Kẻ tầm xương


Cơ thể già nhưng xương cốt trẻ…
Người đàn ông co rúm tránh xa hắn, hai cánh tay bắt chéo phòng vệ trước bộ ngực lép của ông ta.
Mở cửa xe, Kẻ Tầm Xương gí súng lục vào xương ngực người đàn ông.
“Xin ông”, tù nhân của hắn thì thầm, giọng ông ta run run. “Tôi không có nhiều tiền nhưng ông có thể lấy hết. Ta có thể ra máy ATM. Tôi sẽ…”
“Ra ngoài.”
“Xin ông đừng hại tôi.”
Kẻ Tầm Xương lấy đầu ra hiệu. Người đàn ông yếu đuối kinh hoàng nhìn quanh rồi tiến lên phía trước. Ông ta đứng bên cạnh xe, rúm ró, hai tay vẫn khoanh trước ngực, nổi gai ốc mặc dù trời nóng gay gắt.
“Sao ông làm thế?”
Kẻ Tầm Xương lùi lại và tìm chiếc còng tay trong túi. Vì đeo găng tay dày nên phải mất vài giây hắn mới tìm thấy sợi xích crom. Khi lôi chiếc còng tay ra, hắn nghĩ hắn có nhìn thấy một chiếc thuyền bốn buồm chạy trên sông Hudson. Dòng chảy ngược ở đây không mạnh như sông Đông, nơi các con tàu phải tốn rất nhiều thời gian để đi từ cầu tàu East, Montgomery và Out Ward lên phía Bắc. Hắn liếc mắt. Không phải, từ từ đã – đấy không phải thuyền buồm mà chỉ là một chiếc tàu có động cơ sang trọng, đầy đám thị dân trưởng giả.
Vươn đôi tay bị còng ra trước, người đàn ông tóm chặt áo kẻ bắt giữ mình. “Xin ông. Tôi đang đến bệnh viện. Vì thế tôi mới gọi ông. Tôi bị đau ngực.”
“Câm mồm.”
Bất ngờ, người đàn ông chộp lấy mặt Kẻ Tầm Xương, hai cánh tay đồi mồi nắm lấy cổ và vai hắn bóp mạnh. Một cơn đau lan tỏa từ chỗ móng tay màu vàng của ông ta đâm vào. Với một cơn bực tức bùng phát, hắn giằng tay nạn nhân ra và thô bạo còng tay ông ta.
Dán một miếng băng dính vào miệng người đàn ông. Kẻ Tầm Xương kéo ông ta trên con đường bờ sông trải sỏi tới miệng ống, đường kính khoảng bốn feet. Hắn dừng lại, xem xét người đàn ông.
Lột mày đến tận xương thật là dễ.
Xương cốt… chạm vào nó. Nghe tiếng nó.
Hắn nhấc tay người đàn ông lên. Hai con mắt kinh hoàng nhìn lại hắn, môi ông ta run rẩy. Kẻ Tầm Xương vuốt ve những ngón tay của người đàn ông, bóp chặt những đốt ngón tay ông ta trong những đốt ngón tay hắn (ước gì hắn có thể tháo găng tay, nhưng hắn không dám). Sau đó hắn nhấc bàn tay người đàn ông lên, áp chặt nó vào tai.
“Gì thế?...”

Bàn tay trái hắn nắm ngón tay út của người tù nhân và từ từ kéo cho đến khi hắn nghe thấy tiếng xương kêu lách cách. Một âm thanh ngọt ngào. Người đàn ông kêu thét lên, nhưng tiếng hét bị dập tắt qua miếng băng dính. Và rơi xuống đất.
Kẻ Tầm Xương kéo ông ta đứng thẳng dậy và dẫn người đàn ông bước đi vấp váp xuống tới miệng ống. Hắn đẩy người đàn ông lên phía trước.
Họ nổi lên phía dưới một cây cầu cảng cũ kỹ, mục nát. Một nơi kinh tởm, vung vãi đầy xác thú vật và cá đang thối rữa, rác rưởi trên những hoàn đá, và lớp bùn tảo bẹ mà xanh xám. Dưới nước là một đám rong biển nổi lên, chìm xuống, chất thành đống như một người béo phì. Mặc dù cả thành phố đang phải chịu cái nóng buổi tối, nhưng dưới này lại lạnh như một ngày tháng Ba.
Señor Ortega…
Hắn dìm người đàn ông xuống sông, còng ông ta vào trụ cầu cảng, bóp cho cái còng siết chặt vào cổ tay ông ta lần nữa. Khuôn mặt xám ngoét của người đàn ông còn cách mặt nước khoảng ba feet. Kẻ Tầm Xương thận trọng đi trên những hòn đá trơn tuột về phía ống cống. Hắn quay lại, ngừng một chút để nhìn, rồi tiếp tục nhìn. Hắn không quan tâm liệu cớm có tìm được những nạn nhân khác hay không. Hanna, người đàn bà trên taxi. Nhưng người này, Kẻ Tầm Xương hy vọng chúng không kịp thời tìm được ông ta. Thực sự là họ đừng nên tìm thấy ông ta. Để hắn có thể quay lại sau một hoặc hai tháng, kiểm tra xem con sông thông minh này có cọ sạch được bộ xương hay không.
Quay lại con đường trải sỏi, hắn tháo mặt nạ và để lại manh mối cho hiện trường tiếp theo, cách nơi hắn đỗ xe không xa. Hắn giận dữ, điên cuồng với bọn cớm, vì vậy lần này hắn giấu manh mối đi. Và hắn còn để lại một điều ngạc nhiên đặc biệt. Một thứ mà hắn đã luôn giữ cho chúng. Kẻ Tầm Xương quay lại chỗ chiếc taxi.
Gió thổi nhẹ, mang theo mùi của con sông ô nhiễm. Tiếng xào xạc của cỏ, và như thường lệ, cả tiếng xoẹt của xe cộ.
Nghe như tiếng giấy ráp cọ trên xương.
Hắn dừng lại và lắng nghe âm thanh đó, ngẩng đầu như thể hắn đang nhìn lên hàng tỷ ngọn đèn của các tòa nhà, kéo dài ra phía bắc như một thiên hà hình chữ nhật. Đúng lúc đó xuất hiện một người phụ nữ chạy rất nhanh trên đường chạy cạnh đường cống và thiếu chút nữa thì va vào hắn.
Mặc quần soóc và áo thể thao tím, người phụ nữ tóc nâu gầy gò nhảy sang bên để tránh đường hắn. Cô ta dừng lại, thở hổn hển, lâu mồ hôi trên mặt. Dáng đẹp – bắp thịt căng đầy – nhưng không xinh. Mũi khoằm, miệng rộng, da lem nhem.
Nhưng phía dưới thì…
“Anh không được… Anh không nên đỗ xe ở đây. Đây là đường chạy…”
Giọng nói cô ta nhỏ dần khi nỗi sợ hãi dâng lên trong ánh mắt cô, ánh mắt chuyển từ mặt hắn sang chiếc taxi, rồi tới chiếc mặt nạ trượt tuyết vo viên trong tay hắn.
Cô ta biết hắn là ai. Hắn mỉm cười khi nhìn thấy xương đòn của cô ta nổi rõ lên.
Mắt cá chân phải của cô ta hơi xê dịch, chuẩn bị chạy đi. Nhưng hắn tóm được cô ta trước. Hắn vờ cúi xuống để chặn cô ta. Cô ta thét lên một tiếng, hạ tay xuống để cản hắn, Kẻ Tầm Xương liền đứng vụt dậy, đánh khuỷu tay vào thái dương cô. Một tiếng cắc vang lên như tiếng vụt thắt lưng.
Cô ta ngã vật xuống sỏi, nằm im. Hoảng sợ, Kẻ Tầm Xương quỳ sụp xuống đỡ lấy đầu cô ta. Hắn ta rên rỉ: “Không, không, không…” Giận dữ với chính mình vì đánh quá mạnh, thực sự đau khổ vì hắn có thể đã làm vỡ một hộp sọ hoàn hảo nằm phía dưới mái tóc rối bù và một khuôn mặt tầm thường.
Amelia Sachs điền thêm một thẻ COC[107] nữa rồi đề nghị giải lao. Cô tạm dừng, đi tìm máy bán hàng tự động và mua một cốc cà phê có mùi vị kinh khủng. Cô quay lại cái văn phòng không cửa sổ, nhìn những chứng cứ mà cô thu lượm được.
Có thể vì những điều cô phải trải qua để thu thập chứng cứ – các khớp xương của cô đau nhức và cô vẫn còn rùng mình mỗi khi nghĩ đến cảnh tượng thi thể bị chôn sáng nay, một cánh tay máu me, cảnh tượng da thịt lủng lẳng của T.J. Colfax. Cho đến hôm nay thì vật chứng không có ý nghĩa gì với cô. Vật chứng chỉ là những bài học chán ngán trong những buổi chiều mùa xuân buồn ngủ ở học viện. Vật chứng là toán học, là những đồ thị và biểu đồ, là khoa học. Nó chết.

Không, Amelia Sachs sẽ là cảnh sát của công chúng. Tuần tra, xử lý bọn du côn, dọn dẹp ma túy. Truyền bá sự tôn trọng pháp luật – như cha cô đã làm. Hay nhét chúng vào. Như Nick Carelli đẹp trai, cựu chiến binh năm năm, ngôi sao của Tội phạm Đường phố, cười cả thế giới với nụ cười mày có vấn đề gì thế? của anh.
Đó là con người mà cô muốn trở thành.
Cô nhìn cái lá khô giòn màu nâu mà cô tìm thấy trong đường hầm bãi chăn gia súc. Một trong những manh mối 823 để lại cho họ. Và cái quần lót. Cô nhớ ra đặc vụ liên bang đã lấy vật chứng trước khi Cooper khám nghiệm xong bằng cái máy... Tên nó là gì nhỉ? Sắc ký khí? Cô tự hỏi chất lỏng trên lớp vải bông đó là gì?
Nhưng những ý nghĩ đó dẫn cô đến Lincoln Rhyme và anh ta lại là nhân vật mà cô không hề muốn nghĩ tới lúc này. Cô tiếp tục đăng ký nốt những vật chứng còn lại. Mỗi thẻ COC có những dòng kẻ trống để liệt kê danh sách những người quản lý vật chứng, theo thứ tự từ lúc phát hiện được trên hiện trường cho tới khi xử án. Sachs đã có vài lần chuyển giao vật chứng và tên cô cũng xuất hiện trên các tấm thẻ COC. Nhưng đó là lần đầu tiên A. Sachs, NYPD 5885 nằm ở dòng đầu tiên.
Cô nhấc cái túi nhựa đựng chiếc lá lên lần nữa.
Hắn đã sờ vào chiếc lá này. Hắn. Kẻ đã giết T.J. Colfax. Kẻ cầm cánh tay mập mạp của Monelle Gerger và cắt sâu vào đó. Kẻ lúc này đang tìm kiếm nạn nhân khác – nếu như hắn chưa tóm được một ai.
Kẻ chôn sống người đàn ông sáng ngày hôm nay, khi anh ta vẫy tay cầu xin lòng nhân từ mà anh không bao giờ nhận được.
Cô nghĩ tới Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Con người khi giao tiếp, ai cũng sẽ chuyển cho người khác thứ gì đó. Dù lớn hay nhỏ. Và hầu hết mọi người lại không biết đến điều này.
Liệu 823 có để lại gì trong cái lá này không? Một tế bào da? Một giọt mồ hôi? Thật ngạc nhiên khi cô cảm thấy sự rung động của niềm phấn khích, của nỗi sợ hãi, như thể tên sát nhân đang ở ngay đây, trong căn phòng nhỏ xíu thiếu không khí này cùng với cô.
Quay lại với những tấm thẻ COC. Cô điền chúng trong khoảng mười phút và khi hoàn thành chiếc thẻ cuối cùng thì cánh cửa bật mở làm cô giật mình. Cô quay lại.
Fred Dellray đứng trong khung cửa, bộ vét màu xanh lá của anh ta xộc xệch, chiếc áo sơ mi được hồ cứng lúc này nhàu nát. Những ngón tay lần sờ điếu thuốc lá cài ở tai. “Ra ngoài một, hai phút được không, sĩ quan. Thời điểm thanh toán đã tới. Tôi nghĩ cô cũng muốn có mặt ở đó.”
Sachs đi theo anh ta vào một hành lang ngắn, cách anh chàng đang nhảy cẫng lên này hai bước.
“Đã có kết quả AFIS.” Dellray nói.
Phòng chiến sự trông bận bịu hơn bao giờ hết. Các đặc vụ không mặc áo vét lượn lờ bên bàn làm việc. Họ đều được trang bị vũ khí – những khẩu Sig-Sauer và Smith & Weson tự động, mười mm và .45s. Nửa tá đặc vụ đặc đang tập hợp quanh màn hình máy tính bên cạnh máy Opti-Scan.
Sachs không thích cách Dellray lấy vụ này, nhưng cô buộc phải công nhận đằng sau cái vẻ ngoài của một anh chàng mê nhạc jazz dẻo mỏ, Dellray là một cảnh sát rất giỏi. Các đặc vụ – trẻ cũng như già – đến hỏi ý kiến anh ta và anh ta kiên nhẫn trả lời họ. Anh ta giật điện thoại, phỉnh phờ hoặc nhiếc móc người phía đầu dây bên kia để có được thứ anh ta cần. Thi thoảng, anh ta nhìn quanh căn phòng đang sôi sục và gầm lên: “Ta sẽ tóm được cái thằng khốn đó chứ? Chắc chắn rồi, ta sẽ tóm được nó”. Và mọi người ném cho anh ta những cái nhìn khó chịu, nhưng đều công nhận nếu có ai bắt được hắn, người đó phải là Dellray.
“Đây rồi, có rồi đây”, một đặc vụ nói.
Dellray quát: “Tôi muốn có một đường dây mở đến DMV[108] New York, Jersey và Connecticut. Cả bộ phận Cải tạo và Tuần tra. INS nữa. Bảo họ chờ yêu cầu nhận dạng. Những người khác phải đợi.”

Các đặc vụ tỏa ra và bắt đầu gọi điện thoại.
Màn hình máy tính có tín hiệu.
Cô không thể tin rằng Dellray lại có thể thực sự chắp tay cầu nguyện.
Im lặng tuyệt đối trong phòng.
“Có hắn rồi!” Đặc vụ đang ngồi bên bàn phím la lên.
“Không còn nghi phạm nữa rồi”, giọng Dellray như hát, anh ta cúi nhìn màn hình. “Mọi người nghe đây. Ta có tên rồi: Victor Pietrs. Sinh ở đây, năm 1948. Cha mẹ hắn ta đến từ Belgrade. Như vậy là chúng ta có mối liên hệ với người Serbia. Nhận dạng được New York D of C cung cấp. Đã có tiền sử buôn ma túy, tấn công, có một vụ giết người. Đã lĩnh án. Được rồi, nghe này – có bệnh án tâm thần, ba lần bị buộc nhập viện. Bệnh nhân tại bệnh viện tâm thần Bellevue và Manhattan. Ngày ra viện cuối cùng là ba năm trước. LKA Washington Heights.
Anh ta nhìn lên. “Ai làm việc với các công ty điện thoại?”
Vài đặc vụ giơ tay.
“Gọi điện đi”, Dellray ra lệnh.
Năm phút dài như vô tận.
“Không có ở đây. Không có trong danh bạ điện thoại New York.”
“Chẳng có gì ở New Jersey, một đặc vụ khác nói.
“Connecticut, không có gì.”
“Mẹ kiếp”, Dellray lầm bầm. “Đảo tên lên xem. Thử các tổ hợp khác nhau. Tìm cả những số điện bị cắt do không trả tiền.’
Trong mấy phút, giọng nói dâng khắp nơi như thủy triều lên.
Dellray đi đi lại lại như điên, và Sachs hiểu ra vì sao người anh ta lại khẳng khiu như vậy.
Bất ngờ một đặc vụ la lớn: “Tìm thấy hắn rồi”.
Mọi người quay đầu lại nhìn.
“Tôi đang liên lạc với New York DMV[109]”, một đặc vụ khác gọi. “Họ đã tìm thấy hắn. Tin đang đến đây… hắn lái taxi. Dùng bằng giả.”
“Sao tin này lại chẳng làm mình ngạc nhiên nhỉ?” Dellray lẩm nhẩm. “Mình phải nghĩ tới điều đó mới phải. Tổ ấm ở đâu?”
“Morningside Height. Cách con sông một khối nhà.” Nhân viên đặc vụ viết địa chỉ, giơ nó lên cao khi Dellray đi qua lấy. “Tôi biết khu này. Hầu hết bị bỏ hoang. Rất nhiều bọn buôn ma túy.”

Một đặc vụ khác nhập địa chỉ vào máy tính của anh ta. “Được rồi, đã kiểm tra… Một ngôi nhà cũ. Thuộc về một ngân hàng. Chắc hắn thuê nhà.”
“Anh cần HRT chứ?” Một đặc vụ gọi từ phía bên kia căn phòng đang sôi sục. “Tôi có Quantico đang nghe điện đây.”
“Không còn thời gian”, Dellray tuyên bố. “Ta dùng đội SWAT trực chiến. Bảo họ chuẩn bị đi.”
Sachs hỏi: “Thế còn nạn nhân tiếp theo thì sao?”
“Nạn nhân tiếp theo nào?”
“Hắn đã tóm được ai đó. Hắn biết ta đã có manh mối được khoảng một, hai tiếng. Hắn đã bắt được nạn nhân tiếp theo rồi. Một lúc trước.”
“Không có báo cáo mất tích”, một đặc vụ nói. “Nếu hắn tóm được họ, có thể họ đang ở nhà hắn.”
“Không, họ sẽ không ở đó.”
“Sao không?”
“Họ sẽ thu nhặt quá nhiều vật chứng.” Cô nói. “Lincoln Rhyme nói hắn có một nơi ẩn nấp an toàn.”
“Được rồi, khi bắt được hắn, hắn sẽ nói cho ta biết họ ở đâu.”
Một đặc vụ khác nói: “Ta phải thật thuyết phục.”
“Đi thôi”, Dellray gọi. “Này mọi người, hãy cám ơn sĩ quan Amelia Sachs. Cô ấy là người tìm thấy dấu vân tay và lấy được nó.”
Cô đỏ mặt. Cô có thể cảm thấy điều đó và căm thù nó. Nhưng cô không thể giúp được mình. Khi nhìn xuống, cô thấy giày của mình có những đường lạ lẫm. Liếc mắt nhìn, cô nhận ra mình vẫn còn đeo những dải băng cao su.
Khi ngẩng lên cô nhìn thấy căn phòng đầy đặc vụ liên bang trông nghiêm nghị đang kiểm tra vũ khí và đi ra cửa khi họ liếc nhìn cô. Như người thợ rừng nhìn khúc gỗ mới đốn, cô nghĩ.
Chú thích
[106] 13-43: Mẫu đơn Khiếu nại, được dùng như một động từ.
[107] COC: Xem phần phụ lục.
[108] DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông.
[109] New York DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông New York.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui