía sau lưng ông, đoàn quân tinh nhuệ can trường cũng nối theo không xa một bước, bao nhiêu con người đó đã hợp thành một lực lượng vô cùng vững chắc. Lực lượng này vừa đánh vừa lui dần vào gần cửa thành. Mặc dù quân Mông Cổ cố đánh thốc mũi dùi để phá vỡ, nhưng mặt trận vẫn giữ vững như vách sắt tường đồng không hề lay chuyển. Khi rút lui lại gần chân thành rồi, bỗng nhiên Quách Tỉnh quất ngựa lao vút ra sau cản hậu, nhường cho đoàn quân mình cướp đường đi trước vào thành. Thấy thắng thế, Lữ văn Hoán, cả mừng ra lệnh khai thành tiếp đón Quách Tỉnh và đoàn quân.
Nhưng Quách Tỉnh không chịu vào, cứ một mình một ngựa một giáo cản hết muôn quân Mông Cổ cho quân lính của mình vào thành trước.
Quân Mông Cổ thấy mưu kế của mình sắp hỏng bèn huy động cờ vàng, tức thì cả vạn quân đùng đùng tràn tới như nước vỡ bờ. Quách Tỉnh dù tài năng xuất chúng cũng không thể nào một mình cản nổi vạn người ngựa đang liều chết tấn công. Cả một biển người lũ lượt tràn gần chân thành, càng lúc càng thêm hùng hậu. Trên thành Lữ Văn Hoán trông thấy nguy cơ, sợ quá vội kêu lớn:
- Quách đại hiệp, xin hãy vào thành ngay, chúng tôi không thể nào chờ đợi nữa.
Quách Tỉnh nghe gọi bèn liếc mắt nhìn xung quanh thấy bộ hạ của mình chưa vào hết nên chưa chịu vào. Trái lại ông còn vung giáo xông ra sau đâm luôn một hơi cả chục viên kiện tướng Mông Cổ đang ở gần nhất.
Chu tử Liễu đứng trên thành cũng gọi thật lớn:
- Quách ca, hãy níu đầu dây này để tôi kéo lên mau.
Quách Tỉnh đưa mắt nhìn lại thấy một tên bộ hạ cuối cùng của mình vừa lọt vào cửa thành đã có trên mười tên Mông Cổ xông tới bám sát để tấn công. Hai trăm tên cầm đầu đao gác thành một mặt chống cự lại bọn này, một mặt lo đóng cửa thành lại.
Quách Tỉnh hét to một tiếng, vung giáo đâm chết luôn một tên thập phụ trưởng rồi tung mình lao vút lên không, nắm lấy đầu dây của Chu tử Liễu. Chu Tư Liễu vận sức rút mạnh chiếc dây lên. Thân hình Quách Tỉnh như con diều gặp gió vụt thẳng lên cao hơn hai trượng.
Tên vạn phu trưởng đang chỉ huy tại mặt trận này bỗng hô lớn:
- Bắn ngay!
Tức thì hàng vạn mũi tên nhọn thi nhau nhắm vào thân hình Quách Tỉnh lao tới. Nhưng trong khi lao mình nắm lấy đầu dây, Quách Tỉnh đã dùng thế "thoát bào nhượng vị" cởi chiếc áo dài mặc ngoài rồi một tay nắm dây, một tay vung chiếc áo như một cái khiên che chở khắp thân mình khiến cho muôn ngàn mũi tên thảy đều rơi xuống đất cả. Chu tử Liễu lanh tay rút thẳng lên, không bao lâu chỉ còn độ vài trượng thì Quách Tỉnh đã tới mặt thành.
Bỗng nhiên từ trong rừng người Mông Cổ một người xông ra, đó là Kim Luân Pháp Vương. Lão liền giật lấy một cánh cung cứng trong tay tướng Mông Cổ gần nhất, lắp tên kéo thẳng và buông đi một cái vụt, nhắm ngay vào sợi dây đang kéo Quách Tỉnh lên thành. Còn sợ hai người tìm cách đối phó nên bắn luôn liên tiếp hai mũi tên khác, một mũi Quách Tỉnh và một mũi ngay Chu tử Liễu. Tài bắn của Kim luân pháp Vương thật là tuyệt diệu. Trong khi mũi tên đầu vừa cắt đứt sợi dây khiến thân hình Quách Tỉnh từ từ rơi thì hai mũi kia cũng vừa bay tới, và thân hình mũi thứ ba vẫn lao vun vút tới ngay cổ họng Chu tử Liễu.
Nhưng Chu tử Liễu đâu phải tầm thường? Khi thấy tên xé gió bay tới đã khẽ đưa hai ngón tay kẹp ngay thật chặt. Thấy dây đã đứt, Quách Tỉnh lo ngại vô cùng, vì nếu rơi ngay vào cái rừng người ấy thì còn gì mà nói nữa, cho nên trong lúc vô cùng nguy hiểm, ông vẫn giữ được bình tĩnh để tìm cách thoát hiểm. Ông bèn hét lên một tiếng thánh thót rồi dập mạnh chân vào bờ tường, toàn thân bỗng bắn vọt trở lên hơn một trượng. Tiếp theo đó ông phóng chân khác đạp luôn một chiếc nữa, thân hình lại tung cao thêm một trượng nữa. Đây là thuật "bắc thang lên trời" xưa nay ít người luyện được. Hàng trăm ngàn quân binh Mông Cổ và Tống đang giao chiến bỗng đứng im phăng phắc, muôn vạn cặp mắt dán chặt vào chỗ Quách Tỉnh để tán thưởng tài nghệ tuyệt luân do ông ta đang thi thố trên vách thành cheo leo cao vòi vọi.
Kim Luân Pháp Vương cũng vô cùng ngạc nhiên về tài ba tột chúng của Quách Tỉnh. Ông suy nghĩ: "Muốn phá thuật bắc thang lên trời này, chỉ có cách là làm sao cho hơi thở của hắn bị gián đoạn mới được". Nghĩ thế, y liền giương cung nhắm ngay Quách Tỉnh bắn ra một phát, ngay vào phía hậu tâm.
Quách Tỉnh tung người bay lên, bỗng nghe tiếng xé gió ào ào thì biết có kẻ bắn tên, nên lắc đầu than nhỏ:
- Nguy rồi!
Miệng than, tay với ra sau bắt đầu mũi tên. Hàng vạn tiếng hoan hô từ miệng binh sĩ đôi bên reo hò vang dậy, nhưng thân hình của Quách Tỉnh cũng vì vậy mà tụt xuống thấp gần một trượng.
Trong thời gian ấy, trong đầu Dương Qua cũng nổi lên một cuộc tranh chấp mãnh liệt. Chàng suy nghĩ: "Lão đã giết cha mình, lẽ nào ta đi cứu?
Tại sao không thừa cơ hội này giết phứt đi cho rồi, để thanh toán hận thù?". Nghĩ tới đó, bỗng mũi tên của Kim Luân làm gián đoạn hơi thở khiến Quách Tỉnh đề khí không được, tụt xuống non một trượng sâu. Lòng Dương Qua rối ren như tơ vò, không còn suy nghĩ gì nữa. Tức thì chàng vung tay trái chụp lấy đầu dây của Chủ tử Liễu nhảy phóc xuống thành còn tay mặt chộp vào vai Quách Tỉnh.
Trong thời gian ấy, Chu tử Liễu cũng lanh trí bèn nhún đầu dây xuống một chút để lấy trớn rồi rút mạnh trở lên. Quách Tỉnh và Dương Qua như hai con chim bằng cất cánh vọt thẳng lên trên cao, quay luôn một vòng rồi là là đáp xuống yên lành trên mặt thành giữa tiếng hoan hô vang dậy của hàng vạn hùng binh đôi bên. Trong khi thân thể còn bay lơ lửng giữa không trung, Quách Tỉnh nghĩ giận những mũi tên phá đám của Kim Luân vừa rồi nên cũng muốn thi thố tài năng cho hắn thấy và kiêng oai một mẻ. Ngay khi ngón chân trái vừa điểm trên đầu thành. Quách Tỉnh đã giật phắt cánh cung của tên quân đứng canh, tra tên phóng ra một mũi lao vút về phía Kim Luân Pháp Vương. Vừa khi ấy, Kim Luân Pháp Vương cũng bắn ra một mũi. Hai mũi tên gặp nhau giữa chừng trời nghe xoạc một tiếng khô khan và mũi tên của Kim Luân Pháp Vương gãy làm hai. Kim Luân đang ngẩn ngờ thì mũi thứ hai đã bay tới chạm đúng ngay cung y đang cầm trong tay gãy tiêu. Loay hoay chưa biết đối phó ra sao, bỗng mũi thứ ba của Quách Tỉnh bắn ngay cột cờ Hốt tất Liệt. Cây soái kỳ đang sừng sững oai nghiêm, phía trên một lá cờ tung bay phất phới bỗng nhiên bi bắn đứt dây tuột ngay xuống đất.
Hốt tất Liệt thấy Quách Tỉnh thần võ quá khiếp thì buồn rầu lo sợ, bèn ra lệnh gióng chiêng thu quân.
Quách Tỉnh trên đầu thành nhìn xuống thấy Mông Cổ rút quân có trật tự quy củ, hàng ngũ chỉnh tề, trước không lộn xộn, sau chẳng xôn xao, không lộ vẻ gì hấp tấp sợ sệt liền thở dài than rằng:
- Mông Cổ hành quân đúng phép, tiến thoái đàng hoàng, kỷ luật nghiêm minh như thế này Tống quân địch làm sao nổi?
Than xong mặt mày buồn bực, không nói một lời. Dương Qua và Chu tử Liễu thấy Quách Tỉnh biểu lộ thần oai trước trận tiền, xông vào chỗ muôn binh như vào chốn không người, thua không hoảng sợ, thắng không kiêu hãnh nên trong lòng ai nấy đều thán phục vô cùng. Khi đội quân Mông Cổ rút lui cách xa thành Tương Dương rồi thì Lữ văn Hoán truyền mở tiệc khao quân ăn mừng chiến thắng.
Trong tiệc Dương Qua được xem như là thượng khách, vì ai ai cũng khen ngợi chàng có dũng lực và can đảm đã một mình phi thân xuống thành cứu được Quách Tỉnh khỏl rơi vào tay địch.
Tiệc xong đã quá canh hai. Đêm nay, Quách Tỉnh và Dương Qua ngủ riêng. Vừa ngủ ngon giấc, Dương Qua nghe tiếng gõ cửa thật gấp. Chàng ngồi dậy mới hay có lệnh của Quách Tỉnh mời ra trung quân bàn chuyện khẩn cấp.
Vừa vào tới trung quân, chàng đã thấy Hoàng Dung mặc áo rộng ngồi chống tay lên án thư mặt buồn dàu dàu, thân hình tiều tụy. Quách Tỉnh đang chắp tay sau lưng đi qua đi lại trong phòng tỏ vẻ suy nghĩ lung lắm. Cạnh đó Quách Phù ngồi làm thinh, đôi mắt còn ngấn lệ, có lẽ đã khóc nhiều rồi. Trên án thư có đặt hai thanh gươm dài, dằn trên một tờ giấy có viết chữ bị gió thổi tung bay phần phật. Nhìn đôi trường kiếm, Dương Qua ngạc nhiên vô cùng vì chàng đoán rõ là hai thanh gươm của hai anh em họ Võ.
Thấy Dương Qua tới nơi Quách Tỉnh nói ngay:
- Cháu có đoán biết hai anh em họ Võ đang đêm đột nhập vào trại giặc để làm chi không?
Dương Qua điềm nhiên đáp:
- Thưa Quách bá bá, cháu không biết rõ lắm, tuy nhiên cháu cũng có thể đoán rằng vì thấy quân giặc vây thành quá ngặt, hai người mạo hiểm qua đấy để hành thích tướng địch, may ra thành công thì sẽ được vang danh với thiên hạ.
Quách Tỉnh thở dài, đưa tay sờ vào thanh trường kiếm mà nói:
- Hai đứa nó thật không tự lượng sức mình, để đến nỗi bị người ta vây bắt đoạt khí giới gửi trả lại đây nầy.
Nói xong, ông rút tờ giấy dằn dưới hai thanh gươm trao cho Dương Qua xem.
Dương Qua tiếp lấy tờ giấy, kê gần đèn đọc nhỏ:
- Đệ nhất Quốc Sư đại Mông Cổ là Kim Luân Pháp Vương cung kính gởi thư này cho Quách đại hiệp tường lãm:
"Đêm nay nhân lúc đi săn về, tôi có bắt gặp hai đệ tử của Đại hiệp là hai chàng họ Võ đến viếng trại bất ngờ. Vì ngưỡng mộ uy danh của đại hiệp tôi không nỡ sát hại mà tạm giữ chúng nơi đây. Với thư nầy, tôi trân trọng kính mời Đại hiệp quá bộ sang dinh chúng tôi dùng chén rượu lạt và tỏ chút tâm tình, sau đó sẽ dẫn hai cháu trở về trại Tống bình yên vô sự".
Kim Luân Pháp Vương bái bút.
Lời lẽ trong thư tuy hết sức khiêm nhường, từ tốn, nhưng nội dung không ngoài mục đích muốn giữ hai anh em họ Võ làm con tin để buộc Quách Tỉnh thân hành sang trại giặc. Họ chỉ nêu điều kiện là Quách Tỉnh phải dấn thân vào miệng cọp để cứu cháu về.
Thấy Dương Qua đọc thư, Quách Tỉnh liền hỏi:
- Cháu nghĩ sao?
Dương Qua cũng thừa hiểu dụng ý của Hoàng Dung muốn với mình tới đây để nhờ tháp tùng theo Quách Tỉnh sang trại Mông Cổ, nên chàng trả lời ngay một cách vui vẻ:
- Thưa bá bá và bá mẫu, tôi và cô nương tôi sẽ giả dạng tùy tùng đi theo Quách bá bá qua trại giặc. Nếu bọn chúng trở mặt đánh nhau, hai tôi sẽ dùng song kiếm hợp bích để đối địch. Như thế cũng có thể giải quyết được phần nào tình trạng nguy biến. Với ba người, chắc chắn họ sẽ không làm hại chúng ta nổi đâu.
Quách Tỉnh thấy Dương Qua có lòng sốt sắng thì mừng lắm vội nói:
- Như vậy thì hay lắm, vậy xin cho mời Long cô nương sang đây cùng đi cho kịp.
Nhưng Hoàng Dung đã can thiệp nói:
- Không nên đâu, theo ý tôi thì một mình cháu Qua cũng đủ rồi. Long cô nương là đàn bà con gái, không nên để mạo hiểm vào hang hùm làm chi. Tôi không muốn thế.
Dương Qua giật mình, suy nghĩ: "hèn chi thiên hạ đồn Hoàng Dung đa mưu túc trí, quả không sai. Bà sợ ta phản bội không về nên muốn giữ Tiểu long Nữ lại đây để làm con tin và cầm chân mình chứ gì. Bà này cao kiến thật". Nghĩ xong, để Hoàng Dung khỏi ngờ vực chi về mình Dương Qua vui vẻ nói luôn:
- Quách bá mẫu nói như vậy cũng phải, thôi một mình cháu và Quách bá bá cũng đủ rồi.
Lập tức hai người cùng nai nịt gọn gàng, lên yên giục ngựa nhắm trại giặc trực chỉ. Không đầy nửa giờ sau, hai bác cháu đã tới trại Mông Cổ.
Hốt Tất Liệt nghe quân phi báo có Quách Tỉnh sang dinh thì nửa sợ nửa mừng, vội truyền cho mời vào trong dinh đàm đạo.
Quách Tỉnh bước vào căn lều to nhất ở giữa, nhìn thấy một thiếu niên ngồi ngay chính giữa, mặt vuông tai lớn, đôi mắt sâu sáng quắc, diện mạo uy nghi đường bệ, bỗng giật mình nghĩ bụng:
- Hốt tất Liệt quả giống y cha nó là Đà Lôi như tạc.
Hình ảnh bao nhiêu ngày còn thiếu thời bỗng diễn ra trong ký ức. Quách Tỉnh nhớ lại mối tình bè bạn thắm thiết giữa mình và Đà Lôi khi còn thơ ấu cùng chung sống tại sa mạc Mông Cổ, bất giác chạnh lòng cảm động rưng rưng hai dòng nước mắt.
Hốt tất Liệt vội vã đứng lên bước ra tận cửa nghênh tiếp, chắp tay xá dài Quách Tỉnh và thưa rằng:
- Kính chào Quách đại hiệp. Ngày phụ vương tôi còn sanh tiền vẫn thường nhắc tới bác luôn luôn. Ngày nay được diện kiến cùng bác quả thật là một điều vinh hạnh cho kẻ hậu sinh này.
Quách Tỉnh chắp tay đáp lễ rồi ung dung nói:
- Đà Lôi nghĩa huynh cùng tôi kết tình "ân đáp" thân tình hơn cốt nhục. Ngày tôi còn thiếu thời đã sống bao năm nương nhờ dưới trướng của Thái Tổ Đại Hãn. Không ngờ ngày nay tôi còn sống sót mà bạn thiết đã qua đời khiến tôi rất đau lòng xót dạ.
Hốt tất Liệt thấy Quách Tỉnh ăn nói thành thực, đã có cảm tình ngay và nhớ đến cha mình, cũng muốn ra nước mắt. Sau đó Hốt tất Liệt giới thiệu Quách Tỉnh cùng Doãn khắc Tây và bọn Tiêu tương Tử...
Quách Tỉnh uống xong một ly sữa tươi rồi vẫn chưa thấy hai anh em họ Võ thì đã có bụng lo muốn cất tiếng hỏi thăm nhưng Hốt tất Liệt đã gọi lính hầu ra lệnh:
- Quân bay mau mời hai vị thiếu niên họ Võ ra đây.
Bọn vệ sĩ lãnh mạng lui ra, một chập sau hai anh em họ Võ được dẫn vào. Hai người bị trói thúc hai cánh tay ra sau lưng, quần áo tả tơi, mặt mày tiều tụy. Khi vừa thấy Quách Tỉnh, cả hai xấu hổ và lo sợ, cúi mặt chẳng dám nhìn lên, miệng sẽ gọi:
- Sư phụ!
Hốt tất Liệt nạt tả hữu:
- Ta đã dặn bay đối đãi tử tế với hai vị này, tại sao bây lại đem trói người ta như vậy? Hãy mau mau mở trói lập tức.
Bọn vệ sĩ thất thanh dạ ran và vội vàng chạy lại mở trói. Nhưng vì dây gân bò cột chặt, nút bị gút cứng, chúng mở mãi không ra. Tức thì Quách Tỉnh đứng dậy, bước lại gần, đưa tay bấm vào mất nút dây. Ngón tay của ông sờ tới đâu thì mối dây gân bò đều đứt tiện rơi xuống đất hết.
Hốt tất Liệt truyền mang rượu ra đãi anh em họ Võ. Nhưng Quách Tỉnh nóng lòng muốn cho hai người sớm thoát khỏi hang hùm nên đứng dậy chắp tay vái dài và nói:
- Hai tên súc sinh này vì còn nhỏ tuổi lau chau chưa biết oai hùm lớn nhờ quí vị thương tình và đã cho chúng một bài học đích đáng để ngày sau xử mình, tôi rất lấy làm cám ơn lắm lắm. Bây giờ xin các lỗi cùng quí vị cho chúng nó được về trước.
Rồi không cần ý kiến bên này, ông xua tay sang hai anh em họ Võ khoát tay bảo:
- Hãy làm lễ tạ ơn rồi về ngay, thông báo cho Lữ Đại Nhân biết rằng cần phải canh phòng nghiêm ngặt, bất cứ có một biến cố nào xảy ra cũng không được khai hành, và để phòng địch quân đánh úp nghe chưa.
Lời nói của Quách Tỉnh uy nghiêm khiến cho Hốt tất Liệt cũng hiểu dụng ý của Quách Tỉnh muốn bảo rằng dù sao thành Tương Dương vẫn liều chết phòng thủ chứ không bao giờ chịu đầu hàng giặc.
Võ Tu Văn và Đôn Nho bái tạ rồi lui ra.
Hốt tất Liệt cười nói:
- Chắc bác không biết gì về chuyện hai anh em người này đến đây để hành thích cháu.
Quách Tỉnh gật đầu đáp:
- Vâng, quả tình tôi không hề hay biết gì hết. Bọn này còn trẻ người, cạn nghĩ đã hành động điên rồ, gây nhiều sự rắc rối quá.
Hốt tất Liệt cười ha hả nói luôn:
- Giữa bác và cháu, chúng ta đã quen biết thân tình cùng nhau ba đời rồi, chắc không bao giờ bác nỡ dùng thủ đoạn ấy đối với nhau.
Quách Tỉnh nghiêm giọng đáp:
- Cũng đúng mà cũng có thể không. Phàm gặp việc công phải gác việc tư lại. Xưa kia nghĩa huynh Đà Lôi đem quân vây đánh thành Tương Dương, tôi đã có ý hành thích nghĩa huynh để lui binh địch và cứu nguy cho xã tắc. Cũng may khi chưa thi hành kịp mưu này thì nghe tin Thái Tổ đau nặng, truyền Mông Cổ rút quân về nước lập tức. Nhờ vậy nên tôi mới giữ trọn danh tiết. Ngày xưa cố nhân có dạy "đại nghĩa diệt thân" nếu gặp đại nghĩa cũng có thể giết cả người thân để làm tròn sứ mạng, huống chi là tình bằng hữu?
Ông nói với một giọng rộn ràng uy nghi, khiến cho bao nhiêu kẻ như Kim Luân, Doãn khắc Tây thẩy đều nhìn nhau biến sắc.
Mấy câu nói này khiến Dương Qua rung động cả cõi lòng và suy nghĩ: "Phải rồi. Vì đại nghĩa mà giết nghĩa huynh nghĩa đệ. Việc đây đã trở thành ngón sở trường của mi rồi. Không rõ xưa kia cha ta đã làm chi nên tội mà khiến cho mi phải dứt tình bằng hữu để hạ thủ ông ấy?". Nghĩ đến đây, máu phục thù này sùng sục trong huyết quản.
Quách Tỉnh tuy nói trắng ra như vậy nhưng Hốt tất Liệt không giận mà tươi cười hỏi:
- Nếu vậy sao bác bảo hai anh em họ Võ làm việc này để gây thêm điều rắc rối?
Quách Tỉnh đáp luôn:
- Gây rắc rối là vì chúng không biết lượng sức, đi hành thích bất thành khiến cho địch đề phòng chặt chẽ và gây rắc rối cùng khó khăn cho công việc những kẻ làm sau.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 054
Đơn đao thoát khỏi hang hùm
Kim Luân Pháp Vương thấy Quách Tĩnh tay không và một thân vào chốn hang hùmg miệng rắn mà ko chút nể gì, nói năng hiên ngang ko chút nào nể sợ, thì cũng lấy làm kính phục.
Hốt Tất Liệt thấy Quách Tĩnh vũ khí hiên ngang, nói năng thẳng thắn thì trong lòng thêm phần mến chuộng và nghĩ rằng:
- Một người như thế này mà mua chuộc được, thì còn quý bằng cả mấy thành Tương Dương.
Nghĩ vậy nên nói tiếp:
- Quách thúc phụ, cháu nghĩ rằng triều đình nhà Tống, vua thì hoang dâm vô đạo, tôi thì xiểm nịnh, gia thần hết quyền hành người trung can bị âm mưu hãm hại, có phải đúng vậy hay không?
Quách Tĩnh đáp:
- Đúng như vậy. Lý thông Hoàng đế là một hôn quân vô đạo.
Mọi người đều giật mình kinh ngạc vì ko ngờ Quách Tĩnh lại dám công nhiên chửi mắng vua mình trước mặt Hốt Tất Liệt.
Hốt Tất Liệt nhân cơ hội nói:
- Nếu vậy hà tất thúc phụ phải liều thân phục vụ cho bọn hôn quân vô đạo ấy?
Quách Tĩnh đứng vùng dậy nghiêm giọng trả lời:
- Ta tuy ko tài cán bao nhiêu, nhưng ko bao giờ để cho bọn vua quan nhu nhược ấy lợi dùng được. Sở dĩ ta đem hết bầu nhiệt huyết ra phục vụ, san hà là cũng vì hạnh phúc của muôn triệu lương dân bá tánh Hán tộc mà thôi.
Hốt Tất Liệt rót đầy chung rượu, nhìn mọi người nói:
- Một thánh hiền của quý quốc có nói một câu bất hủ:"Dân vì quý xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Câu này ngụ ý bảo rằng giang sơn gấm vóc là tài sản của muôn dân chứ không phải là của riêng của một người hay một dòng học nào. Nước Đại Mông Cổ ta trị quốc an dân, dem lại thành binh lạc nghiệp cho muôn dân. Nay thấy vua Tống hoang dâm vô đạo, khiến cho bá tánh lầm than cơ cực, vì vậy nên mới hưng binh phạt Tống để đem lại hạnh phúc cho muôn triệu người Hán. Đó là chính nghĩa của công cuộc Nam tiến. VIệc làm này quả thật hợp với lời nói của ước vọng của Quách bá phụ vừa rồi. Vậy chúng ta hãy cùng nhau đụng lý uống để tán thưởng và mừng cho sự gặp gỡ này.
Toàn thể mọi người thảy đều nâng ly định uống. Quách Tĩnh bỗng vung tay áo quay một vòng khiến bao nhiêu ly rượu của cử tọa thảy đều rơi xuống đất, rồi thét lớn:
- Nguỵ biện, chúng bây hãy nín đi đừng nói nữa. Từ khi Mông cổ hưng binh Nam tiến: xương máu Hán tộc chồng chất như núi sông, tang tóc lan tràn từ thôn quê tới đô thị, nước mất nhà tan, lương dân đồ thán, sao còn nói chuyện giả ân giả nghĩ vì dân làm việc nghĩa.
Nói dứt lời ông bái một vòng chào hết mọi người rồilui ra khỏi tiệc. Hốt Tất Liệt cung kính tiễn ra.
Kim Luân Pháp Vương và Tiêu Tương Tử nghĩ bụng:
- Tốn baonhiêu công phu tâm trí mới dụ được hắn về đây. Bây giờ Thái tử lại tiễn hắn ra khỏi tiệc, thì có khác chi thả hổ về rừng.
Nhưng khi Hốt Tất Liệt đưa Quách Tĩnh bước ra khỏi lều thì bỗng có tám người dũng sĩ xông ra bao vây Quách Tĩnh nạt lớn:
-Quách Tĩnh, từ khi tại thành Tương Dương mi giết hại anh em chúng tao ko biết bao nhiêu mà kể. Hôm nay gặp nhau tại đây, đừng có dương oai múa mỏ nữa. Vương gia ta cho mi về, chứ anh em ta quyết chẳng dung mi toàn mạng.
Nói xong cả tám người dùng thế đô vật xông lại tấn công.
Từ thuở bé, Quách Tĩnh đã sống tại Mông Cổ đã học và luyện rất nhiều về phép đô vật của xứ này cho nên ông cũng dùng đô vật mà chống lại. Ông vừa ra tay ko đầy mấy phút, cả tám tên lực lưỡng đã bị ném văng ra xa lắc nằm ko cục cựa, bao nhiêu người đứng gần cất tiếng cười vang.
Ngay lúc ấy từng hồi ốc tù và rú lên, ba bốn thiên nhan đội từ bốn phương tám hướng nhất tề xông ra, vây chặt Quách Tĩnh và Dương Qua vào chính giữa.
Quách Tĩnh liếc nhìn qua tình hình cũng thấy nao núng, bèn ghé tai Dương Qua dặn nhỏ:
- Hãy giựt cho được một cái khiên để che tên, xông ra hướng Nam một đoạn rồi bất ngờ tiến về phía bắc.
Tuy ngạc nhiên, nhưng Dương Qua chợt hiểu ngay dụng ý của Quách Tĩnh.
Vì thành Tương Dương ở về phía Nam nên tất nhiên quân Mông Cổ đã bố trí án ngữ nơi đó chặt chẽ hơn, bây giờ chạy về phía bắc dễ dàng hơn. Còn đang phân vân, bỗng nhiên từ phía dinh trại của Hốt Tất Liệt có bốn bóng đen lao vút ra như tên bắn. Tiếp theo là tiếng kêu vi vu, hai chiếc vòng sắt và đồng trong tay Kim Luân Pháp Vương đã quay tít tấn công tới tấp.
Kim Luân Pháp Vương vừa ngăn đầu ngựa trong vài phút thì tiếp tới bọn Doãn Khắc Tây và Ni ma Tinh cũng xông ra ngay, cùng bủa vây hai người rất chặt chẽ,.
Quách Tĩnh nhận xét trong mấy người đang bao vây có Doãn Khắc Tây tương đối kém hơn, nên tung song chưởng giả bộ đãnh dứ vào mặt Tiểu Tương Tử rồi bất thình lình theo tư thế "thần long bài vĩ" nắm chặt lấy ngọn roi của Doãn Khắc Tây.
Doãn Khắc Tây tự lượng mình ko đủ sức chống cự lại Quách Tĩnh và giật roi cũng ko xong, nên nhảy liều tới trước rút ra ngọn đoản đao đâm vào hông Quách Tĩnh cốt dùng áp lực này khiến ông phải buông roi ra.
Ko ngờ Quách Tĩnh đã ko chịu buông roi mà còn sử dụng chiêu thế cầm nã thủ giật luông chiếc đoản đao trong tay hắn.
Trong tình trạng thập phân nguy biến ấy thì Kim Luân Pháp Vương và TIểu Tương Tử đã đòng thời tấn công tới kịp.
Thấy ko thể nhân nhượng được nữa, Quách Tĩnh thét lên một tiếng long trời, một luồng sức mạnh từ trong tay ông chuyền vào ngọn roi rồi xuyên thẳng vào ngực khiến cho Doãn Khắc Tây có cảm giác như bị một ngọn dùi lửa đâm vào tim, chịu ko nổi la lên một tiếng, thổ ngay mấy búng máu rồi phi thân ra ngoài vòng chiến đấu.
Kim Luân Pháp Vương thấy chỉ trong vài ngọn đầu mà Quách Tĩnh đã loại được Doãn Khắc Tây ra ngoaì vòng chíên đấu thì ngán vô cùng. Trong lòng ông vừa mừng vừa sợ lẫn lộn. Mừng là đã loại được một đối thủ trong chức vị đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ sợ là vì Quách Tĩnh qủa là trang vũ dũng phi thường đúng như lời thiên hạ truyền tụng, nếu hở cơ một ly là sẽ bị mất mạng như chơi.
Trong khi bị bốn năm tay cao thủ võ lâm nguy khốn, bên ngoài thì hàng vạn binh lính và chiến mã bao bọc không biết mấy trăm vòng.
Quách Tĩnh vẫn ko nao núng. Ông lần lượt giở hết tuyệt nghệ của Giáng long thập bát chưởng để chống lại. Dương Qua vẫn ung dung đứng ngoài vòng chiến theo dõi trận đấu.
Hai bên đánh nhau hơn trăm hiệp chưa phân thắng bại. Bỗng nhiên Tiểu Tương Tử rú lên một tiếng, lao vút người lên ko trung rơi từ trên nhào xuống, đầu gậy nhắm thẳng vào người Quách Tĩnh, ông vừa qua một bên tránh né, bỗng thấy từ đầu gậy xẹt ra một lằn khói xanh xám bao phủ cả người Quách Tĩnh. Quách Tĩnh vừa hít phải tự nhiên đầu óc choáng váng, nên đoán biết địch thủ đánh thuốc độc, ông vội vàng áp dụng tư thế "Kiến long tại điền" trong Giáng long thập bát chưởng, đánh bật cả người và gậy văng xa hơn một trượng.
Tiểu Tương Tử cố gắng nhoai người lại chĩa đầu gậy phóng thêm hơi độc nữa. Lần này Quách Tĩnh đã đề phòng rồi nên thi triển thế "Tầm long vật dụng" là chưởng lực toả ra bốn bề nhưng tại ngay giữa lòng bàn tay lại có.
Khi vận dụng nội lực để chống chọi lại nhưng ko thấy trở lực, hắn đã biết mình trúng kế vội vàng thu trở về, nhưng đã muộn rồi. Chưởng lực của Quách Tĩnh đã bao trùm khắp chung quanh như một cái nơm úp kín, Tiêu Tương Tử thất kinh hồn vía, vội vàng lăn tròn dưới đất để lánh né và trốn đòn. Quách Tĩnh nhân cơ hội này bèn nhảy vọt ra khỏi vòng vây thét lớn:
- Qua nhi, mau mau theo ta.
Thấy Quách Tĩnh đã thoát khỏi vòng vây, Kim Luân Pháp Vương tức tốc tung người phóng theo. Nhưng Quách Tĩnh đã giật được hai ngọn giáo dài lao vút trở lại để cản hậu.
Thấy hai cây giáo như hai con thần long lao tới ngay mình. Kim Luân bèn vũ lộng hai chiếc vòng ngăn lại. Nhờ đó, Quách Tĩnh đã thoát được và lẫn vào đám biển người.
Lúc đó ông tả xung hữu đột một mình, vẫy vùng trong đám người như rồng tiên uốn khúc, đột nhiên tách rời ra một bên, trở về phương Bắc để thoát khỏi vòng vây. Ông đưa tay vào miệng rít lên tiếng còi lảnh lót. Tức thì con TIểu hồng mã đã vùn vụt phi lại nhưng gió thổi.
Dương Qua đứng nhìn theo thấy rằng nếu để cho Quách Tĩnh lên được lưng Tiểu Hồng Mã thì có khác chi thả cọp về rừng, rồng thần xuống biển, làm sao cản nổi nữa, nên chàng nghĩ ra một kế bèn ngã ngửa ra sau miệng la lớn:
- Ôi chao, chết tôi rồi!
Quả nhiên tiếng kêu có hiệu lực phi thường. Quách Tĩnh đã leo lên lưng Tiểu hồng mã nhưng vừa nghe Dương Qua kêu lớn bèn quay mình trở lại xông lại gần hỏi ngay:
- Sao thế cháu, có hề chi ko?
Dương Qua trả lời yếu ớt:
- Cháu đang kịch chiến cùng Mã quang tổ bỗng thấy trên ngực đau nhói, chắc có lẽ vì dùng sức quá nhiều nên bị nội thương cũng nên.
Quách Tĩnh sốt sắng bảo:
- Vậy cháu hãy mau mau leo lên lưng để bác công thoát ra khỏi vòng vây.
Dương Qua đang lưỡng lự thì Quách Tĩnh đã khòm xuống kéo Dương Qua bỏ ngay lên lưng rồi phi thân ra hướng Băc.
Ngay lúc ấy Kim Luân Pháp Vương, Tiểu Tương Tử và Ni ma Tinh đã xông lại vây chặt Quách Tĩnh vào giữa. Trong tiếng quân reo tở mở, Quách Tĩnh thi triển thần lực đánh nhau và liếc mắt nhìn về phía xa thấy Hốt Tất Liệt đang bưngly rượu lên môi tỏ ý vui mừng như sắp bắt được ông.
Quách Tĩnh nổi nóng bèn cõng Dương Qua chạy thẳng về hướng đó. Hơn mấy chục thân binh liều chết xông ra truy cản. Dương Qua nghĩ bụng:
- Nếu để Quách Tĩnh đánh được Hốt Tất Liệt thì việc lớn hỏng bét.
Chàng bèn rút thanh Quân tử kiếm nắm nơi tay rồi hỏi Quách Tĩnh:
- Bác Quách, xưa kia cha tôi đã làm tội gì đại ác, nên buộc lòng bác phải giết ôngấyphải ko?
Quách Tĩnh thật lòng đáp không suy nghĩ:
- Cha mi là kẻ phản dân hại nước, ai ai cũng có bổn phận phải giết đi.
Dương Qua cười gằn:
- A, té ra thế sao?
Chàng trở mạnh thanh quân tử kiếm nhắm ngay ót Quách Tĩnh thọc mạnh xuống một nhát. Làn kiếm đang ngon trớn cắm xuống bỗng chạm phải một vật gì vụt ngang qua một bên ko trúng đích. Dương Qua nhìn lại vật ấy là chiếc gậy của TIêu Tương Tử.
Thấy hắn gạt kiếm mình Dương Qua ngạc nhiên nhưng chàng chợt hiểu ngay: - Hắn sợ mình giết mất Quách Tĩnh thì đoạt cả chức"Đệ nhất dũng sĩ" đây chứ gì? Cũng vì cái hư danh hão huyền này mà hắn lại cản mũi mình thật đáng tức.
Chàng nổi nóng, vung quân tử kiếmtấn công Tiêu Tương Tử luôn ba thế buộc hắn phải dang ra để có thể quay kiếm lại đâm Quách Tĩnh lần nữa, nhưng nhát kiếm thứ hai vừa vung ra thì lại bị gậy của Tiêu Tương Tử vụt tới gạt đi lần nữa.
Trong khi đó Quách Tĩnh đang bận tâm đối phó cùng Kim Luân Pháp Vương nên ko hề hay biết việc gì xảy ra trên vai. Khi thấy Tiêu Tương Tử cứ lăn xả vào tấn công Dương Qua hoài ông bỗng nổi giận vùng bàn tay tả tống ra một chưởng đẩy hắn văng ra xa mấy bước.
Ngay lúc ấy, phía trước mặt Kim Luân Pháp Vương tấn công gấp nên buộc Quách Tĩnh phải dùng tay chống đỡ lại. Tiêu Tương Tử thấy ông đang bận lo mặt trước lại xông vào tấn công Dương Qua nữa.
Giận quá, Quách Tĩnh ko nương tay nữa, ông bèn dùng thế "Thần long bài vỹ" vụt trúng Tiêu Tương Tử một chưởng la "oái" thật to. Nhưng vì hở cơ Quách Tĩnh cũng lãnh một đòn của Kim Luân Pháp Vương vào hông trái nhưng ko hề gì.
Thừa dịp này, Ni Ma Tinh dùng gậy đầu rắn thọc mạnh phía dưới nách, Quách Tĩnh tung một bước như trời giáng vào lưng Ni ma Tinh khiến hắn lộn một vòng lên cao, gãy luôn ba chiếc xương sườn.
Thừa lúc Quách Tĩnh bị thương Kim Luân Pháp Vương cả mừng và thêm hứng chí tấn công như bão táp, Quách Tĩnh thấy một sức nặng như núi Thái Sơn dồn ép vào người, trước ngực nóng ran, hộc ra một búng máu.
Tuy bị thương ói máu nhưng Quách Tĩnh vẫn ko quên Dương Qua và gọi lớn:
- Dương Qua, cháu hãy cướp một con ngựa lánh thân trước đi, đã có ta cản hậu đây rồi.
Thấy trong giờ phút nguy nan mà Quách Tĩnh vẫn một lòng lo nghĩ tới mình, Dương Qua cảm thấy thẹn thùng trong dạ. Chàng bèn nhảy xuống vung cây quân tử kiếm vùn vụt chém ngang chặt dọc như con hổ điên khiến bọn Tiêu tương Tử phải gạt qua một bên và ngạc nhiên hỏi:
- Dương Qua, tại sao vậy, ngươi điên rồi sao?
Dương Qua bất chấp những lời của chúng, trong miệng cứ lẩm bẩm mãi:
- Quách bá phụ, cháu đã làm hại bác, cháu đã hại bác.
Trong lúc ấy nọc độc của cây xà trượng bắt đầu công phạt, khiến Quách Tĩnh thấy đầu óc đảo lộn, đứng ko vững nữa, té ngồi xuống đất.
Dương Qua phải cõng Quách Tĩnh lên vai mà chạy. Vì phải thêm gánh nặng trên mình, việc day trở có phần chậm chạp nên ko bao lâu chàng đã lãnh một chiếc vòng trên vai, máu chảy đầm đề.
Trong lúc thập tử nhất sinh, bỗng nhiên hàng ngũ quân Mông Cổ náo loạn, từ trong đám xông ra một người hình dáng kì dị, một tay chống gậy sắt, tay cầm búa thợ rèn, xông vào tiếp tay cùng Dương Qua. Người ấy là Phùng Mặc Phong, đệ tử của Hoàng Dược Sư đảo chúa.
Nguyên Phùng Mặc Phong bị trưng dụng vào trong quân ngũ Mông Cổ để làm thợ rèn sửa sang binh khí cho lính. Nhưng trong thâm tâm của ông lúc nào cũng nuôi hi vọng sẽ sát hại được một vài viên tướng Mông Cổ để lấy thành tích trước khi tẩu thoát. Nhưng chờ mãi chưa có được cơ hội thuận tiện. Hôm nay thấy Quách Tĩnh và Dương Qua bị vây ngặt nghèo ông mới xuất đầu lộ diện xông ra tiếp cứu.
Nhưng vì võ công của Phùng Mặc Phong, so với bọn Kim Luân Pháp Vương còn sút kém một bực xa cho nên ko được một hiệp đã bị dồn vào thế lúng túng rồi.
Nhân lúc hỗn loạn, Tiêu Tương Tử giáng mạnh một gậy xuống đầu Quách Tĩnh, đồng thời bấm nút cho thuốc độc xịt ra thêm. Không ngờ Dương Qua đã liều mạng nắm được đầu gậy, còn tay kia đâm lẹ một gươm khiến Tiêu Tương tử phải buông để thoát thân.
Không ngờ nhờ thế này mà Dương Qua đã được cây xà trượng lợi hại của hắn.
Trong khi Dương Qua lo giật gậy đã để một khoảng trống phía trên lưng Quách Tĩnh. Kim luân pháp vương thừa thế đưa tay chộp thẳng vào lưng ông, định bắt sống.
Thấy tình thế quá ư khẩn cấp, Phùng Mặc Phong bèn liều mạng đánh tạt một búa vào lưng Kim luân để giải đòn cho Quách Tĩnh.
Nhưng Kim Luân quá ư lợi hại, một mặt phóng chiếc vòng đỡ búa Mặc Phong, còn tay kia vẫn tung ra chộp lưng Quách Tĩnh ko tha.
Phùng Mặc Phong liều chết, thét to lên một tiếng vang trời rồi nhảy vào ôm chầm lấy Kim Luân mà vặt. Bị ôm bất ngờ, Kim Luân thất thế té ngửa trên mặt đất. Ông nổi nóng tống luôn một cùi chỏ vào hông Mặc Phong làm gãy hết một xương sườn.
Tuy bị trọng thương, nhưng Phùng mặc Phong vẫn bám riết Kim Luân ko tha, khiến ông điên tiết tống luôn bốn quyền chết tốt.
Nhờ giây phút hỗn độn này mà Dương Qua thoát khỏi vòng vây, tay múa chiếc gậy của Tiểu Tương Tử cản hậu.
Hàng vạn binh lĩnh của Hốt Tất Liệt ồ ạt, tuôn tới như nước vỡ bờ. Dương Qua vung tít cây gậy cản lại. Trong lúc bất ngờ chàng bấm trúng cái nút khiến một luồng khói đen từ đầu gậy xông ra làm cho gần một trăm quân đứng gần ngã quay chết giấc. Thừa dịp ấy Dương Qua thoát khỏi vòng vây chạy miết.
Chạy thoát độ vài dặm, chàng huýt gió gọi con hồng mã của mình. Nghe dấu hiệu của chủ, con ngựa khôn ngoan phi bốn vó chạy tới như bay.
Nhưng Dương Qua leo lên giục chạy quá trăm trượng thì nó đã đuối sức đi chậm dần. Phía sau, muôn binh Mông Cổ đuổi tới rất gấp. Trên lưng Dương Qua, Quách Tĩnh lại hôn mê lần nữa.
Trong lúc quá nguy cấp, Dương Qua dùng roi quất vào ngựa. Ko ngờ trong lúc hấp tấp chàng đập trúng chân Quách Tĩnh, ông bị đánh choàng tỉnh dậy mở mắt nhìn bốn phía rồi huýt còi gọi con Tiểu hồng mã. Vừa nghe tiếng còi con Tiểu hồng mã từ trong rừng người xông ra phi tới vùn vụt như một vệt đỏ kèm sát một bên.
Thấy con hồng mã đã kiệt sức. Dương Qua hít một hơi dài vận sức vác Quách Tĩnhphóc lên mình TIểu Hồng mã, thúc chạy như tên bắn.
Ngay lúc đó từ phía sau hàng vạn mũi tên cũng lao tới như mưa bấc. Con hồng mã hí lên một tiếng não nùng quỵ hai chân trước vì bị tên nhưng nó vẫn có gượng nhìn chủ trân trân, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng trước khi ngã gục.
Con Tiểu hồng mã lao vút như trận cuồng phong, ko mấy chốc đã vượt đi quá xa, thoát nạn.
Dương Qua hai tay ôm Quách Tĩnh vào lòng tha thiết hỏi:
- Quách bá phụ, bác có sao ko?
Nhưng Quách Tĩnh hôn mê trở lại, nín thinh ko nói.
Dương Qua thất kinh vội đưa tay sờ vào ngực Quách Tĩnh, thấy tim còn đập nhẹ. Chàng cũng kiệt sức quá, ôm lấy Quách Tĩnh gục trên mình ngựa, mặc cho con tuấn mã sải bốn vó suốt đường trường.
Chàng mệt quá thiết đi một hồi lâu, khi chợt tỉnh dậy bỗng thấy lô nhô trước mặt có một đạo quân đón đường, hình như muốn bắt Quách Tĩnh nữa. Chàng say máu rút kiếm chém loạn xạ miệng thét lớn:
- Ko ai được chạm tới bá phụ ta, hãy tránh xa ra, tránh ra.
Con Tiểu hồng mã bỗng bị trúng tên nơi chân quỵ xuống hất hai người ngã xuống đất. Dương Qua thả Quách Tĩnh thiếp mất.
Chàng hôn mê ko biết bao nhiêu, đến khi tỉnh dậy lại gọi lớn:
- Các người hãy giết tôi đi, xin đừng hại tới bá phụ tôi.
Rồi chàng quơ quào bốn phía dớn dác hỏi:
- Bá phụ? Quách bá phụ đâu rồi?
Bỗng văng vẳng bên tai có giọng ai ngọt ngào bảo:
- Dương Qua, Dương Qua, Quách bá phụ ko hề chi đâu. Đừng ngại. Dương Qua ngạc nhiên mở choàng mắt nhìn lên.
Người nói đó chính là Hoàng Dung. Phía sau, Tiểu long nữ đang đứng nhìn mình, đôi mắt còn đẫm lệ.
Dương Qua vùng thét lớn:
- ủa, cô nương cũng bị chúng nó vây hay sao? Chạy mau lên đi cô nương, nguy lắm rồi.
Tiểu long Nữ dịu dàng bảo:
- Dương Qua hãy bình tĩnh, chúng ta đều đang ở trong thành Tương Dương cả đây mà.
Dương Qua thở dài một cái như trút bớt lo âu. Rồi vì tứ chi rũ liệt, trong người mệt mỏi như giần, chàng lại thiếtp đi lần nữa. Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng Hoàng Dung dặn Tiểu long nữ:
- Nó sẽ tỉnh lại ngay chứ ko hề chi đâu mà ngại. Cô ngồi đây săn sóc và xem chừng nó nhé.
Và Tiểu long Nữ khẽ đáp:
- Vâng.
Hoàng Dung mỉm cười định bước đi, bỗng nghe tiếng sột soạt khẽ động trên mái ngói. Biết có kẻ gian lẻn vào Hoàng Dung biến sắc vội phất tay áo bao nhiêu đèn trong phòng vụt tắt, căn phòng chìm đắm trong màn đen như mực, Dương Qua vừa tỉnh dậy, thấy tứ bề tối quá chẳng hiểu vì lẽ gì vội chống tay lồm cồm ngồi dậy.
Trải qua một trận chiến ác liệt hao tổn quá nhiều khí lực thêm vết thương nơi vai làm mất quá nhiều máu. Dương Qua đã ngất đi mấy lượt. May nhờ Hoàng Dung cho uống hai viên "Cửu hoa ngọc lộ" và tĩnh dưỡng nửa ngày bây giờ đã gần phục sức lại đầy đủ. Vừa nghe chạm nhẹ trên mái nhà, Dương Qua cũng vùng dậy hăm hở định nhảy lên ứng chiến.
Nhưng Tiểu long nữ đã đưa tay cản lại, rút thanh giai nhân kiếm để sẵn nơi đầu giường khẽ bảo:
- Dương Qua hãy nằm im, có em bảo vệ và lo liệu cho mọi việc.
Chàng vâng lời nằm lại như cũ.
Thần điêu đại hiệp - Hồi 055
Vì Nứớc Quên Tình Nhà
Ngay lúc đó có tiếng người cười ha hả trên mái ngói, rồi nói lớn:
- Tôi là người mang thơ của Quốc Sư Mông Cổ đến đây, nhưng không ngờ quý vị lại tiếp khách trong bóng tối như thế này, lạ thực.
Nghe giọng nói, mọi người đoán biết tên này là Hà Đô một đệ tử của Kim Luân Pháp Vương. Hoàng Dung đâu có chịu nhịn, bèn nói khích lại:
- Chúng ta tùy theo người mà tiếp đãi. Giữa thanh thiên bạch nhật thì tiếp người quang minh lỗi lạc, còn trong bóng tối lại tiếp những phường chuột nhắt ăn sương.
Hà Đô cứng họng không biết đối đáp ra sao, vội phi thân nhảy xuống sân và nói lớn:
- Kim Luân Pháp Vương sai tôi mang thư kính dâng Quánh đại hiệp.
Hoàng Dung đưa tay mở rộng cánh cửa phòng bảo lớn:
- Vậy xin mời vào trong.
Hà Đô ái ngại nhìn vào trong bóng tối đen, không dám vào, cứ đứng lẩn quẩn ngoài phòng mãi, rồi nói tiếp:
- Thư đây này, xin nhận lấy.
Hoàng Dung cười lớn bảo:
- Đã tự xưng là khách tại sao người ta mời vào mà không dám vào?
Hà Đô đáp:
- Người quân tử không khi nào vào nơi ám địa, sợ có kẻ tiểu nhân dụng kế ám hại bất ngờ.
Hoàng Dung mắng lại ngay:
- Tự xưng là quân tử mà lấy dạ tiểu nhơn để độ lòng người sao không biết nhục?
Hà Đô thẹn quá đỏ mặt, chỉ ấp úng không biết trả lời làm sao. Hắn cố đem hết tinh thần vào đôi mắt nhìn thử vào trong, nhưng mọi vật đều nhuộm một màu đen tối, hắn bèn dùng hai tay cầm thư chìa vào ngưỡng cửa. Ngay lúc ấy, Hoàng Dung thọc gậy ngay vào giữa mặt khiến hắn giật mình hết vía, muốn ngã ngửa ra sau, nhìn lại thì phong thư đã biến đâu mất rồi. Té ra Hoàng Dung dùng gậy lấy phong thư chứ không phải dụng ý đâm hắn như hắn đã lầm tưởng. Thẹn quá, Hà Đô chẳng biết làm gì hơn nữa, chắp tay nói:
- Xin kính chào Hoàng Bang chủ.
Nói vừa dứt lời y quay quả lui ra. Nhưng Hoàng Dung thầm nghĩ: "Thành Tương Dương của chúng ta đâu phải chỗ xuất nhập tự do như mi hòng tưởng? Hôm nay ta phải cho mi nếm một bài học đích đáng để mi biết thân nhé". Vừa nghĩ xong, bà bèn chụp lấy bình trà trên mặt bàn hất mạnh ra ngoài cửa một cái. Một dòng nước từ trong vòi trà bắn mạnh ra ngoài xẹt một đường xối mạnh vào người Hà Đô rát lạt, khiến cho từ đầu tới lưng hắn ướt mèm. Vì chất nước nóng và bắn quá mạnh, khiến cho y thất kinh nghi ngại không biết chất độc gì nên vội vàng lộn mình một vòng nhào đại ra sau để né tránh, nhưng đã muộn rồi.
Hoàng Dung thừa thế tung gạy gạt ngang, khi chân hắn vừa chạm trên mặt đất đã bị gậy quẹt té lăn cù nằm dài trên mặt đất. Ngay khi đó hai anh em họ Võ nghe tiếng nói cùng nhau chạy tới. Hoàng Dung ra lệnh trói Hà Đô lại tức thì. Hai người tuân lệnh, cùng xông lại. Nhưng khi chưa đụng tới người hắn thì thảy đều bị điểm trúng huyệt mình mẩy cứng đơ. Thừa dịp có hai anh họ Võ che trước mặt, Hà Đô lanh chân tung mình nhảy trái ra ngoài tẩu thoát. Nhưng khi chân hắn vừa đặt trên đầu tường thì Hoàng Dung đã cảnh cáo:
- Mi đã trúng độc của ta rồi mà chưa biết thân còn tìm đường trốn tránh làm chi nữa cho thiệt thân?
Hà Đô nghe nói hoảng kinh hồn vía nên nghĩ thầm:
- Trời ơi thuốc độc hèn chi nóng bỏng cả da thịt. Không biết đây thuộc loại thuốc độc gì?
Nhìn vẻ mặt ngơ ngác lo âu của hắn, Hoàng Dung đã thừa đoán rõ tim đen của hắn rồi nói thêm để áp đảo tinh thần hắn đang dao động:
- Mi trúng thuốc độc nhưng chưa biết tên của nó thành thử dù có chết cũng không yên lòng. Để mi khỏi ức lòng lúc nhắm mắt, ta cũng làm ơn báo cho mi biết nhé. Độc dược này tên gọi là "Tý ngọ kiến cốt".
Hà Đô ngơ ngác nói nhỏ:
- Tý ngọ kiến cốt ư?
Hoàng Dung cười lớn và nói thêm:
- Phải đấy, Kẻ nào trúng phải thuốc độc này vào người hồi giờ Tý thì qua giờ Ngọ không còn hồn nữa. Như thế thì trong vòng mười hai tiếng đồng hồ nữa thôi thì mi sẽ theo ông bà về chầu Diêm chúa.
Hà Đô nghe nói rụng rời tay chân, xửng lửng đứng trên bờ tường tâm thần ngơ ngác, không biết nên xuống hay nhảy ra ngoài. Nhưng Hoàng Dung đoán thấy y cũng là người lanh lẹ, nếu để kéo dài e phát giác ra sự thật, nên mở lời:
- Ta với mi vốn không thù không oán, nếu mi không tỏ lời vô lễ ngạo mạn thì đâu đến nỗi chết tức tối như thế này. Thật cũng đáng tiếc.
Hà Đô nghe nói có vẻ ít gắng thì trong bụng hy vọng còn có cơ cứu vãn. Hắn cố dìm lòng tự ái từ trên tường vọt xuống, phủ phục trước mặt Hoàng Dung thưa lớn:
- Kẻ tiểu nhân trót dại khờ xúc phạm đến bề trên, xin Hoàng Bang chúa niệm tình nhất thứ.
Từ trong phòng tối, Hoàng Dung búng ra một viên "cửu hoa ngọc lộ" và bảo lớn:
- Hãy uống ngay đi.
Hà Đô mừng quá hai tay chộp lấy viên thuốc bỏ ngay vào miệng nuốt liền. Thuốc vừa qua khỏi cổ bỗng nghe thấy thơm tho và mát rượi, khiến toàn thân cảm thấy sảng khoái vô cùng. Một luồng sình khí từ đan điền xông ra tỏa khắp châu thân, cả tứ chi đêu thấy nhẹ nhàng thư thái. Hắn vái dài một cái và nói:
- Thành thật cảm tạ Hoàng Bang chúa thương tình cứu mạng.
Nói rồi khép nép thụt lùi sân ra tận vách tường rồi mới nhảy lên đi mất.
Hà Đô đi khỏi, Hoàng Dung thở ra một hơi dài rồi ngồi lên chiếc ghế nghỉ cho bớt mệt. Một chập sau Tiểu long Nữ đốt đèn lên, bà bóc thư ra đọc:
"Đệ nhất quốc sư Mông Cổ là Kinh Luân Pháp Vương kính gửi Quách đại hiệp.
Thật hân hạnh được tiếp xúc hôm nay cùng Quách đại hiệp, nhưng rất tiêc là Quách đại hiệp lại vội ra đi. Để phỉ tình mong ước, xin kính báo trước là ngày mai tôi sẽ tới tận quý phủ để viếng đại hiệp. Mong đại hiệp đừng để cho kẻ này bị thất vọng".
Đọc xong bức thư Hoàng Dung thấy đổ mồ hôi hột. Bà bèn trao cho Tiểu long Nữ và Dương Qua cùng xem và nói thêm:
- Thành Tương Dương tuy kiên cố nhưng làm sao cản được những tay cao thủ võ lâm? Hiện nay Quách bá phụ của cháu hoang mang, bệnh chưa khá, ta lại gần ngày sinh đẻ. Nếu công khai nghênh chiến thì phần thất bại chắc về phần ta. Cháu nghĩ sao?
Dương Qua ấp úng nói:
- Quách bá phụ...
Nhưng Tiểu long Nữ đã cắt ngang câu nói của chàng:
- Anh cứ lo toàn những chuyện viển vông của thiên hạ đến nỗi mang thương tích và trọng bệnh như thế hoài.
Hoàng Dung nghe nói có bụng nghi ngờ nên nói dò:
- Long cô nương, hiện nay Dương Qua và Quách bá phụ đang đau nặng, nơi đây chỉ còn một mình Chu tử Liễu may ra có thể giúp sức được mà thôi. Cô có thể giúp cho chúng tôi không?
Tiểu long Nữ tánh tình chân thật nghĩ sao nói vậy không biết lời lẽ môi miếng gì hết:
- Hiện nay tôi chỉ biết lo cho Dương Qua lành bệnh mà thôi ngoài ra không còn điều gì phải bận tâm nữa.
Câu nói cộc lốc càng khiến Hoàng Dung nghi ngờ hơn nữa. Bà bèn mời nàng về phòng riêng gạn hỏi. Con người của Tiểu long Nữ thành thật thẳng thắn đã quen không thể giấu giếm ai được một điều gì cho nên nàng đã nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho Hoàng Dung nghe. Từ khi gặp lại Dương Qua tại động Thủy tiên, trúng độc Tình hoa, nào là cuộc mưu sát hại vợ chồng Quách Tỉnh để đổi thuốc độc, mọi việc ra sao nàng đều thuật lại rõ ràng không thiếu một chi tiết.
Hoàng Dung nghe nói vô cùng ngạc nhiên. Lúc đầu bà ngờ Dương Qua muốn giết hại Quách Tỉnh là để trả thù cha mà thôi, nhưng thật không dè lại có câu chuyện bí ẩn như thế nữa. Bà không ngờ Cừu thiên Lý còn người em gái là Cừu thiên Xích, nên không thể tưởng tượng đến mối thù rắc rối này thêm. Mặc dù có những nguyên nhân này mà Dương Qua vẫn tận tình cứu giúp Quách Tỉnh cho đến mang trọng bệnh, thì quả là một tấm lòng hào hiệp đáng kính vô cùng. Hành động này không khác chi là một cuộc tự sát.
Hoàng Dung thở dài đứng dậy đi đi lại lại trong phòng không biết bao nhiêu bận, cố tìm cách đối phó với Kim luân Pháp vương. Thình lình từ phía ngoài có tiếng chân người chạy vào và có tiếng Quách Phù gọi rối rít:
- Mẹ ơi, mẹ...
Hoàng Dung đứng lại hỏi:
- Chuyện gì thế?
Quách Phù vừa khóc vừa nói:
- Hai anh em họ Võ đã đem nhau ra ngoài thành quyết đấu một trận sống còn. Họ thề một còn một mất mới trở về đây. Làm thế nào hở mẹ?
Hoàng Dung bực mình gắt:
- Chuyện quốc gia đã rối ren còn lắm chuyện trẻ con nữa? Mặc kệ chúng nó, đừng có bận rộn nữa.
Nói xong bà ngồi xuống ghế lặng thinh. Trong khi ấy Quách Tỉnh cựa mình, và ngoài kia trời đã rạng sáng. Quách Tỉnh nói khẽ:
- Em nhớ dặn hai anh em họ Võ phải canh phòng cẩn mật nhé. Quân địch biết anh đang trọng bệnh thế nào cũng thừa dịp đánh úp bất ngờ, nếu hở cơ sẽ trở tay không kịp đấy.
Hoàng Dung gật đầu vâng dạ. Bà không dám nói chuyện hai anh em họ Võ ra ngoài và cũng không hề thổ lộ việc Kim Luân hẹn tới đây, vì sợ Quách Tỉnh lo lắng có hại cho sức khỏe.
Quách Tỉnh lại hỏi thêm:
- Cháu Qua bệnh tình ra sao? Có khá hơn chút nào không?
Ngay lúc ấy, Dương Qua vừa tới trước cửa phòng, nghe nói liền lên tiếng đáp:
- Thưa Quách bá bá, cháu chỉ bị ngoại thương nhẹ, sau khi được bá mẫu cho uống "Cửu hoa ngọc lộ" đã bình phục lại rồi. Bá bá đừng lo ngại làm chi.
Từ khi Quách Phù vào phòng, Tiểu long Nữ bỏ đi ra ngoài Dương Qua nhìn quanh quất không thấy bóng Tiểu long Nữ đâu mới hỏi:
- Quách bá mẫu, cô nương tôi không vào đây sao?
Hoàng Dung đáp:
- Cô mới vừa nói chuyện cùng ta đó. Có lẽ mới bước ra ngoài chăng.
Dương Qua muốn rút lui ra ngoài để tìm Tiểu long Nữ, thì bỗng từ trần mái nhà tận đàng xa một chuỗi cười nổi lên theo gió sớm dội vào tận tai mọi người. Tiếp theo tiếng cười là những tiếng leng keng từ các vòng sắt phát ra nghe rùng rợn. Kim Luân Pháp Vương đã tới rồi.
Quách Tỉnh biến sắc, nắm tay Hoàng Dung kéo ra phía sau lưng mình để che giấu. Nhưng Hoàng Dung đã bình tĩnh nói:
- Tỉnh ca, anh hãy nghĩ lại xem thành Tương Dương quan trọng hay mối tình hai ta quan trọng? Mạng em và mạng anh, mạng nào hệ trọng hơn?
Nghe nói, Quách Tỉnh buông tay vợ ra đáp:
- Phải đó, việc nước trên việc nhà, tình chung hơn tình riêng chứ.
Hoàng Dung rút cây gậy trúc ra đứng ngay giữa nhà chờ đợi.
Nghe hai vợ chồng Quách Tỉnh đối đáp cùng nhau. Dương Qua bàng hoàng như sét nổ bên tai. Chàng lẩm bẩm:
- Phải, nợ nước trước tình nhà, việc chung lên việc riêng, đúng lắm.
Bao lần qua, chàng chẳng ngại gian nguy xả thân cứu Quách Tỉnh vì cảm kích bởi tấm lòng đại nghĩa của ông. Chàng muốn liều chết để xứng đáng với một tâm hồn cao thượng thanh cao ấy. Hôm nay được nghe thêm câu "việc nước trên tình nhà". Dương Qua bỗng sực nhớ lại câu nói của Quách Tỉnh đã thoát ra ngoài thành Tương Dương hôm nọ: "vị quốc, vị dân, hiệp chí đại giả". Bao nhiêu đó đã cởi mở tất cả những khúc chiết và gúc mắc từ lâu trong lòng chàng. Dương Qua suy nghĩ: "vợ chồng Quách bá bá tình thâm nghĩa trọng, nhưng gặp lúc nước nhà nguy biến, đã vì đại cuộc gác tình riêng qua một bên, huống chi ta đây, lúc nào cũng chỉ hẹp hòi trong việc báo thù riêng và vì mối tình cùng Tiểu long Nữ, đến nỗi quên cả cái cảnh nhà tan, hàng triệu bá tánh sanh linh đồ thán vì bàn chân quân giặc, so với tâm hồn Quách Tỉnh, mình còn thấp thỏi hèn hạ quá". Trong giây phút ấy, Dương Qua cảm thấy tâm tư cởi mở, đầu óc sáng suốt thanh thản vô cùng.
Ngày còn trên Đào Hoa đảo, Hoàng Dung thường dạy chàng mấy câu "sát nhân thành nhân, xá sinh thù nghĩa", bây giờ các câu ấy hiện lại rành rành trong trí óc, khiến chàng cảm thấy thẹn thùng, muốn làm một việc gì cao thượng để bù lại với những cử chỉ và tư tưởng hẹp hòi và vị kỷ của mình. Với những ý nghĩ ấy, Dương Qua tự thấy cõi lòng phấn khởi và xem thường tất cả mọi nguy hiểm.
Hoàng Dung liếc mắt theo dõi thái độ Dương Qua. Bà thấy chàng có vẻ thẫn thờ như hổ thẹn, dần dần đôi mắt sáng lên như có điều gì kích động, và sau cùng trở nên bình tĩnh, nên không hiểu trong thâm tâm chàng đang suy nghĩ những gì. Bà đang suy nghiệm thì Dương Qua đã rút phăng thanh Quân tử kiếm nhảy lại đứng cạnh Hoàng Dung, miệng nói:
- Xin bá mẫu cứ bình tĩnh, tôi xin hết lòng cùng bá mẫu để đối phó với bọn dã man này.
Ngay lúc đó, Kim Luân Pháp Vương, hai tay cầm hai chiếc vòng đang đứng trên mái ngói, cười lớn, nói:
- Dương Qua, con người như mi phản phúc không chừng, sớm đầu tối đánh, quả không bằng một đứa tiểu nhân. Mày có tự thấy hổ thẹn không?
Dương Qua vẫn điềm tĩnh tươi cười đáp lại ngay:
- Kim Luân, lời mi nói chí lý lắm đấy. Nhưng mi có biết tại sao ta đổi ý giúp sức Quách Tỉnh về tới thành Tương Dương rồi trốn ở xó nào mất tích đến nay ta chưa tìm ra được, mi có biết lão đang ở chốn nào không?
Miệng đáp, chàng đã phi thân lên nóc nhà, đứng cách Kim Luân chừng vài thước mà thôi.
Kim Luân nghe Dương Qua hỏi, khẽ liếc chàng một cái trong lòng phân vân suy nghĩ: "Thằng bé này thật quỷ quyệt nhiều mưu kế, không biết nó nói thật hay nói đùa nữa dây?
Y mỉm cười nhìn Dương Qua hỏi lại:
- Nếu mi gặp hắn thì sao?
Dương Qua đáp ngay:
- Thì ta sẽ vung kiếm lên...
Miệng đáp, tay đưa kiếm lên cao làm ra vẻ muốn đâm xuống.
Kim Luân ngạc nhiên hỏi:
- Sao, mi dám đâm Quách Tinh ư?
(mất 2 trang)
Nghĩ xong chàng cất tiếng gọi lớn:
- Cô nương, có tôi tiếp chiến đây này.
Nói xong vũ lộng thanh kiếm tấn công thật mạnh khiến Kim Luân phải thối lui mấy bước rồi tung mình chạy tới chỗ Tiểu long Nữ. Thấy Dương Qua chạy đi rồi, Kim Luán không đuổi theo mà chỉ lo băng bó vết thương rồi cúi xuống phía dưới nhà thét lớn:
- Quách Tỉnh đã trốn xó nào, có giỏi hãy ra đây xem thử?
Kêu gọi nói khích hồi lâu không thấy Quách Tỉnh đáp lại, y nổi nóng nghĩ ra rồi nhảy xuống dưới châm mồi phóng hỏa. Hắn chạy một vòng đốt luôn năm sáu chỗ, lửa bốc ngất trời. Thấy lửa cháy ngùn ngụt Kim Luân đắc chí nghĩ bụng: "Lửa cháy như vầy, xem mi trốn đàng nào cho biết".
Dương Qua thấy lửa đỏ rực trời thất kinh nghĩ bụng: "Quách bá bá đang mang bệnh, Quách bá mẫu lại gần ngày sanh nếu vì lửa cháy chạy ra gặp Kim Luân thì làm sao chống cự lại". Nghĩ xong, chàng xách kiếm trở vào phòng tìm Quách Tỉnh. Khi tới gần giường, thấy Hoàng Dung đang ngồi cạnh Quách Tỉnh nằm mê man, nhưng nét mặt bà vô cùng bình tĩnh, không lộ chút gì là rối loạn, hình như xung quanh không có điều gì xảy ra hết. Dương Qua bước lại gần khẽ bảo:
- Quách bá mẫu. Để cháu dụ địch ra ngoài rồi bá mẫu dìu Quách bá phụ lánh đi nơi khác tỵ nạn nhé.
Nói xong, chàng giật chiếc mũ của Quách Tỉnh đang đội rồi vọt ra ngoài đi mất. Hoàng Dung đang bỡ ngỡ chưa biết chàng toan tính việc chi, nhưng thấy khói lửa rợp trời, trong phòng cũng tràn ngập những lửa thì đứng dậy đỡ Quách Tỉnh nói nhỏ:
- Thôi, chúng mình đi nơi khác.
Vừa định rời đi thì bỗng nhiên trong bụng đau quặn từng cơn, tay chân rời rã đứng không vững nữa. Bà liền ngồi trở xuống, nghiến răng nói thầm:
- Tại sao không để khi khác, lại lựa khi nguy ngập như thế này mà đẻ, ác thật!
Bụng càng đau gắt và sắp sanh.
Dương Qua chạy ra khỏi cửa, nhìn qua làn khói lửa mịt mù thấy quân lính xôn xao tấp nập, tiếng la hét vang trời. Kẻ lo chữa lửa, người lo đánh nhau và bắn lên mái ngói. Trong khi ấy những người đang đánh nhau chia thành ba toán rõ rệt. Tiểu long Nữ cự với Tiêu tương Tử và Ni ma Tinh, Chu tử Liễu chống với Đạt nhĩ Ma và Hà Đô. Phía gần đấy, Kim Luân pháp Vương múa tít đôi vòng bao phủ khắp mình Quách Phù, tuy không cố giết hại nàng nhưng muốn bức bách nàng phải khai chỗ ẩn nấp của cha mẹ để tới bắt.
Quách Phù đầu tóc rối bời, nghiến răng trợn mắt quyết tử chiến với Kim Luân chứ không chịu khai.
Dương Qua thoát ra khỏi cửa thấy một tên quân thân hình vạm vỡ đang cầm cung bắn lên mái nhà. Chàng đưa tay điểm huyệt cho nó mê man, đem chụp cái mũ Quách Tỉnh lên đâu rồi cõng lên vai, phi thân bay lên nóc nhà bên cạnh. Kim Luân đang bức bách Quách Phù, trông thấy Dương Qua cõng một người đầu đội mũ chạy trên mái ngói, bèn bỏ nàng, phi thân đuổi theo bén gót. Tiêu tương Tử, Ni ma Tinh và Đạt nhĩ Ma cũng vừa trông thấy, ai ai cũng bỏ cuộc đấu, băng mình đuổi theo tới tấp.
Dương Qua chạy ngang qua mặt Tiểu long Nữ, đưa mắt nhìn nàng nhoẻn một nụ cười hóm hỉnh, chưa biết dụng ý gì. Tiểu long Nữ thấy vậy biết chàng đã có mưu mô chi đây nên trong bụng cũng đỡ lo.
Ngay lúc ấy, từ phía dưới, giữa đám khói lửa có tiếng con nít khóc oa oa. Quách Phù lắng tai nghe rồi vỗ tay nói:
- Đẻ rồi, mẹ em đã đẻ em bé rồi!
Reo xong nàng phi thân xuống dưới chạy tìm. Tiểu long Nữ cũng động tính hiếu kỳ, bèn chạy theo Quách Phù xem thử em bé ra sao.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...