Kiếm được một triệu đôla bằng con đường bất hợp pháp đã khó, kiếm được cũng chừng ấy đôla bằng con đường hợp pháop còn khó khăn hơn; nhưng giữ được số đola đó mới là khó khăn thực sự. Henryk Metelski là một trong những số ít người làm được cả ba việc này. Thậm chí nếu gã có dùng một triệu đôla bất hợp pháp để kiếm ra một triệu đolq hợp pháp thì gã cũng hơm hẳn những người khác: Gã biết cách giữ nó ! Henryk Metelski sinh ra trong một gia đình bốn người con, tại một căn phòng chật hẹp ở khu Lower East, New York, vào ngày 17 tháng Năm, năm 1909. Cậu bé lớn lên trong thời đại khủng hỏang, chỉ biết tin vào Chúa và một bữa ăn mỗi ngày. Cha mẹ cậu là người vùng Warsaw,di cư từ Ba Lan sang hồi đầu thế kỷ. Cha của Henryk là một thợ nướng bánh nên đã nhanh chóng tìm được việc làm ở New York, nơi những người Ba Lan nhập cư chuyên làm bánh mì đen và quản lý các nhà hàng nhỏ phục vụ đồng hương. Cả cha và mẹ Henryk đều mong muốn cậu thành đạt trên con đường học vấn nhưng cậu lại chưa bao giờ có ý định trở thành học sinh xuất sắc của trườnng, năng khiếu bẩm sinh của cậu nằm ở chỗ khác. Rất khôn ngoan, lanh lợi,nhưng cậu thích quan tâm tới việ buôn bán thuốc lá và rượu lậu trong trường hơn là học thuộc những câu chuyên về cách mạng Mỹ và chiếc Chuông Tự do. Henryk không bao giờ tin rằng điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời này lại là tự do; sự đam mê tiền bạc và quyền lực đến với cậu tự nhiên như thể mèo sinh ra đã thích bắt chuột. Năm Henryk 14 tuổi thì cha cậu chết vì bị ung thư. Chưa đầy ba năm sau, mẹ cậu cũng qua đời. Thế là bốn anh em cậu phải tự sống nuôi nhau. Lẽ ra, Henryk cũng phải vào sống tại cô nhi viện địa phương như ba người anh em của mình, nhưng vào giữa những năm 1920 thì chuyện một đứa trẻ mấtti1ch ở New York chẳng hề được ai quan tâm nên Henryk đã dễ dàng trốn thóat khỏi viện cô nhi đó.Tuy vậy, kiếm được miếng ăn để sống sót qua ngảy chẳng dễ dàng chút nào. Nhưng Henryk đã thành công,và trường đời đã dạy cậu nhiều điều bổ ích lúc đó cũng như cho cuộc sống sau này. Với cái bụng kép lẹp và đôi mắt tinh ranh, câu lang thang khắp vùng Lower East, nay đánh giảy, mai rửa bát, nhưng vẫn luôn để tâm tìm đường lọt vào mê cungn của tiền bạc và quyền lực. Cơ hội đầu tiên của cậu là khi Jan Pelnik, bạn cùng phòng trọ, phải nghỉ việc vì bị ngộ độc thức ăn. Jan Pelnik là người đưa tin của Sở Giao dịch Chứng khóan New York. Henryk, được bạn nhờ đến xin nghỉ ốm, đã phóng đại việc ngộ độc thức ăn thành bệnh lao phổi, và đề nghị được thế chân bạn. Sau đó, cậu thuê chỗ ở mới, mặc đồng phục mới. Mất đi một người bạn, nhưng lại được việc làm. Hầu hết các bức điện mà Henryk chuyển đi vào đầu những năm hai mươi đều có tên "Mua" và nhiều cái trong đó là điện khẩn, vì đây là thời kỳ kinh tế bùngn nổ. Cậu thấy nhiều kẻ ngu dốt nhờ may mắn đã kiếm được bạc tỷ, trong khi cậu vẫn chẳng kiếm được gì ngòai vai trò một kẻ quan sát. Bản năng hướng cậu quan tâm đến những người mà chỉ trong một tuần, đã kiếm được số tiền lớn gấp bội tổng số lương mà cậu hy vọng cho cả cuộc đời. Cậu bắt đầu học cách nghiên cứu thị trường chứng khóan: lắng nghe các cuộc nói chuyện riêng, lén mở các bức điện có dấu và khám phá các báo cáo. Mới 18 tuổi, Henryk đã có bốn năm kinh nghiệm ở Wall Street. Bốn năm mà hầu hết những người đưa tin chỉ đơn giản tiêu phí vào việc chạy lên chạy xuống các tầng nhà đông đúc, di chuyển chững tấm giấy màu hồng; nhưng đối với Henryk Metelski, bốn năm đó có giá trị tương đương với bốn năm ở Trường Thương nghiệp Harvard. Một sáng tháng Bảy năm 1927, Henryk phải chuyển một bức điện của Halgarten & Co., một văn phòng môi giới có bề dày tên tuổi. Trên đường đi, cậu rẽ vào nhà vệ sinh xem trộm bức điện. qua một thời gian làm việc, henryk đã tự vạch ra ình một lộ trình mà nhờ đó , có thể giấu mình trong phòng nhỏ, nghiên cứu xác định giá trị nội dung các bức điện rồi ngay lập tức , gọi điện cho Witold Gronowich, một người Ba Lan đứng tuổi, chủ của một Công ty Bảo hiểm nhỏ phục vụ những người đồng hương. Henryk dự tính kiếm thêm được 20 đến 25 đôla mỗi tuần nhờ việc cung cấp tin mật. Còn Gronowich thì hứa không bao giờ để lộ ra ai là người bán tin. Ngồi trên bồn nhà cầu, Henryk chăm chú đọc bức điện và dần dần nhận ra tầm quan trọng của nó. Thống đốc bang Texas quyết định cấp giấy phép cho Công ty Dầu lửa Standard xây dựng đường ống dẫn dầu từ Chicago đến Mexico.Tất cả các tổ chức Chính phủ liên quan đều đã thông qua quyết định này. Các nhân viên Sở giao dịch Chứng khóan đều biết rằng suốt một năm qua, Công ty Standard đã làm mọi cách để có giấy phép xây dựng đường ống dẫn dầu, nhưng hầu như không ai tin rằng Thống đốc rồi sẽ phê chuẩn. Bưc điện khẩn mà Henryk đang đọc là của một người môi giới của John D. Rockerfeller gửi cho Tucker Anthony. Sự phê chuẩn này củ Thống đốc bang sẽ làm cho tòan bộ các vùng phía Bắc phát triển thành nơi cung ứng dầu lửa và sẽ mang lại nhiều lợi nhuận. Nhưng Henryk chỉ quan tâm tới giá các cổ phiếu của Standard Oil. Chắc chắn, thị giá của chúng sẽ tăng vọt, nhất là khi Standard Oil đã kiểm sóat chín mươi phần trăm các xưởng lọc dầu ở Mỹ. Lẽ ra, Henryk phải chuyển thẳng tin tức này cho Gronowich, nhưng đúng vào lúc vừa ra khỏi ngăn vệ sinh, cậu nhìn thấy một mẩu giấy nhỏ màu hồng rơi ra khỏi túi một ông béo cũng đang bước ra từ ngăn kế bên. Chẳng có ai xung quanh, Henryk nặt mẩu giấy và quay trở lại chỗ cũ, lòng nghĩ, nếu may mắn thì mảnh giấy này sẽ tiết lộ một tin tức quan trọng khác. Nhưng thực tế, đó là một tấm sức trị gí 50.000 đola của một quý bà Rennick nào đó. Henryk quyết định rất nhanh. Cậu lao ra khỏi phòng vệ sinh, và ngay lập tức, có mặt trên phố Wall. Cậu đến quán cà phê nhỏ trên phố Recton, giả vờ uống coca-cola, nhưng kì thực là để thảo ra một kế họach cho riêng mình. Trước hết, cậu đến một chi nhánh của Ngân hàng Morgan ở phí tây nam của Wall Street, đổi tấm séc ra tiền mặt. Với bộ đồng phục lịch sự của nhân viên đưa tin Sở giao dịch chứng khóan, cậu dễ dàng đi vào ngân hàng, như bất cứ một ông chủ hãng nào đó. Sau đó, cậu trở lại Sở giao dịch, nhờ một người môi giới mua 2.500 cổ phiếu của Standard Oil và giữ lại 126.61 đôla để gửi vào tài khòan vãng lai ở Ngân hàng Morgan. Xong xuôi, cậu trở về với công việc hàng ngày nhưng vẫn nóng lòng chờ đón thông báo của văn phòng Thống đốc. Suốt ngày hôm đó, lúc nào cậu cũng bị Standard Oil ám ảnh, kể cảm khi đang đọc các bức điện khác trong nhà vệ sinh. Chờ mãi mà vẫn không thấy một thông báo nào, Henryk đâu có biết thông tin này được ngâm lại cho tới tận ba giờ chiều, giờ Sở giao dịch Chứng khóan đóng cửa, để chính bản thân ngài Thống đốc có thể vơ vét các cổ phiếu của Standard Oil ở tất cả những nơi mà bàn tay bạch tuội của ngài có thể vươn tới. Tối hôm đó, Henryk trở về nhà, lòng đau đớn với ý nghĩ cậu đã mắc một sai lầm tai hại. Cậu có nguy cơ mất việc, và mất tất cả những gì mà cậu chắt chiu xây dựng suốt bốn năm qua, hơn thế nữa, có thể cậu sẽ phải ngồi tù. Đêm đã khuya mà Henryk vẫn chưa hề chợp mắt. Cậu mở hết tất cả các cửa sổ mà vẫn cảm thấy ngột ngạt. Tới một giờ thì sức chịu đựng của cậu cạn kiệt, cậu nhảy ra khỏi giường, cạo râu, mặc quần áo, rồi đón xe điện ngầm đến nhà ga trung tâm Grand. Từ đây, cậu đi bộ đến Quảng trường Times để mua tờ Wall Street Juornal số đầu tiên. Với đôi bàn tay run rẩy, một hàng tít lớn đập thẳng vào mắt cậu : THỐNG ĐỐC TRAO QUYỀN XÂY DỰNG ĐƯỜNG ỐNG DẪN DẦU CHO ROCKERFELLER dưới đó lại là một tiêu đề phụ : GIÁ CỦA STANDARD OIL TĂNG VỌT Trong chốc lát, Henryk không hiểu mình đang đọc cái gì. Sau đó, cậu quyết định đến một quán cà phê ban đêm trên phố West 42, gọi một chiếc xúc xích, một khoanh dăm bông thật lớn, khoai tây chiên, và nước sốt cà chua. Rồi cậu nhấm nháp chút một, chút một , như thể người tử tù thưởng thức bữa ăn cuối cùng trước khi lên ghế điện, chứ không phải người đang đứng ở ngưỡng cửa của sự giàu sang. Cậu ngấu nghiến đọc câu chuyện chi tiết về sự táo bạo của Rockerfeller trên trang nhất và trang mười bốn. Liên tục, từ lúc đó cho đến bốn giờ sáng, cậu đã mua ba số đầu tiên của tờ New York Times, hai số đầu tiên của tờ Herald Tribune để khẳng định độ chính xác của các thông tin. sau đó, Henryk hối hả về nhà, lòng rộn rànng, hoan hỉ. Cậu thay đồng phục rồi đi làm. Tám giờ đúng, cậu có mặt tại Sở Giao dich, làm các công việc được giao một cách chiếu lệ vì đầu óc còn mãi nghĩ tới phương thưc thực hiện phần hai của kế họach. Khi Sở Giao dịch chính thức mở cửa thì Henryk đến Ngân hàng Morgan, đề nghị được vay 50.000 đôla ghi tên bà Rose Rennik. Sau đó cậu đi tìm địa chỉ và số điện thọai củ nhà hảo tâm vô tình này Bà Rennick là một quả phụ sống dựa hòan tòan vào các khỏan đầu tư của ông chồng quá cố. Bà ta sống trong một căn hộ nhỏ trên phố 62, con phố mà Henryk vẫn nghe mọi người nói, là hiện đại nhất New York. cú đện thọai của người nào đó tên Henryk Meteleski đề nghị được gặp vì có việc khẩn đã khiến bà Rennick thấy tin tưởng hơn đôi chút và đồng ý gặp người đó tại Waldorf - Astoria, hồi bốn giờ chiều. Henryk chua bao giờ bước chân vào Waldorf - Astoria, nhưng sau bốn năm làm việc ở Sở Giao dịch, ít có khách sạn hoặc nhà hàng nổi tiếng nào mà cậu lại không được nghe người ta nhắc đến. cậu nhận thấy bà Rennick có vẻ thích được uống trà với cậu ở Waldorf - Astoria hơn là gặp gỡ một ông nào đó có cái tên henryk Metelski trong căn hộ của bà, đặc biệt là vì chất giọng Ba Lan của cậu, nói trên điện thọai khó nghe hơn là khi trò chuyện trực tiếp. Henryk đang đứng trên hành lang trải thảm của Waldorf, cảm thấy xấu hổ về cách ăn mặc của mình. Bị ám ảnh bởi cảm giác tất cả mọi người đang nhìn mình chằm chằm, cậu cố giấu cái thân hình chắc nịch, béo lùn của mình vào một chiếc ghế rất thanh nhã trong phòng Jefferson. Giờ đây, cậu lại lấy làm tiếc vì đã bôi quá nhiều dầu trơn lên mái tóc den bồng bềnh, và quá ít lên đôi giày đế thấp. Quá hoang mang, cậu cứ đưa tay sờ liên tục vào cái mụn nhỏ ở bên mép và nôn nao chờ đợi. Bộ vest mà mỗi lần mặc vào cậu đều cảm thấy tự tin hơn trong đám bạn bè, giờ đây sao quá kệch cỡm và rẻ tiền. cậu thấy mình không hợp với cách bài trí nội thất ở đây, lại càng không hòa hợp được với khách hàng của Waldorf. lần đầu tiên trong đời cậu biết thế nào là sự thiếu thốn. cậu nhặt đại tờ New Yrorker và giấu mình sau tờ báo, thầm cầu nguyện cho bà khách của mình hãy sớm xuất hiện. Nhân viên phục vụ không thèm để ý đến sự có mặt của cậu, họ cứ đi đi lại lại quanh các dãy bàn được trang trí và bày biện rất đẹp mắt. cậu nhận thấy có một người chẳng làm gì khác hơn là đi quanh phòng trà, dùng bàn tay đeo găng trắng gắp lên những viên đường trắng. henryk thực sự bị gây ấn tượng bởi hình ảnh này. Hơn bốn giờ một chút thì bà Rennick xuất hiện cùng với hai con chó nhỏ. henryk đóan bà ta chùng hơn sáu mươi tuổi. Bà ta đội một chiếc mũ rộng vành kỳ quặc chưa từng thấy, ăn mặc quá diêm dúa và trang điểm quá nhiều. bà ta qua béo, nhưng lại có nụ cười rất ấm áp, đôn hâu, và có vẻ như đã quen biết hết thảy mọi người ở đây. Khi nhìn thấy Henryk, người bà đóan là hẹn gặp mình, bà hơi ngạc nhiên chẳng những vì cách ăn mặc kỳ lạ của cậu, mà còn vì cậu trẻ hơn rất nhiều so với tuổi mười tám. Trong lúc bà Rennick gọi trà, Henryk ngân nga kể lại câu chuyện mà cậu đã thuộc lòng. Có một chút nhầm lẫn nhỏ xảy ra : người ta đã gửi nhầm tờ séc của bà tới Công ty của cậu, ông chủ cậu bèn sai cậu mang trả lại tấm séc cho bà ngay lập tức, và nói với bà là ông rất lấy làm tiếc vì cái sai lầm ngớ ngẩn kia. Rồi Henryk đưa cho bà ta tờ hối phiếu 50.000 đola và còn nói thêm rằng cậu sẽ bị mất việc nếu bà làm to chuyện, vì cậu phải chịu trách nhiệm hòan tòan về việc này. thực ra , bà Rennick vừa mới được thông báo về việc mất séc sáng nay, và bà cũng chưa hề biết nó đã bị đổi ra tiền mặt. Vẻ lo lắng thực sự của Henryk đã gợi lên trong bà Rennick một sự thông cảm. Bà đồng ý bỏ qua chuyện này, và thấy rất vui vì tiền của bà đã trở về nguyên vẹn. Henryk thở phào nhẹ nhõm. Lần đầu tiên trong ngày, cậu thấy hài lòng với bản thân, thậm chí, cậu còn gọi người bồi đeo găng tay trắng lấy đường cho cậu. Sau đó , Henryk cáo lui, lấy lý do phải trở lại với công việc. cậu cám ơn bà Rennick vì sự độ lượng của bà, thanh tóan hóa đơn hai tách trà rồi về. ra đến ngòai phố, cậu sung sướng húyt một điệu sáo. Chiếc sơ mi mới tinh của cậu ướt đẫm mồ hôi( có lẽ bà Rennick sẽ gọi đây là sự bài tiết) nhưng bây giờ thì cậu đang ở ngòai trời, cậu có thể tự do hít thở. công việc làm ăn đầu tiên của cậu đã thành công tốt đẹp. Cậu dừng lại trên đại lộ công viên, bật cười vì điểm hẹn gặp bà Rennick cũng chính là nơi John D Rockerfeller, Giám đốc của Standard Oil có phòng nghỉ riêng. Henryk đã đi bộ tới đây, đã vào bằng lối cửa chính còn ngài Rockerfeller lại tới sớm hơn một chút, theo đường ngầm, và đi lên bằng thang máy riêng tới tận tầng tháp. Rất ít người New York biết rằng ông vua dầu lửa này có một nhà ga riêng ở độ sâu năm mươi foot, ngay dưới chân Waldorf - Astoria để ông ta không bao giờ phải đi qua tám khu phố tới nhà ga trung tâm. trong khi Henryk đang mạn đàm với bà Rennick về tờ séc 50.000 đola thì tại tầng thứ năm mươi bảy, ngay trên đầu họ, Rockerfeller cũng đang bàn bạc với Andrew W. Menllon, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, về khỏan đầu tư 5.000.000 đôla. Sáng hôm sau, henryk trở lại làm việc bình thường nhưng cậu biết rằng trong 5 ngày tiếp theo, cậu phải bán hết các cổ phiếu cũng như trả hết nợ cho Ngân hàng Morgan và người môi giới, vì tài khoản trên thị trường giao dịch New York chỉ có giá trị trong năm ngày kinh doanh hoặc bảy ngày theo lịch thường niên.Vào ngày cuối cùng, giá cổ phiếu dừng ở mức 23,25 đôla. Cậu bán được 23.125 đola, thanh toán số tiền vốn 49.625 đôla và thu về 7.900 đôla. Cậu gửi tiếp số này vào ngân hàng Morgan. Liền 3 năm sau đó, Henryk không gọi điện cho Gronowich nữa, mà thực sự bắt tay vào công việc kinh doanh của bản thân. Lúc đầu, gã chỉ có một số vốn rất nhỏ, nhưng rồi con số này ngày càng mọc đuôi dài ra, vì gã vốn tinh ranh, đã học đuợc rất nhiều kinh nghiệm ở sở Giao dịch, hơn nữa, gã lại là con người tự tin. Thời gian bao giờ cũng là vàng. Khi làm ăn không có lãi thì gã lại học được cách làm chủ thị trường trái phiếu ; ngay cả khi giá cổ phiếu tuột thấp hoặc tăng cao vọt. Mánh lới của gã là : Khi giá cổ phiếu đang tụt thì phải bán trước kỳ hạn - trong kinh doanh, không có đạo lý. Chẳng bao lâu, gã học được nghệ thuật bán các cổ phiếu không thuộc quyền sở hữu cá nhân trong trường hợp giá cả đang hạ. Giác quan cảm nhận các dao động trên thị trường của gã ngày một nhạy bén hơn, và thị hiếu của gã về quần áo cũng ngàyn một hợp lý hơn. Tính láu cá mà gã học được ở khu Lower East vẫn luôn tỏ ra hữu ích. Ít lâu sau, gã lại khám phá thêm một điều : Thế giới là một khu rừng rậm - nhiều khi sư tử và hổ cùng đội lốt người. Khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm 1929 thì số tiền lời 7.490 đôla của Henryk đã biến thành một lượng cổ phiếu trị giá 51.000 đôla. và một ngày trước khi Chủ tịch Công ty Halgarten & Co. nhảy qua cửa sổ Sở Giao dịch để tự tử thì Henryk đã thanh toán sạch sẽ các cổ phiếu của mình. Và với số lãi mới, gã chuyển sang sống ở một căn hộ khá lịch sự trên phố Brooklyn và bắt đầu đi lại bằng chiếc Statz màu đỏ bóng loáng. Mặc dù tuổi đời còn rất trẻ, Henryk cũng nhận thấy rằng gã vào đời với ba điều bất lợi : Tên tuổi, tiểu sử và sự nghèo khó. Tiền bạc đã tự nó giải quyết cái nghèo, còn bây giờ, gã phải kết thúc hai vấn đề còn lại. để làm được việc này, gã đã đệ đơn lên tòa án, xin phép được đổi tên thành Harvey David Metcalfe. Tòa án chấp thuận, gã liền tuyệt giao với bạn bè trong cộng đồng người Ba Lan, và tháng Năm năm 1930, gã bước vào tuổi thành niên với một cái tên mới,. Một năm sau, trong một trận đấu bóng , gã gặp và làm quen với Roger Sharpley. Tới đây, gã lại khám phá thêm một điều mới mẻ nữa : Người giàu cũng có nỗi niềm riêng. Sharpley là người Boston. Anh ta thừa kế của cha một Công ty chuyên nhập khẩu whisky và xuất khẩu lông thú. Đã theo học tại trường Choate và Trường Cao đẳng Dartmouth, Sharpley có tất cả những gì m2 người Boston ao ước - lòng tự tin và sự duyên dáng. Anh cao ráo, đẹp trai, có vẻ dòng dõi người Viking, và rõ ra là một tay ăn chơi sành sỏi. Mọi thứ đều đến với anh rất dễ dàng - đặc biệt là phụ nữ. Xét về bản chất, anh và Harvey trái ngược nhau hoàn toàn, nhưng chính sự đối lập đó đã hút họ lại với nhau như hai thanh nam châm đối cực. Tham vọng duy nhất của Roger là được trở thành sĩ quan Hải quân, nhưng sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Dartmouth, anh phải trở về với công việc kinh doanh của gia đình vì cha anh không được khỏe. Song, vừa mới điều hành Công ty được một tháng thì cha anh qua đời. Roger rất muốn bán đấu giá Công ty Sharpley & Con trai, nhưng cha anh đã lập một di chúc phụ, trong đó nói : Mếu Roger bán Công Ty Sharpley & Con trai trước ngày sinh nhật lần thứ bốn mươi ( ngày cuối cùng người ta có thể ghi tên nhập Hải quân) thì số tiền bán Công ty phải được chia đều cho toàn thể họ hàng. Harvey suy nghĩ rất nhiều về vấn đề của Roger. Sau hai lần gặp gỡ với một luật sư giỏi ở New York, gã đã vạch cho Roger một phương án : Harvey sẽ mua 49% Công ty Sharpley & Con trai với giá 100.000 đôla và 20.000 đola lợi nhuận mỗi năm. Đến lần sinh nhật thứ bốn mưoi thì Roger sẽ nhượng nốt 51% còn lại với giá 100.000 đôla. Để có thể kiểm soát toàn bộ Công ty, gã sẽ lập ra một ban giám đốc mới gồm 3 người : harvey, Roger và một người do Harvey chỉ định. Theo harvey thì Roger hoàn toàn có thể gia nhập Hải quân và chỉ cần tham dự các cuộc họp Đại hội cổ đông. Roger không ngờ mình lại quá may mắn như vậy và cũng không muốn tham khảo ý kiến của một ai, vì biết họ sẽ thuyết phục anh chống lại "lòng tốt" của Harvey. Còn Harvey rất tin tưởng vào vụ làm ăn này. Gã đã đánh giá đúnng con mồi. Roger chỉ cần suy nghĩ về lời đề nghị của Harvey trong một vài ngày rồi quyết định lên New York làm các thủ tục pháp lý. Trong khi đó, Harvey đến vay ngân hàng Morgan 50.000 đôla. Các ngân hàng vốn thường đầu tư vào tương lai, hơn thế nữa, Harvey đang được xem là một khách hàng có tiềm năng, nên người quản lý đã đồng ý cho gã vay số tiền đó. thế là harvey đã có thể mua 49^Công ty Sharpley & Con trai để trở thành vị giám đốc thứ năm của Công ty. Các thủ tục pháp lý được hoàn tất tại New York vào ngày 28 tháng Mười năm 1930.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...