Phần II: Đột kích
10.
Tiếng hét khởi phát từ phần lưng dưới của tôi, dâng lên khắp cơ thể rồi tắc lại trong cổ họng. Tôi là một người câm Avox, uất nghẹn vì đau đớn. Kể cả tôi có thả lỏng cơ cổ, để âm thanh xé toác không gian thì ai thèm chú ý chứ? Cả phòng đang náo loạn. Mọi người thi nhau thắc mắc, gặng hỏi đủ kiểu trong khi cố mổ xẻ lời nói của Peeta. “Còn cậu... ở Quận 13... Sáng mai là chết!” Tuy nhiên không ai hỏi về người đưa tin mà hình ảnh đổ máu của cậu đã bị làm nhiễu sóng.
Một giọng nói vang lên kêu gọi tất cả chú ý. “Trật tự!” Mọi ánh mắt đổ dồn vào Haymitch. “Có phải bí ẩn gì to tát đâu! Thằng bé đang cảnh báo chúng ta sắp bị tấn công. Ở đây. Tại Quận 13 này.”
“Cậu ta có có được thông tin đó bằng cách nào?”
“Sao chúng ta phải tin cậu ta?”
“Làm sao ông biết?”
Haymitch gầm lên thất vọng. “Trong lúc chúng ta đang nói đây thì chúng đang đánh thằng bé thừa sống thiếu chết. Các người còn cần thêm gì nữa? Katniss, nói giúp ta đi!”
Tôi phải lắc mình mới thốt lên lời được. “Haymitch nói đúng. Tôi không biết Peeta lấy tin đó từ đâu ra. Hay nó có chính xác không. Nhung cậu ấy tin là có. Còn họ...” Tôi không thể nói to điều Snow đang làm với cậu.
“Các ngươi không biết lão ta đâu,” Haymitch nói với Coin. “Chúng tôi thì có đấy. Bảo người của bà chuẩn bị đi.”
Thống đốc xem chừng không hốt hoảng, chỉ có phần hơi bối rối trước bước ngoặt này. Bà ta ngẫm ngợi từng lời, khẽ gõ ngón tay lên mép bảng điều khiển trước mặt. Khi lên tiếng, bà ta nhắm thẳng đến Haymitch với giọng đều đều. “Tất nhiên chúng tôi đã dự phòng cho tình huống này. Tuy nhiên hàng bao nhiêu thập kỷ qua đã củng cố giả thiết của chúng tôi rằng những cuộc tấn công trực tiếp vào Quận 13 sẽ phản tác dụng với đại cục của Capitol. Tên lửa hạt nhân sẽ phát tán phóng xạ vào khí quyển, gây ra những hậu quả khôn lường với môi trường. Ngay cả vụ đánh bom thông thường cũng có thể phá hoại nghiêm trọng khu phức hợp quân sự của chúng tôi, trong khi đây lại là thứ Capitol hy vọng chiếm lại. Và tất nhiên họ khiến ta phải phản công. Có thể thấy là dựa trên mối liên minh hiện tại của chúng ta với phiến quân, những chuyện đó sẽ được xem là các rủi ro có thể chấp nhận được.”
“Bà nghĩ vậy à?” Haymitch nói. Hơi quá thành thật, nhưng sự mỉa mai tinh tế cũng ít khi được dùng tới ở Quận 13 này.
“Phải. Dù gì cũng không kịp diễn tập an ninh Cấp Năm nữa rồi,” Coin nói, “Ra lệnh đóng cửa thôi.” Bà ta bắt đầu gõ bàn phím nhoay nhoáy để ban bố quyết định. Khoảnh khắc bà ta ngước đầu lên, mọi sự đã bắt đầu.
Đã có hai đợt diễn tập cấp thấp kể từ khi tôi đến Quận 13. Tôi không nhớ nhiều lắm về đợt đầu tiên. Lúc ấy tôi đang nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt ở bệnh viện, và tôi nghĩ chắc các bệnh nhân được miễn khoản đó vì việc di chuyển chúng tôi đến nơi luyện tập quá phức tạp mà lợi ích lại chẳng bõ bèn gì. Tôi đã mơ hồ nhận ra một giọng nói tự động hướng dẫn mọi người tập trung tại khu màu vàng. Trong suốt đợt hai, diễn tập Cấp Hai tương ứng với khủng hoảng nhẹ - ví dụ như phương án cách ly tạm thời trong khi các công dân được kiểm tra xem có lây nhiễm không hồi bùng phát dịch cúm – chúng tôi phải quay về nơi cư trú. Tôi đã nấp sau một cái ống trong phòng giặt, không đếm xỉa gì đến tiếng bíp bíp nhịp nhàng phát ra từ hệ thống truyền thanh, và ngắm một con nhện đan lưới. Chưa có trải nghiệm nào chuẩn bị tinh thần cho tôi đối phó với tiếng còi báo động không lời inh tai rợn người giờ đang rú khắp Quận 13. Sẽ chẳng ai coi thường thứ âm thanh dường như được sinh ra để đẩy toàn thể người dân vào cảnh nháo nhác này. Nhưng đây là Quận 13 và chuyện đó không xảy ra.
Boggs dẫn Finnick và tôi ra khỏi Bộ Tư lệnh, men theo hành lang đến ngưỡng cửa dẫn vào khoảng cầu thang rộng rãi. Những dòng người đang đổ về hợp thành một con sông chỉ trôi xuống dưới. Không ai la hét hay xô đẩy. Kể cả trẻ con cũng không kháng cự. Chúng tôi đi xuống, hết tầng này tới lần khác, không nói năng gì, bởi không lời nào có thể át được tiếng còi. Tôi tìm kiếm mẹ và Prim, nhưng không nhìn thấy bất kỳ ai ngoài những người vừa lập tức vây sít tôi. Tuy nhiên tối nay cả hai mẹ con đều làm trong bệnh viện, không lý nào mà họ lại bỏ lỡ buổi diễn tập.
Tai tôi lùng bùng còn mắt thì trĩu nặng. Chúng tôi đang đi sâu tít xuống phía dưới. Ưu điểm duy nhất là chúng tôi càng xuống sâu vào lòng đất thì tiếng còi càng đỡ nhức óc hơn. Như thể họ cố tình dùng sức xua chúng tôi khỏi mặt đất, tôi cho là vậy. Các nhóm người bắt đầu tỏa về những cánh cửa được đánh dấu nhưng Boggs vẫn dẫn tôi xuống dưới cho đến khi cuối cùng cầu thang cũng kết thúc ở rìa một hang động khổng lồ. Tôi dợm bước thẳng vào thì bị Boggs ngăn lại, bảo tôi phải vẩy cánh tay có in thời gian biểu trước máy quét để được ghi nhận. Rõ ràng thông tin sẽ truyền tới máy tính ở đâu đó để đảm bảo không ai đi lạc.
Nơi này xem ra khó có thể xác định là tự nhiên hay nhân tạo. Vài chỗ trên tường là đá, trong khi dầm thép và bê tông gia cố chắc chắn những chỗ khác. Giường ngủ được đẽo thẳng vào tường đá. Có bếp, buồng tắm, trạm sơ cứu. Chốn này vốn được thiết kế để lưu trú dài ngày.
Những tấm biển trắng đề chữ hoặc số được đặt cách quãng quanh hang. Khi Boggs đang bảo Finnick và tôi trình diện tại khu vực tương ứng với nơi ở được phân – trong trường hợp của tôi thì E đại diện cho Phòng E – thì Plutarch thong thả bước vào. “A, mọi người đây rồi,” ông nói. Sự kiện vừa nãy chẳng ảnh hưởng mấy tới tâm trạng Plutarch. Ông vẫn còn phấn khởi với thành công của Beetee trong chiến dịch Cướp Sóng. Thấy rừng mà không thấy cây. Không thấy Peeta bị trừng phạt ra sao hay Quận 13 sắp bị nổ tung thế nào. “Katniss, rõ ràng đây là khoảnh khắc tồi tệ với cô, sự sa sút của Peeta ấy, nhưng cô phải ý thức được rằng những người khác sẽ quan sát mình đấy.”
“Gì cơ?” tôi nói. Thật không thể tin nổi ông thực sự lại hạ cấp tình trạng trầm trọng của Peeta thành sự sa sút.
“Những người khác trong boong ke, họ sẽ nhìn phản ứng của cô mà làm theo. Nếu cô bình tĩnh và dũng cảm, họ cũng sẽ cố được như vậy. Nếu cô hoang mang sợ hãi thì cảm giác ấy sẽ lan ra như cháy rừng,” Plutarch giải thích. Tôi chỉ nhìn ông chằm chằm. “Đại khái là lửa sẽ bén đó,” ông nói tiếp, như thể tôi chậm hiểu lắm vậy.
“Sao không coi như là tôi đang diễn nhỉ, ông Plutarch?” tôi nói.
“Đúng! Quá chuẩn. Người ta luôn dũng cảm hơn nhiều khi có khán giả,” ông đáp. “Hãy nhìn sự dũng cảm mà Peeta vừa mới thể hiện kìa!”
Tôi phải kiềm chế hết mức để không tát ông ta.
“Tôi phải quay lại chỗ Coin trước khi có lệnh đóng cửa đây. Tốt lắm, cứ thế mà làm nhé!” ông nói rồi rảo bước đi.
Tôi lại bên chữ E to đùng treo trên tường. Chỗ của chúng tôi diện tích khoảng mười bốn mét vuông sàn đá, được phân chia bằng những đường kẻ màu. Hai chiếc giường được đẽo thẳng vào tường – như vậy một người trong chúng tôi sẽ phải ngủ dưới sàn – và một ngăn vuông trên mặt đất dùng để trữ đồ. Một mẩu giấy trắng bọc ni lông trong suốt đề QUY TẮC BOONG KE. Tôi chòng chọc nhìn những đốm đen trên mảnh giấy. Chúng bị che mờ mất một lúc bời những giọt máu thừa mà dường như tôi không thể chùi hết khỏi tầm mắt. Dần dần những con chữ mới trở nên rõ ràng. Phần đầu có tiêu đề “Khi đến”.
1. Đảm bảo không sót bất kỳ thành viên nào trong Phòng bạn.
Mẹ tôi và Prim chưa đến, nhưng tôi là một trong những người đầu tiên tới boong ke. Cả hai người chắc đang giúp chuyển bệnh nhân đến nơi ở mới.
2. Tới Trạm Tiếp tế lấy cho mỗi thành viên trong Phòng một gói đồ. Sửa soạn Chỗ ở. Trả lại (các) túi.
Tôi quét mắt quanh hang động cho đến khi định vị được Trạm Tiếp tế, một căn phòng sâu tít phía trước có quầy. Mọi người đang đợi sau quầy, nhưng trông chưa nhộn nhịp lắm. Tôi bước về phía đó, nói chữ cái phòng mình rồi xin bà ba gói đồ. Một người đàn ông kiểm tra tờ giấy, lôi mấy gói đồ được đánh dấu riêng biệt từ trên giá xuống lẳng lên mặt quầy. Sau khi đeo một gói lên lưng, hai tay cầm hai gói kia, mặt tôi quay lại thấy một nhóm người đã nhanh chóng hình thành phía sau. “Xin lỗi,” tôi nói lúc tay xách nách mang lách qua bọn họ. Có phải chỉ là vấn đề thời điểm không? Hay Plutarch nói đúng. Tất cả những người này đang làm theo tôi chăng?
Về chỗ, tôi mở một gói đồ ra lấy một tấm nệm mỏng, chăn, hai bộ quần áo màu xám, bàn chải, lược và đèn pin. Khi kiểm tra xem hai gói kia chứa gì, tôi phát hiện ra sự khác biệt rõ rệt duy nhất là nó có cả quần áo màu xám lẫn trắng. Hai gói này là dành cho mẹ và Prim, phòng trường hợp họ phải đi khám chữa bệnh. Sau khi trải giường, cất quần áo, trả lại túi xong xuôi, tôi chẳng còn gì làm ngoài việc ngồi trơ ra nhìn quy tắc cuối cùng.
3. Đợi chỉ dẫn tiếp theo.
Tôi ngồi khoanh chân trên sàn chờ đợi. Một dòng người đều đặn đổ vào phòng, nhận chỗ rồi lấy đồ. Chắc mấy chốc nơi đây đã chật kín. Tôi tự hỏi mẹ và Prim có qua đêm ở chỗ nào đó mà các bệnh nhân được đưa tới không. Nhưng, không, tôi không nghĩ vậy. Họ có trong danh sách ở đây mà. Tôi bắt đầu nóng ruột thì mẹ xuất hiện. Tôi nhìn sau lưng mẹ chỉ thấy cả biển người lạ. “Prim đâu ạ?” tôi hỏi.
“Con bé không ở đây à?” mẹ đáp. “Nó phải từ bệnh viện xuống thẳng đây rồi chứ. Nó đi trước mẹ mười phút mà. Nó đang ở đâu chứ? Nó đi đâu được nhỉ?”
Tôi nhắm nghiền mắt một thoáng để tìm dấu vết em như thể đang săn mồi. Thấy em nghe thấy tiếng còi liền hối hả chạy đi giúp các bệnh nhân, gật đầu khi người ta ra hiệu cho em xuống boong ke, và rồi ngập ngừng nơi bậc thang. Bị giằng xé trong giây lát. Nhưng vì sao chứ?
Tôi mở bừng mắt. “Con mèo! Nó quay lại tìm con mèo!”
“Ôi, không,” mẹ thảng thốt. Cả hai chúng tôi đều biết tôi nói đúng. Chúng tôi xô ngược dòng người đang ào đến như triều dâng, đang cố thoát ra khỏi boong ke. Lên đến trên, tôi thấy người ta chuẩn bị đóng cánh cửa kim loại nặng trịch vào. Dần lăn những bánh xe kim loại ở hai bên cửa vào trong. Không hiểu sao tôi biết rằng một khi cánh cửa đóng lại thì không cách nào thuyết phục mấy tay lính mở ra được. Có lẽ việc này thậm chí còn nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Khoảng cách giữa hai cánh cửa co lại còn chừng một mét rồi nửa mét; và đến lúc chỉ còn mở chừng vài phân thì tôi nhét tay vào giữa khe hở.
“Mở ra! Để tôi ra!” tôi hét.
Mấy tay lính thất kinh đảo chiều bánh xe một chút. Không đủ cho tôi qua nhưng cũng đủ để không nghiền nát ngón tay tôi. Tôi tận dụng cơ hội chen vai qua khe hở. “Prim!” tôi hét vọng lên các bậc thang. Mẹ tôi năn nỉ lính gác trong khi tôi cố lách qua. “Prim ơi!”
Rồi tôi nghe thấy. Tiếng chân văng vẳng trên bậc thang. “Bọn em tới đây!” tiếng em lanh lảnh.
“Giữ cửa đi!” Là Gale.
“Họ đang xuống đấy!” Tôi bảo mấy tay lính, và họ bèn nhích cửa ra tầm ba mươi phân. Nhưng tôi không dám di chuyển – sợ họ sẽ nhốt tất cả chúng tôi ở ngoài – cho đến khi Prim xuất hiện, má đỏ hồng vì hộc tốc chạy, vác theo Hũ Bơ. Tôi kéo em vào trong, Gale liền theo sau, ôm hành lý len vào boong ke. Cánh cửa đóng lại với tiếng cách inh tai cuối cùng.
“Em nghĩ gì mà lại làm thế?” Tôi giận dữ lắc Prim rồi lại ôm em, ép chặt Hũ Bơ giữa chúng tôi.
Lời phân bua của Prim lập tức bật ra. “Em không thể bỏ nó lại, chị Katniss à. Không thể lặp lại lần thứ hai. Chị phải nhìn thấy nó đi lại rú rít trong phòng cơ. Nó quay lại để bảo vệ chúng ta mà.”
“Được rồi. Được rồi.” Tôi hít vài hơi để trấn tĩnh, đoạn lùi lại, túm nhúm lông cổ của Hũ Bơ nhấc lên. “Lẽ ra tao phải dìm chết mày khi có dịp rồi.” Nó vểnh tai sang bên rồi giơ vuốt ra. Tôi xì xì không cho nó cơ hội, khiến nó hơi cáu, vì nó vốn coi tiếng xì xì là âm thanh biểu hiện sự khinh miệt của riêng nó. Để trả đũa, nó bật ra tiếng meo meo yếu ớt kiểu mèo con, khiến Prim bảo vệ nó ngay.
“Ôi Katniss, đừng trêu nó nữa mà,” em nói, lại ôm ấp nó trong vòng tay. “Nó đã hoảng lắm rồi.”
Tôi chỉ càng cảm thấy chua chát hơn trước ý nghĩ tôi đã làm tổn thương cảm xúc của con mèo nhỏ quái vật ấy. Nhưng Prim thực lòng lo cho nó. Vì thế tôi đành tưởng tượng ra bộ lông của Hũ Bơ được lót cho đôi găng tay, hình ảnh đã giúp tôi chịu đựng nó ngần ấy năm qua. “Được rồi, chị xin lỗi. Chỗ của chúng ta là ở dưới chữ E lớn trên tường nhé. Tốt hơn hết là cho nó về chỗ đi không lại lạc bây giờ.” Prim đang vội vàng đi, còn tôi thấy mình phải mặt đối mặt với Gale. Anh đang bê chiếc thùng đựng thiết bị y tế lấy từ căn bếp nhà chúng tôi ở Quận 12. Nơi đã in dấu cuộc nói chuyện, nụ hôn, cũng như điều xảy ra ngoài ý muốn cuối cùng, sao cũng được, của hai đứa. Chiếc túi săn của tôi vẫn còn lủng lẳng trên vai anh.
“Nếu Peeta nói đúng thì mấy thứ này cũng chẳng ăn thua,” anh nói.
Peeta. Máu tóe như mưa trên cửa sổ. Như bùn ẩm bám trên ủng.
“Cảm ơn... vì mọi thứ.” Tôi đỡ lấy đồ từ tay anh. “Mà khi nãy anh làm gì trên phòng em vậy?”
“Kiểm tra cho chắc thôi mà,” anh đáp. “Nếu em cần anh thì bọn anh ở số 47 nhé.”
Hầu hết mọi người đã thu về chỗ của mình khi cửa sập vào, vậy nên tôi quay lại nơi ở mới với ít nhất năm trăm người dõi theo. Tôi cố che giấu vẻ hoảng loạn bằng cách tỏ ra hết sức bình tĩnh khi len qua đám đông. Cứ như việc đó lừa được ai vậy. Làm gương như thế thì quá lố thật. Ồ mà ai thèm quan tâm cơ chứ? Đằng nào tất cả bọn họ đều cho rằng tôi bị leng keng. Một ông hình như vừa nãy bị xô ngã xuống sàn bắt gặp ánh mắt tôi, bèn xoa xoa khuỷu tay vẻ uất ức. Tôi suýt nữa cũng xùy xùy ông ta.
Prim đã đặt Hũ Bơ yên vị nơi giường dưới, quấn nó trong chăn chỉ để thò mỗi mặt ra ngoài. Đúng kiểu nó thích mỗi khi có sấm sét, thứ duy nhất khiến nó sợ xanh mật. Mẹ tôi cẩn thận đặt chiếc thùng trong ngăn vuông. Tôi lom khom, lưng tựa vào tường, kiểm tra túi săn xem Gale đã cất công lấy lại cho tôi những gì. Cuốn sách thảo mộc, áo săn, ảnh cưới của cha mẹ tôi và đồ cá nhân trong ngăn kéo của tôi. Chiếc ghim chim húng nhại giờ đi kèm với bộ trang phục của Cinna, nhưng vẫn còn đó tấm mề đay vàng, chiếc dù bạc kèm vòi máng cùng hạt trai của Peeta. Tôi luồn hạt trai vào một góc dù, vùi sâu vào đáy túi như thể nó là cuộc sống của Peeta mà không ai có thể lấy đi chừng nào tôi còn bảo vệ nó.
Tiếng còi văng vẳng bỗng tắt ngúm. Giọng Coin vang lên qua hệ thống truyền thanh của quận, cảm ơn chúng tôi đã gương mẫu sơ tán khỏi các tầng trên. Bà ta nhấn mạnh rằng đây không phải diễn tập, vì rất có thể trong buổi lên sóng trực tiếp Peeta Mellark, người chiến thắng Quận 12 đã đề cập đến một cuộc tấn công vào Quận 13 tối nay.
Đúng lúc đó quả bom đầu tiên đáp xuống. Đầu tiên là nhận thức về sự va chạm, sau đó là tiếng nổ làm chấn động mọi bộ phận sâu xa nhất trong cơ thể tôi, từ màng ruột, tủy xương cho đến chân răng. Chúng ta sắp đi đời rồi, tôi nghĩ. Tôi ngước mắt lên, đoán chừng sẽ nhìn thấy những khe nứt toang hoác chạy ngoằn ngoèo trên trần, những khối đá trút như mưa xuống đầu chúng tôi, nhưng boong ke lại chỉ rung động nhẹ. Điện tắt, bóng tối bao bọc tứ bề khiến tôi mất phương hướng. Những âm thanh nghẹn ngào của con người – những tiếng rít tức thời, tiếng thở đứt quãng, tiếng trẻ con thút thít, một tiếng cười điên loạn có giai điệu – quay cuồng xung quanh trong bầu không khí tích điện. Rồi có tiếng máy phát điện chạy ù ù, và chút ánh sáng lập lòe mờ ảo thay thế cho ánh đèn ảm đạm theo đúng chuẩn Quận 13. Trông giống cảnh tượng ở Quận 12 chúng tôi trước kia hơn, khi nến và lửa cháy le lói một tối mùa đông.
Tôi mò đến chỗ Prim giữa lúc tranh tối tranh sáng, nắm chặt chân em, lấy thân mình bao bọc cho em. Giọng em vẫn bình tĩnh trong khi vỗ về Hũ Bơ. “Không sao đâu cưng, không sao đâu. Ở dưới đây chúng mình sẽ ổn thôi mà.”
Mẹ tôi choàng tay quanh hai chị em. Tôi cho phép bản thân được cảm thấy non nớt trong thoáng lát và ngả đầu lên vai mẹ. “Chẳng giống trận đánh bom Quận 8 chút nào,” tôi nói.
“Có lẽ là tên lửa trên boong ke,” Prim nói, vẫn giữ giọng nhẹ nhàng cho con mèo yên tâm. “Bọn em đã được học cái này trong buổi định hướng dành cho các công dân mới. Chúng được thiết kế để đâm sâu vào lòng đất trước khi phát nổ. Vì đánh bom trên mặt đất Quận 13 thì chẳng ích gì nữa.”
“Hạt nhân à?” tôi hỏi, thấy bủn rủn khắp người.
“Không nhất thiết,” Prim đáp. “Loại gì mà chứa nhiều thuốc nổ bên trong ấy. Nhưng có khi... là loại đấy không chừng.”
Ánh sáng nhập nhoạng thành ra khó mà nhìn thấy cánh cửa kim loại nặng nề ở cuối boong ke. Nó có bảo vệ được chúng tôi chút nào khỏi cuộc tấn công hạt nhân không? Cho dù nó có thể ngăn chặn phóng xạ với hiệu quả lên tới một trăm phần trăm, mà điều này thực sự bất khả, liệu có khi nào chúng tôi ra được khỏi đây? Nghĩ đến việc phải dành phần đời còn lại dưới vòm đá hun hút này là tôi sợ chết khiếp. Tôi muốn chạy như điên về phía cửa, đòi được thả ra vào bất cứ điều gì đang xảy ra trên kia. Vô ích. Họ sẽ không đời nào làm vậy, và biết đâu tôi lại khơi lên một cuộc chạy loạn điên cuồng.
“Đã xuống sâu thế này rồi, mẹ chắc là mình được an toàn mà,” mẹ tôi rã rời nói. Có phải mẹ đang nghĩ đến chuyện cha tôi nổ mất xác trong mỏ than? “Dù sao thì cũng đã thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Tạ ơn trời đất là Peeta có phương tiện cần thiết để cảnh báo chúng ta.”
Phương tiện cần thiết. Một thuật ngữ chung chung bao gồm mọi thứ cậu cần để rung chuông báo động. Sự hiểu biết, cơ hội, lòng dũng cảm. Và thứ gì khác mà tôi không thể định nghĩa. Peeta dường như đã phải suy nghĩ rất lung, nỗ lực truyền tin ra ngoài. Tại sao chứ? Vận dụng ngôn từ trôi chảy như không vốn là tài năng nổi bật nhất của cậu kia mà. Có phải vì bị tra tấn mà cậu gặp khó không? Còn gì nữa? Loạn trí chăng?
Giọng Coin, giờ có vẻ nghiêm nghị hơn, vang khắp boong ke, độ to nhỏ chập chờn cùng ánh đèn. “Có vẻ Peeta Mellark đã đưa thông tin chính xác và chúng ta nợ cậu ấy một lời cảm ơn sâu sắc. Máy cảm biến cho biết tên lửa đầu tiên không phải hạt nhân, nhưng cực mạnh. Dự đoán sẽ có thêm vài vụ nữa. Trong thời gian vụ tấn công, các công nhân phải ở nguyên tại khu vực chỉ định nếu không được thông báo gì khác.”
Một người lính báo cho mẹ tôi đến trạm sơ cứu. Mẹ chần chừ không nỡ rời xa hai chị em tôi, dù chỉ cách chỗ này chừng ba mươi mét.
“Bọn con sẽ ổn thôi, thật mà mẹ,” tôi vỗ về. “Có ai qua được nó chứ?” Tôi chỉ Hũ Bơ đang rít lên vẻ chẳng coi tôi ra gì, thế là mấy mẹ con cũng cười được vài tiếng. Tôi thậm chí còn thấy thương nó. Mẹ đi rồi, tôi bảo em, “Sao em không bế nó vào giường hả Prim?”
“Em biết là ngớ ngẩn... nhưng em sợ giường bị sập xuống người trong vụ tấn công lắm,” em nói.
Nếu mấy cái giường sập xuống thì cả boong ke cũng sẽ sụp đổ chôn vùi chúng tôi, nhưng tôi quyết định lý lẽ này chẳng hữu ích gì. Thay vào đó, tôi dọn gọn ngăn chứa đồ làm cho Hũ Bơ một cái ổ bên trong. Rồi tôi kéo tấm nệm phía trước ra cho hai chị em nằm chung.
Chúng tôi được chia thành nhóm nhỏ để dùng nhà vệ sinh và đánh răng rửa mặt, nhưng phải nhịn tắm rửa. Tôi cuộn tròn trên nệm cùng Prim, đắp hai lớp chăn vì trong hang vừa lạnh vừa ẩm ướt. Con Hũ Bơ ủ ê dù vẫn được Prim liên tục vỗ về thì rúc trong ngăn vuông, phả hơi mèo vào mặt tôi.
Dù hoàn cảnh chẳng mấy dễ chịu, tôi vẫn rất vui vì có thời gian ở bên em gái. Mối bận tâm lớn nhất của tôi từ khi tới đây – không, thật ra là từ kỳ Đấu trường Sinh tử đầu tiên – là chưa quan tâm chu đáo đến em. Tôi đã không sát sao em như cách một người chị phải làm và đã từng làm. Rốt cuộc, chính Gale chứ không phải tôi mới là người kiểm tra phòng tôi. Đành coi như bù đắp cho em vậy.
Tôi nhận ra mình chưa bao giờ buồn hỏi em đương đầu thế nào với cú sốc khi chuyển tới đây. “Giờ Quận 13 thế nào hở Prim?” tôi mở lời.
“Ngay lúc này á?” em hỏi lại. Cả hai chúng tôi cùng cười. “Đôi khi em nhớ nhà da diết. Nhưng rồi nhớ ra ở đó chẳng còn gì mà nhớ nữa. Ở đây em cảm thấy an toàn. Em và mọi người không phải lo lắng về chị nữa. Ừm, không phải như trước kia.” Em ngập ngừng, nụ cười bẽn lẽn thoáng nở trên môi. “Em nghĩ họ sắp đào tạo em thành bác sĩ đấy.”
Lần đầu tiên tôi nghe thấy chuyện này. “Tất nhiên phải thế chứ. Có ngốc họ mới không làm vậy.”
“Họ đã quan sát em từ hồi em đỡ đần trong bệnh viện. Em đã đăng ký tham gia khóa học y rồi. Chỉ toàn thứ cơ bản cho người mới học thôi. Ở nhà em cũng biết nhiều rồi nhưng vẫn còn ối thứ phải học,” em kể.
“Tuyệt quá,” tôi nói. Bác sĩ Prim. Ở Quận 12 em còn chẳng dám mơ điều ấy. Một thứ gì đó nhỏ bé khẽ khàng, như một que diêm được đánh lên, xua tan nỗi ảm đạm trong lòng tôi. Đây chính là kiểu tương lai mà cuộc nổi dậy có thể đem lại.
“Thế còn chị, Katnisss? Chị xoay xở thế nào?” Đầu ngón tay em dịu dàng di những vạch ngắn giữa hai mắt Hũ Bơ. “Mà đừng nói là chị ổn đấy nhé.”
Thật vậy. Dù trái nghĩa với “ổn” là gì thì đó cũng chính là tình trạng của tôi lúc này. Thế nên tôi mạnh miệng kể em nghe về Peeta, vẻ tàn tạ của cậu trên màn hình, và rằng tôi nghĩ chắc lúc đó họ đã giết chết cậu rồi. Em kéo tôi lại gần hơn, vuốt tóc tôi ra sau tai. Tôi ngưng lại vì thực sự chẳng còn gì mà nói bởi trái tim tôi buốt nhói vô cùng. Có khi tôi còn đang lên cơn đau tim ấy chứ, nhưng việc này xem ra chẳng đáng nhắc đến.
“Katniss à, em không nghĩ Tổng thống Snow sẽ giết anh Peeta đâu,” em nói. Hẳn nhiên em sẽ nói thế rồi; em cho rằng nghe vậy tôi sẽ yên lòng. Nhưng những lời em nói sau đó thật đáng ngạc nhiên. “Nếu làm vậy ông ta sẽ chẳng còn ai mà đem ra giá với chị nữa. Ông ta sẽ chẳng còn cách nào làm tổn thương chị.”
Tôi bỗng nhớ về một cô gái khác, người đã chứng kiến mọi tai ương mà Capitol mang lại. Johanna Mason, vật tế Quận 7, ở trường đấu cuối cùng. Lúc đó tôi đã cố ngăn cô vào rừng nơi lũ húng nhây giả giọng những người yêu đang bị tra tấn, nhưng cô chỉ gạt tôi ra mà nói, “Chúng không làm tôi tổn thương được đâu. Tôi không giống đám còn lại các người. Tôi chẳng còn ai để mà yêu thương.”
Tôi biết Prim nói đúng, rằng Snow không thể lãng phí mạng sống của Peeta, nhất là bây giờ, khi Húng nhại đã gây ra quá nhiều thiệt hại. Ông đã giết Cinna rồi. Phá hủy quê hương tôi rồi. Gia đình tôi, Gale và thậm chí cả Haymitch cũng đã tuột khỏi tầm tay ông ta. Peeta là tất cả những gì ông ta còn lại.
“Thế em nghĩ chúng sẽ làm gì cậu ấy?” tôi hỏi.
Prim nói nghe như bà cụ nghìn tuổi.
“Bất cứ cái gì để đánh gục chị.”
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...