Giờ là 11:36. Đã quá nửa buổi sáng từ lâu. Chậm trễ là điều không thể tha thứ đối với người làm trong ngành y.
Anh nhìn thấy Banks ngó chân anh hai lần. Anh tóm được cậu bé lần thứ hai và không ngạc nhiên khi thấy viên thám tử đỏ mặt.
Rhyme nói: “Tôi sợ rằng tôi không có thời gian để giúp đỡ các anh.’
“Nhưng bác sĩ vẫn chưa đến, đúng không?” Lon Sellitto hỏi bằng một giọng cứng rắn mà anh ta thường dùng để xuyên thủng các câu chuyện bịa đặt của những nghi phạm giết người.
Thom xuất hiện ở cửa với một ấm cà phê.
“Đồ ngốc”, Rhyme buột miệng.
“Lincoln quên mời các quý vị mấy thứ.”
“Thom đối xử với tôi như một đứa trẻ.”
“Nếu đúng thế”, anh chàng trợ lý trả miếng.
“Được rồi”, Rhyme thủng thẳng. “Mời dùng cà phê. Tôi sẽ uống ít sữa mẹ.”
“Quá sớm, quán vẫn chưa mở cửa.” Thom nói. Và anh ta cũng khiến mặt Rhyme ửng đỏ.
Ánh mắt Banks lại quét một lần nữa trên cơ thể Rhyme. Có thể cậu ta nghĩ chỉ toàn da bọc xương. Nhưng hiện tượng teo cơ đã chấm dứt không lâu sau tai nạn và những nhân viên vật lý trị liệu đầu tiên của anh đã làm anh kiệt sức với các bài tập. Thom cũng là một nhân viên vật lý trị liệu tốt, mặc dù đôi khi cậu ta giống như một thằng ngốc, nhưng những lần khác lại tỏ ra như một con gà mái già. Hằng ngày, cậu ta bắt Rhyme thực hiện các bài tập ROM[14] thụ động. Kỹ càng ghi lại các chỉ số đo góc – thang đo dùng để đo mức độ chuyển động được anh ta áp dụng vào từng khớp xương trong cơ thể Rhyme. Kiểm tra cẩn thận mức độ suy căng cơ khi cậu ta tập cho chân tay anh bằng những chu kỳ dang khép cố định. Bài tập ROM không phải phép màu nhưng nó tạo ra một chút rắn chắc cho cơ bắp, giảm những cơn co cứng làm ta đuối sức và giữ áu lưu thông. Với một người mà hoạt động cơ bắp chỉ giới hạn ở vai, đầu và ngón đeo nhẫn bên tay trái trong ba năm rưỡi thì tình trạng của Lincoln Rhyme không phải là tệ.
Viên thám tử trẻ rời mắt khỏi bảng điều khiển ECU[15] màu đen, rắc rối, nằm cạnh ngón tay Rhyme, được nối với những bộ điều khiển khác, những ống dẫn và dây cáp loằng ngoằng, được nối với một chiếc máy tính và một màn hình treo trên tường.
Cuộc đời của anh chàng đã bị trói buộc, trước đó rất lâu, một nhân viên trị liệu đã nói với Rhyme như thế. Ít nhất, đó là những anh chàng giàu có. Những anh chàng may mắn.
Sellitto nói: “Sáng nay có một vụ giết người ở West Side.”
“Chúng tôi nhận được báo cáo về một số người đàn ông, phụ nữ vô gia cư mất tích trong mấy tháng qua”, Banks nói. “Đầu tiên chúng tôi nghĩ có thể là một trong số họ. Nhưng không phải vậy”, cậu ta nói thêm đầy kịch tính. “Nạn nhân là một trong những người đêm qua.”
Rhyme tỏ vẻ trống rỗng trước khuôn mặt lấm chấm của chàng trai. “Những người?”
“Anh ta không xem thời sự”, Thom nói. “Nếu cậu nói về vụ bắt cóc thì anh ta chưa nghe đến.”
“Anh không xem thời sự?” Sellitto cười phá. “Ở SOB[16] anh đọc bốn tờ báo một ngày và ghi lại bản tin địa phương để xem khi đi làm về. Blaine nói với tôi một đêm anh gọi cô ấy là Katie Couric[17] trong khi làm tình.”
“Giờ tôi chỉ đọc văn học”, Rhyme nói một cách khoa trương, giả dối.
Thom nói thêm: “Văn học luôn là tin mới.”
Rhyme lờ cậu ta đi.
Sellitto nói: “Một người đàn ông và một phụ nữ đi công tác từ Bờ Biển về. Lên một chiếc Yellow Cab tại sân bay JFK. Không bao giờ về đến nhà.”
“Có báo cáo lúc khoảng mười một giờ ba mươi. Chiếc taxi chạy theo hướng BQE[18] tại khu Queens. Hành khách nam và nữ da trắng ngồi ghế sau. Có vẻ họ đã thử đập cửa sổ. Đập kính. Không người nào có thẻ ghi hay đeo hình trái tim có lồng ảnh.”
“Nhân chứng – người nhìn thấy chiếc taxi ấy có nhìn rõ tay tài xế không?”
“Không”.
“Hành khách nữ?”
“Không có dấu hiệu gì của cô ta.”
11:41. Rhyme đang điên tiết vì bác sĩ William Berger. “Làm ăn chán chết”, anh lầm bầm một cách trống rỗng.
Sellitto thở dài não nề.
“Tiếp đi, tiếp đi”, Rhyme nói.
“Anh ta đeo chiếc nhẫn của cô ta”, Banks nói.
“Ai đeo cái gì?”
“Nạn nhân. Người ta vừa tìm thấy anh ta sáng nay. Tay anh ta đeo chiếc nhẫn của người phụ nữ. Người hành khách kia.”
“Cậu chắc đấy là nhẫn của cô ta chứ?”
“Có tên viết tắt của cô ta ở mặt trong chiếc nhẫn.”
“Thế là anh có một đối tượng”, Rhyme tiếp tục, “kẻ muốn anh biết hắn ta đã bắt được người phụ nữ và cô ta vẫn còn sống”.
“Đối tượng gì?” Thom hỏi.
Sellitto nói khi Rhyme lại lờ cậu ta đi: “Đối tượng chưa biết.”
“Nhưng anh biết hắn làm thế nào để đeo vừa nó vào ngón tau nạn nhân không?” Banks hỏi, hơi nhướn mắt để thêm ấn tượng với Ryhme. “Cái nhẫn của cô ta ấy mà?”
“Tôi chịu.”
“Lóc hết da trên ngón tay anh ta. Hết sạch. Đến tận xương.’
Rhyme nặn ra nụ cười nhợt nhạt. “Hắn ta thông minh đấy chứ?”
“Vì sao lại là thông minh?”
“Để đảm bảo là không ai dám đến lấy chiếc nhẫn đi. Nó đầy máu, đúng không?”
“Kinh lắm.”
“Đầu tiên là rất khó nhận ra chiếc nhẫn. Rồi thì AIDS, viêm gan. Kể cả nếu ai đó nhận ra, nhiều người cũng sẽ bỏ qua món chiến lợi phẩm đó. Tên cô ta là gì, Lon?”
Viên thám tử lớn tuổi gật đầu ra hiệu với đồng nghiệp, anh này mở cuốn sổ ghi chép của mình.
“Tammine Jean Colfax. Cô ta hay dùng cách gọi T.J. Hai mươi tám tuổi. Làm việc cho Morgan Stanley.”
Rhyme nhận thấy Banks cũng đeo nhẫn. Một dạng nhẫn biểu tượng của trường học. Cậu chàng này bóng bẩy quá mức, chỉ đơn thuần là tốt nghiệp trung học hay Học viện Cảnh sát. Không có tí mùi quân đội nào ở cậu ta. Sẽ không ngạc nhiên nếu viên đá quý kia có tên là Yale[19]. Một thám tử điều tra án mạng ư? Thế giới này đang đi về đâu?
Viên cảnh sát trẻ ôm cốc cà phê bằng hai bàn tay đang run lẩy bẩy. Bằng một động tác nhỏ, Rhyme rê ngón tay đeo nhẫn trên bảng điều khiển ECU của công ty Everest & Jennings[20] được kẹp ở bàn tay trái của anh và bấm vào hệ thống phục vụ cá nhân một lệnh chỉnh giảm điều hòa nhiệt độ. Anh thường không mất công kiểm soát những thứ như lò sưởi và điều hòa mà dành sức cho những thứ cần thiết hơn như ánh sáng, máy tính và cái khung lật trang của anh. Nhưng khi phòng quá lạnh thì anh bị sổ mũi. Và đó là sự tra tấn thực sự đối với một anh chàng như anh.
“Không có thư đòi tiền chuộc à?” Rhyme hỏi.
“Chẳng có gì.”
“Anh là sĩ quan điều tra vụ này?” Rhyme hỏi Sellitto.
“Dưới quyền Jim Polling. Đúng thế. Và chúng tôi muốn anh nghiên cứu báo cáo hiện trường vụ án.”
Một tiếng cười nữa. “Tôi? Đã ba năm rồi tôi chưa đọc báo cáo hiện trường vụ án nào cả. Liệu tôi có thể nói gì với anh?”
“Anh có thể nói cho chúng tôi rất nhiều thứ, Linc.’
“Bây giờ ai là giám đốc IRD?”
“Vince Peretti.”
“Con trai của thượng nghị sĩ”, Rhyme nhớ lại. “Cứ để anh ta đọc đi.”
Một khoảnh khắc ngại ngùng. “Chúng tôi vẫn muốn anh.”
“Chúng tôi là ai?”
“Sếp trưởng. Và người bạn trung thành của anh.”
“Thế còn, Đại úy Peretti sẽ cảm thấy ra sao với lá phiếu không tín nhiệm này?” Rhyme hỏi, cười như một cô bé.
Sellitto đứng dậy và bước qua phòng, nhìn xuống những chồng tạp chí. Tạp chí Khoa học Điều tra Pháp y. Catalog sản phẩm của Công ty thiết bị khoa học Harding & Boyle. Niên kỷ Điều tra Pháp lý New Scotland Yard. Tạp chí của Đại học Giám định Pháp y Mỹ. Báo cáo của Hiệp hội Các giám đốc Phòng thí nghiệm Tội phạm Mỹ. Giám định Pháp y của CRC Press[21]. Tạp chí của Viện Khoa học Pháp y Quốc tế.
“Nhìn chúng này”, Rhyme nói. “Đăng ký hết hạn từ lâu rồi. Còn chúng thì phủ đầy bụi.”
“Mọi thứ ở đây đều bụi bặm kinh tởm, Linc. Sao anh không ngồi dậy mà dọn dẹp cái chuồng lợn này đi?”
Banks trông đầy sợ hãi. Rhyme xổ ra một tràng cười mà chính bản thân anh cũng cảm thấy xa lạ. Người canh gác của anh đã trượt chân và sự khó chịu biến thành ngạc nhiên. Ngay tức khắc anh cảm thấy tiếc vì anh và Sellitto đã rời xa nhau. Sau đó anh dập tắt ngay cái cảm giác đó. Anh càu nhàu: “Tôi không giúp anh được. Xin lỗi.”
“Chúng ta có một hội nghị về hòa bình bắt đầu vào thứ Hai. Chúng tôi…”
“Hội nghị nào?”
“Tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Các đại sứ, nguyên thủ quốc gia. Sẽ có hàng nghìn nhân vật đáng kính đến thành phố. Anh có nghe về việc vừa diễn ra ở London hai ngày trước không?”
“Việc?” Rhyme cay độc nhắc lại.
“Có kẻ đã cố gắng đánh bom khách sạn nơi UNESCO họp. Thị trưởng lo hết hồn nếu có kẻ nào lại tiếp tục làm thế với hội nghị ở đây. Ông ta không muốn có một tiêu đề kinh khủng nào đó trên tờ Bưu điện.”
“Có một vấn đề nhỏ”, Rhyme nói nghiêm khắc. “Đó là cô Tammie Jean sẽ không còn thích thú với chuyện về nhà của mình nữa.”
“Jerry, nói cho anh ta thêm một vài chi tiết. Kích thích khẩu vị của anh ta đi nào.”
Banks đã chuyển sự chú ý từ chân Rhyme sang chiếc giường của anh, thứ mà – như chính Rhyme đã phải công nhận – thú vị hơn nhiều. Đặc biệt là bảng điều khiển. Trông nó giống như thứ gì đó lấy từ tàu con thoi và cũng đắt tiền đúng như thế. “Mười tiếng sau khi họ bị bắt, chúng tôi tìm thấy hành khách nam – John Ulbrecht – bị bắn và chôn sống trên đường tàu Amtrak gần Đại lộ Ba mươi bảy và Mười một. Đúng ra là chúng tôi tìm thấy anh ta đã chết. Anh ta đã bị chôn sống. Viên đạn cỡ .32.” Banks nhìn lên và nói thêm. “Honda Accord của các loại đạn dược.”
Có nghĩa là không có suy luận ác ý nào về thứ vũ khí không rõ ràng. Anh chàng Banks này có vẻ thông minh, Rhyme nghĩ, và tất cả những gì anh ta phải chịu đựng là tuổi trẻ, tuổi trẻ mà anh ta có thể trưởng thành để thoát khỏi nó, hoặc là không. Lincoln Rhyme tin rằng bản thân anh chưa bao giờ trẻ cả.
“Đạn có rãnh xẻ không?” Rhyme hỏi.
“Sáu đường gân và đường xẻ, xoáy trái.”
“Vì thế hắn tìm ình một khẩu Colt”, Rhyme nói và liếc nhìn sơ đồ hiện trường vụ án một lần nữa.
“Anh nói hắn”, viên thám tử trẻ tuổi tiếp tục. “Nhưng thực ra đó là chúng.”
“Cái gì?”
“Đối tượng. Có hai tên. Có hai nhóm dấu chân giữa ngôi mộ và chân chiếc cầu thang sắt dẫn lên phố”, Banks nói, chỉ vào sơ đồ hiện trường vụ án.
“Có dấu chân nào trên cầu thang không?”
“Không có gì. Nó đã bị lau đi. Chúng đã làm rất tốt. Dấu chân đi ra huyệt và quay lại cầu thang. Nói chung là phải có hai tên mới có thể kéo được nạn nhân. Anh ta nặng hơn một trăm pound[22]. Một người không thể làm được việc đó.”
“Tiếp đi.”
“Chúng kéo anh ta tới huyệt, vứt anh ta xuống, bắn và chôn anh ta, sau đó quay lại cầu thang, trèo lên và biến mất.”
“Bắn anh ta dưới huyệt?” Rhyme hỏi.
“Đúng thế. Không hề có vết máu quanh cầu thang và trên đường đến huyệt.”
Rhyme thấy mình có vẻ hơi quan tâm. Nhưng anh nói: “Các anh cần tôi làm gì?”
Sellitto cười, nhe hàm răng vàng lởm chởm. “Chúng tôi vớ được một điều huyền bí, Linc. Một mớ vật chứng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì.”
“Thì sao?” Đây là một hiện trường vụ án hiếm có, ở đó mọi chứng cứ vật lý đều có ý nghĩa.
“Đúng hơn là điều đó thực sự kỳ dị. Đọc báo cáo mà xem. Làm ơn đi. Tôi sẽ để nó ở đây. Cái này làm việc thế nào nhỉ?” Sellitto nhìn Thom đang gắn tập báo cáo vào khung lật trang.
“Tôi không có thời gian đâu, Lon”, Rhyme phản đối.
“Cái này thực kỳ lạ”, Banks phát biểu, nhìn vào cái khung. Rhyme không trả lời. Anh đang nhìn vào trang đầu tiên và đọc chăm chú. Di chuyển ngón đeo nhẫn sang trái đúng một mm. Một chiếc đũa thần bằng cao su lật trang giấy.
Đọc. Suy nghĩ. Ừ, đúng là quái lạ.
“Ai chịu trách nhiệm về hiện trường?”
“Chính Peretti. Khi anh ta biết rằng nạn nhân là một trong những hành khách taxi, anh ta đến đó và tiếp nhận vụ này.”
Rhyme tiếp tục đọc. Trong khoảng một phút, những từ ngữ thiếu sáng tạo trong bản báo cáo của cảnh sát làm anh quan tâm. Rồi chuông cửa reo và trái tim anh nhảy lên vì một cơn rùng mình. Ánh mắt anh hướng đến Thom. Chúng lạnh lùng và cho thấy rõ ràng là thời gian đùa bỡn đã chấm dứt. Thom gật đầu và ngay lập tức đi xuống cầu thang.
Tất cả mọi ý nghĩ về những người lái taxi, về vật chứng và những nhân viên ngân hàng bị bắt có biến khỏi đầu óc Lincoln Rhyme.
“Đấy là bác sĩ Berger”, Thom nói qua máy đàm thoại nội bộ.
Cuối cùng. Sau bao nhiêu lâu.
“Được rồi, tôi xin lỗi, Lon. Tôi sẽ phải đề nghị các anh ra về. Thật vui khi gặp lại anh.” Một nụ cười. “Một vụ rất thú vị, vụ này ấy mà.”
Sellitto ngần ngừ rồi đứng dậy. “Nhưng anh sẽ đọc qua báo cáo chứ, Lincoln? Nói cho chúng tôi những gì anh nghĩ chứ?”
Rhyme nói: “Chắc rồi”, sau đó ngả đầu xuống gối. Những người bệnh như Rhyme, có khả năng chuyển động được đầu và cổ, có thể kích hoạt cả chục chức năng điều khiển chỉ nhờ chuyển động đầu ba chiếu. Nhưng Rhyme đã tránh xa các thiết bị đeo trên đầu. Giờ đây, khi chỉ còn rất ít sự sung sướng nhờ các giác quan còn lại, anh không muốn tước đi sự thoải mái khi được dựa đầu vào chiếc gối hai trăm đô la của mình. Những người khách đã làm anh mệt. Không chỉ buổi trưa, mà lúc nào anh cũng buồn ngủ. Cơ cổ anh run rẩy vì đau đớn.
Khi Sellitto và Banks đã ra đến cửa, Rhyme nói: “Lon, đợi đã.”
Viên thám tử quay lại.
“Có một điều anh nên biết. Anh mới chỉ tìm thấy một nửa hiện trường vụ án. Hiện trường quan trọng chính là nửa còn lại – hiện trường chính. Nhà hắn ta. Đó là nơi hắn sẽ đến. Và sẽ rất khó tìm.”
“Sao anh lại nghĩ rằng còn một hiện trường khác?”
“Vì hắn ta không bắn nạn nhân dưới huyệt. Hắn bắn anh ta ở chỗ kia – tại hiện trường chính. Và đấy có thể là nơi hắn giữ người phụ nữ. Đó sẽ là một tầng hầm hay một nơi rất vắng vẻ trong thành phố. Hoặc cả hai. Vì… Banks ạ…” – Rhyme đoán trước câu hỏi của viên thám tử trẻ – “hắn ta không muốn có rủi ro khi phải bắn ai đó và bị bắt nếu đó không phải là một nơi yên tĩnh và riêng tư.”
“Có thể hắn dùng ống giảm thanh.”
“Không có dấu màng ngăn cao su hay bông trên viên đạn”, Rhyme ngắt lời.
“Nhưng làm thế nào mà người đàn ông bị bắn ở đó được?” Banks phản đối. “Ý tôi là, không hề có máu vương ở hiện trường.”
“Tôi giả định là nạn nhân bị bắn vào mặt”, Rhyme tuyên bố.
“À, vâng”, Banks trả lời, nở một nụ cười ngu ngốc. “Làm sao mà anh biết?”
“Rất đau đớn, rất hiệu quả, rất ít máu với một viên đạn cỡ .32. Ít khi chết người nếu không trúng não. Với một nạn nhân cỡ như vậy, đối tượng có thể dẫn anh ta đi bất cứ đâu hắn muốn. Tôi nói đối tượng, số ít vì chỉ có một đối tượng thôi.”
Im lặng. “Nhưng… có hai nhóm dấu chân”, Banks gần như thì thầm, như thể anh ta đang gỡ mìn.
Rhyme thở dài. “Đế giày là một. Chúng do một người đi hai vòng để lại. Để lừa chúng ta. Và những dấu chân đi về phía bắc có cùng độ sâu như những dấu chân đi về phía nam. Như thế là hắn ta không vác một khối lượng hai trăm pound đi theo đường này và không vác khi đi đường kia. Nạn nhân có phải đi chân đất không?”
Banks lật nhanh ghi chép của mình. “Đi tất.”
“Được rồi, thế thì thủ phạm đi giày của nạn nhân trong chuyến đi dạo thông minh của hắn tới cầu thang và ngược lại.”
“Nếu hắn không đi xuống cầu thang thì làm thế nào hắn tới được huyệt?”
“Hắn tự kéo người đó theo đường ray xe lửa. Có thể từ phía bắc.”
“Nhưng không có cầu thang nào xuống đường tàu từ cả hai phía.”
“Nhưng có những đường hầm chạy song song với đường ray”, Rhyme tiếp. “Chúng nối với tầng hầm của một vài nhà kho cũ dọc Đại lộ Mười một. Một kẻ gangster tên là Owney Madden đã cho đào chúng trong thời kỳ cấm rượu để hắn có thể chuyển rượu whisky lậu lên các đoàn tàu từ nhà ga Trung tâm New York đi Albany hay Bridgeport.”
“Thế tại sao không chôn nạn nhân gần đường hầm? Sao lại mạo hiểm vì có thể bị nhìn thấy khi kéo anh chàng đi qua gầm cầu?”
Đã hết kiên nhẫn. “Anh biết hắn đang nói gì với chúng ta đúng không?”
Banks định nói, nhưng sau đó lắc đầu.
“Hắn phải để xác ở nơi có thể được tìm thấy”, Rhyme nói. “Hắn cần ai đó tìm thấy nó. Đó là lý do tại sao hắn để tay nạn nhân trên không. Hắn đang vẫy chúng ta. Để được chúng ta chú ý. Xin lỗi, các anh có thể có một đối tượng nhưng hắn lại quá thông minh để có thể là hai. Có một cánh cửa ra vào đường hầm ở gần đâu đó. Hãy đến đó và thử tìm dấu tay. Sẽ không có gì đâu. Nhưng các anh phải làm đúng như thế. Báo chí, các anh biết rồi đấy. Khi câu chuyện bắt đầu xuất hiện… Được rồi, chúc may mắn, thưa các quý ngài. Giờ thì cho tôi xin lỗi chứ, Lon?”
“Có?”
“Đừng quên hiện trường chính. Bất kể điều gì xảy ra, anh phải tìm bằng được nó. Và nhanh lên.”
“Cảm ơn, Linc. Đọc báo cáo nhé.”
Rhyme nói tất nhiên anh sẽ đọc và thấy họ tin vào điều nói dối đó. Hoàn toàn tin.
Chú thích
[11] Morgan Stanley: Một công ty dịch vụ tài chính toàn cầu ở Thành phố New York.
[12] Martha Stewart: Chủ bút một tờ báo gia đình, một kiểu chị Thanh Tâm ở Mỹ.
[13] The Scences of the Crime: Những hiện trường vụ án.
[14] ROM: Một dạng bài tập kéo dãn cơ.
[15] ECU (viết tắt của Environment Control Unit): Thiết bị Điều khiển Môi trường.
[16] SOB (viết tắt của Son of a Bitch): Một cách nói khinh bỉ về cơ quan trước đó của Rhyme.
[17] Katherine Anne (Katie) Couric: Sinh năm 1975 tại Arlington, Virginia, một nhà báo, phát thanh viên nổi tiếng ở Mỹ.
[18] BQE: Đường cao tốc Brooklyn-Queen ở New York.
[19] Yale: Đại học Yale, nơi Banks tốt nghiệp; đây là một cách nghĩ chế nhạo về Banks.
[20] Công ty Everest & Jennings: Một công ty chế tạo giường bệnh và hệ thống hỗ trợ của Rhyme.
[21] CRC Press: Tên một nhà xuất bản chuyên về Pháp y.
[22] Pound: Một pound tương đương với 453,59g. Ở đây tương đương với bảy mươi lăm kg.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...