BOSA, SARDINIA
Gabriel chờ họ liên lạc trong hai ngày. Khách sạn của anh nhỏ, nó được sơn màu hoàng thổ và tọa lạc trong một khu bến cảng cổ gần cửa biển, nơi con sông Temo đổ ra biển. Phòng của anh nằm ở tầng trên cùng và có một ban công nhỏ cùng với một hàng rào sắt. Anh ngủ dậy muộn nên quyết định ăn sáng tại phòng ăn, và dành hết buổi sáng cho việc đọc. Bữa trưa anh ăn món pasta với cá ở một nhà hàng trong khu cảng, rồi đi bộ dọc theo con đường dẫn ra bãi biển phía Bắc thành phố và trải chiếc khăn bông trên cát ấm để nằm ngủ thêm một chút. Sau hai ngày, ngoại hình của anh được cải thiện rõ rệt, lên cân, lấy lại sức, và phần da bên dưới đôi mắt trông không còn vàng vọt nữa. Thậm chí anh bắt đầu thích diện mạo mới của mình với hàm râu mà anh đã từng cho là đáng ghét.
Vào buổi sáng thứ ba, chuông điện thoại reo. Anh lắng nghe chỉ thị rồi gác máy mà không nói nửa lời. Anh tắm, thay quần áo và thu dọn hành lý, rồi xuống lầu để ăn sáng. Sau bữa sáng, Gabriel thanh toán tiền phòng, anh đặt chiếc túi xách vào cốp chiếc xe đã thuê ở Cagliari và lái về phía bắc, khoảng ba mươi dặm, đến thành phố cảng Alghero. Anh để chiếc xe lại trên đường ở nơi được chỉ thị, và đi bộ dọc theo một con hẻm tối dẫn thẳng ra mé nước.
Dina đang ngồi uống cà phê trong một quán trên bến cảng. Nàng đeo kính râm, mang xăng-đan, và mặc một chiếc áo đầm sát nách; mái tóc đen nhánh dài ngang vai của nàng lấp lánh dưới ánh sáng lung linh phản chiếu lên từ mặt nước. Gabriel đi xuống một cầu thang bằng đá và bước lên một chiếc xuồng máy có sơn chữ Fidelity, khởi động động cơ Yamaha chín mươi mã lực, và cởi dây cột chiếc xuồng. Giây lát sau Dina lên xuồng với anh và, bằng thứ tiếng Pháp khá sõi, bảo anh hướng về một chiếc du thuyền lớn màu trắng đang neo trên mặt biển màu lam ngọc, cách bờ biển khoảng nửa dặm.
Gabriel cho chiếc xuồng máy chầm chậm rời cảng. Sau đó, khi đã ra vùng nước rộng hơn, anh tăng tốc, lái xuồng như bay trên những gợn sóng nhẹ hướng về chiếc du thuyền. Khi anh tiến lại gần, Rami xuất hiện trên boong tàu, mặc quần soóc may bằng vải ka-ki và một chiếc áo sơ-mi trắng. Anh leo xuống bậc bơi và bàn tay chìa ra khi Gabriel đến nơi.
Cabin chính trông giống một bản sao thu nhỏ của đại bản doanh của nhóm ở tầng hầm đại lộ King Saul. Các bức vách treo đầy bản đồ cỡ lớn, những thiết bị điện tử trên tàu đã được tăng cường công nghệ liên lạc mà Gabriel chưa từng biết đến kể từ vụ ám sát Abu Jihad. Yaakov nhìn lên từ một màn hình máy tính và giơ tay chào. Shamron, trong trang phục quần ka-ki dài và một chiếc sơ-mi ngắn tay, đang ngồi bên bàn bếp. Ông đẩy cặp kính lão lên trán và nhìn Gabriel như nhìn một tài liệu hoặc một tấm bản đồ mới. “Chào mừng đến với Fidelity”, ông nói, “sự kết hợp độc đáo giữa Sở chỉ huy và căn hộ an toàn”.
“Ông kiếm đâu ra chiếc du thuyền này vậy?”
“Từ một người bạn bên Văn phòng. Tình cờ nó đang neo ở Cannes. Chúng tôi đưa nó ra biển và bổ sung thêm những thiết bị mà chúng ta cần cho chuyến đi của mình. Chúng tôi cũng đã đổi tên cho nó”.
“Ai chọn tên thế?”
“Tôi chọn đấy”, Shamron đáp. “Nó có nghĩa là lòng trung thành và chung thủy…”
“Và hết lòng với nhiệm vụ, hoặc nghĩa vụ, hoặc lời thề của mình”, Gabriel nói. “Tôi biết ý nghĩa của nó. Tôi còn biết lý do ông chọn nó. Nó có cùng một lý do với việc ông sai Shimon Pazner đưa tôi đến xem đống đổ nát của tòa đại sứ”.
“Tôi nghĩ việc anh được tận mắt chứng kiến quang cảnh ở đó là điều rất quan trọng. Đôi khi, lúc mà con người ta đã quá quen với chiến tranh và khủng bố, kẻ thù có thể trở thành một thứ gì đó trừu tượng, không còn đáng sợ nữa. Lúc đó ta sẽ rất dễ quên bản chất của chúng. Tôi cho rằng có thể anh cần được nhắc nhở một chút”.
“Tôi làm công việc này lâu rồi, Ari. Tôi biết bản chất kẻ thù của tôi, và tôi biết ý nghĩa của từ “trung thành“. Gabriel ngồi xuống bên bàn, đối diện với Shamron. “Tôi nghe nói Varash đã họp sau khi tôi rời khỏi Cairo. Tôi cho rằng quyết định của họ là điều hoàn toàn dễ hiểu”.
“Khaled đã để lộ tung tích”, Shamron nói, “và Varash đã tuyên án”.
Gabriel luôn là người thực hiện những bản án đó, nhưng anh chưa bao giờ hiện diện tại phiên tòa. Người ta có xét xử đàng hoàng, nhưng những phán quyết hầu như luôn luôn nghiêng về phía công tố, và phiên tòa được tổ chức dưới những điều kiện bí mật đến nỗi bị cáo không hề biết rằng y đang bị xét xử. Bị cáo không có luật sư bào chữa; số phận của y được định đoạt không phải bởi một bồi thẩm đoàn đồng hương với y mà bởi những kẻ thù không đội trời chung. Chứng cứ phạm tội không bao giờ bị bác bỏ. Còn chứng cứ ngoại phạm không có cơ hội được đưa ra. Không có biên bản tòa án nào được lập và bị cáo không có quyền kháng án. Chỉ có một mức án duy nhất, và nó không thể thay đổi.
“Vì tôi là nhân viên điều tra, ông không phiền nếu tôi trình bày quan điểm của mình về vụ án chứ?”
“Nếu cậu muốn thế”.
“Toàn bộ vụ án chống lại Khaled chỉ dựa trên sự suy diễn, nếu có sự thật, thì nó cũng vô cùng mỏng manh”.
“Chứng cứ phạm tội đã quá rõ”, Shamron nói. “Và chúng ta lần ra chứng cứ đó từ thông tin của một người Palestine”.
“Đó chính là điều khiến tôi lo lắng”.
Yaakov ngồi vào bàn cùng họ. “Mahmoud Arwish là một trong những tài sản quý nhất của chúng ta trong hàng ngũ chính quyền Palestine từ nhiều năm qua. Mọi điều hắn nói với chúng ta từ trước đến giờ đều là sự thật”.
“Nhưng ngay cả Arwish cũng không dám chắc gã đàn ông trong tấm ảnh đó là Khaled. Vụ án này giống như một bộ bài đồng hoa. Chỉ cần một lá bài không đúng, toàn bộ vụ án sẽ sụp đổ - và chúng ta sẽ kết thúc với một xác người nằm trên đường phố của nước Pháp”.
“Có một chi tiết mà chúng ta đã biết về ngoại hình của Khaled, đó là hắn giống ông nội hắn như đúc”, Shamron nói. “Tôi là người duy nhất trong căn phòng này từng đối diện với đương sự bằng xương bằng thịt, và tôi đã nhìn thấy y trong một hoàn cảnh mà tôi không thể nào quên”. Shamron giơ bức ảnh lên cho mọi người thấy. “Gã đàn ông trong bức ảnh này có thể là anh em song sinh của Sheikh Asad”.
“Điều đó vẫn chưa chứng minh được hắn là Khaled. Chúng ta đang nói về việc giết một con người đấy”.
Shamron đưa bức ảnh hướng trực tiếp về phía Gabriel. “Thế cậu có công nhận là nếu gã đàn ông này bước vào tòa nhà số 56 đại Lộ Rémy, thì hắn chính là Khaled al-Khalifa không?”
“Điều đó thì tôi công nhận”.
“Vậy thì chúng ta chỉ việc giám sát tòa nhà đó rồi chờ đợi. Và hy vọng rằng hắn sẽ chường mặt ở đó trước khi hắn kịp thực hiện cuộc tàn sát tiếp theo. Nếu hắn xuất hiện, chúng ta sẽ chụp ảnh khi hắn bước vào tòa nhà. Nếu các chuyên gia của chúng ta khẳng định hắn là kẻ mà ta đang tìm, chúng ta sẽ loại hắn ra khỏi cuộc chơi”. Shamron khoanh hai tay trước ngực. “Dĩ nhiên là còn có một phương pháp nhận diện khác - phương pháp mà chúng ta đã áp dụng trong chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa”.
Một hình ảnh lóe lên trong ký ức của Gabriel.
“Xin lỗi, ông có phải là Wadal Zwaiter?”
“Không! Xin đừng!”
“Đối phương phải rất lạnh lùng mới có thể không phản ứng khi nghe gọi tên thật của mình trong một tình huống như thế”, Shamron nói. “Và còn phải lạnh lùng hơn để không thò tay rút súng khi đối diện với kẻ sắp giết mình. Dù cách nào chăng nữa, nếu đó đúng là Khaled, hắn sẽ tự xác nhận danh tính, và cậu sẽ không phải đắn đo gì nữa khi bóp cò”.
Shamron lại đẩy cặp kính lên trán. “Tôi muốn Fidelity thả neo ở Mác-xây vào lúc chập tối. Anh sẽ có mặt trên tàu chứ?”
“Chúng ta sẽ áp dụng mô hình Cơn thịnh nộ của Chúa”, Shamron bắt đầu. “Aleph, Bet, Ayin, Qoph. Nó có hai ưu điểm. Nó quen thuộc với cậu và rất hiệu quả”.
Gabriel gật đầu.
“Cố nhiên chúng ta sẽ phải có một số điều chỉnh nhỏ và kết hợp một số chi tiết lại với nhau nhưng một khi chiến dịch đã bắt đầu, cậu sẽ cảm thấy rất quen thuộc. Cậu, dĩ nhiên, sẽ là Aleph, người nổ súng, tay sát thủ. Các đội Ayin, tức những nhân viên theo dõi, đã bắt đầu vào vị trí. Nếu Khaled đến căn hộ đó, hai trong số các nhân viên theo dõi sẽ chuyển sang vai trò Bet và bảo vệ đường thoát thân của cậu”.
“Còn Yaakov?”
“Hình như hai người đã phát triển một mối quan hệ khá tốt. Yaakov sẽ là đội phó của cậu. Trong đêm hành động, nếu chúng ta gặp may, cậu ta sẽ là tài xế của cậu”.
“Còn Dina thì sao?”
“Qoph”, Shamron đáp. “Liên lạc. Cô ấy sẽ tham khảo ý kiến đại lộ King Saul về việc nhận diện mục tiêu. Cô ấy cũng sẽ đóng vai trò bat leveyha của Yaakov. Cậu sẽ giấu mặt trên thuyền cho tới lúc ra tay. Khi Khaled đã bị hạ, mọi người sẽ rời khỏi hiện trường theo các lộ trình khác nhau và nhanh chóng ra khỏi nước Pháp. Cậu và Yaakov sẽ đến Geneva và từ đó bay về nhà. Dina sẽ đưa chiếc tàu ra khỏi cảng. Một khi cô ấy đã ra khơi, chúng ta sẽ đưa một nhóm nhân viên lên tàu và đưa nó về nhà”.
Shamron trải tấm bản đồ khu vực trung tâm thành phố Mác-xây lên mặt bàn. “Chúng ta đã đặt sẵn một chỗ cho anh ở đây” - ông gõ gõ lên tấm bản đồ bằng ngón tay trỏ mập mạp - “ở phía đông khu cảng cũ, dọc theo bờ kè Rive-Neuve. Đại lộ Rémy nằm ở đây”, một cú gõ nữa, “cách sáu dãy phố về phía đông. Nó chạy từ Place de la Préfecture về phía nam, đến Jardin Pierre Puget - Vườn Pierre Puget”.
Shamron đặt một bức không ảnh vệ tinh chụp con đường lên trên tấm bản đồ.
“Nói thật, nó là con đường lý tưởng cho chiến dịch của chúng ta. Tòa nhà số 56 nằm ở đây, trên lề đường phía đông. Nó chỉ có một lối vào duy nhất, và điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không thể đón hụt Khaled nếu hắn mò đến. Như cậu đã thấy trên bức ảnh, con đường này rất đông đúc, nó lắm xe cộ, nhiều người trên các lối đi bộ, còn các cửa hiệu và văn phòng. Có thể nhìn thấy lối vào ngôi nhà số 56 từ bãi đất rộng phía trước Palais de Justice. Công viên này là nhà của những người vô gia cư. Hiện nay chúng ta đã có hai nhân viên theo dõi ở đó”.
Shamron điều chỉnh góc độ của bức ảnh.
“Nhưng đây mới là điểm quan sát lý tưởng nhất, bãi đậu xe payage nằm ngay giữa lộ. Vị trí này hiện nay đang thuộc về chiếc xe thuê của một nhân viên theo dõi. Chúng ta có năm chiếc xe khác. Tất cả đều được trang bị máy quay phim mi-ni độ nét cao. Các máy quay sẽ truyền hình ảnh về bằng tín hiệu vô tuyến mã hóa. Bộ giải mã duy nhất nằm trong tay các anh”.
Shamron gật đầu với Yaakov, và anh bấm nút. Một màn ảnh truyền hình plasma lớn từ từ mọc lên từ dưới sàn khu vực giải trí.
“Chúng ta sẽ theo dõi lối vào tòa nhà từ đây”, Shamron nói. “Các nhân viên theo dõi sẽ xoay vòng những chiếc xe theo thứ tự lộn xộn để đề phòng Khaled hoặc người của hắn để mắt đến khu payage. Họ sẽ tính toán thời gian rất kỹ và phối hợp thật hoàn hảo để khi một chiếc xe rời khỏi vị trí, chiếc xe tiếp theo sẽ lập tức trám chỗ”.
“Thật tài tình”, Gabriel lẩm bẩm.
“Thật ra đó là đề nghị của Yaakov. Cậu ta từng thực hiện nhiệm vụ này ở những nơi khó ngụy trang các đội theo dõi hơn rất nhiều”. Shamron đốt một điếu thuốc lá. “Cho cậu ấy xem chương trình máy tính đi”.
Yaakov ngồi xuống trước một chiếc máy tính xách tay và gõ một lệnh. Một phiên bản hoạt hình của Đại lộ St. Rémy và các đường xung quanh xuất hiện trên màn hình.
“Vì chúng đã biết mặt cậu nên cậu sẽ không thể rời khỏi tàu cho tới lúc ra tay. Điều đó có nghĩa là cậu không thể tự mình làm quen với địa điểm hành động. Nhưng ít nhất cậu có thể làm quen với nó tại đây. Công nghệ mới đã tạo ra thứ này, nó sẽ cho phép cậu đi bộ qua đại lộ Rémy ngay tại đây, trong phòng khách của tàu Fidelity”.
“Không hoàn toàn giống nhau đâu”.
“Công nhận”, Shamron nói, “nhưng chúng ta phải hài lòng với nó”. Ông lại chìm vào một khoảnh khắc im lặng trầm ngâm. “Vậy điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta nhìn thấy một gã đàn ông Arập, khoảng ba mươi lăm tuổi, bước vào tòa nhà Số 56?”. Ông bỏ lửng câu hỏi trong vài giây, rồi tự trả lời. “Cậu và Dina sẽ quyết định đó có phải là hắn hay không. Nếu có, cậu sẽ gửi tín hiệu về đại lộ King Saul theo một đường truyền bảo mật. Sau đó cậu truyền đoạn video về. Nếu hài lòng, chúng tôi sẽ ra lệnh hành động. Cậu và Yaakov sẽ rờiFidelity và di chuyển về phía Place de la Préfecture bằng xe môtô - tất nhiên là Yaakov lái xe, cậu ngồi phía sau. Cậu sẽ tìm một nơi nào đó để đợi hắn trở ra. Có thể là ngồi ngay trong công viên hoặc uống bia trong một quán cà phê trên lối đi bộ. Nếu hắn ở trong đó lâu, cậu sẽ phải đi tiếp. Đó là một khu dân cư bận rộn có thói quen thức khuya. Cả hai cậu đều là những người dày dạn kinh nghiệm. Các cậu biết phải làm gì. Khi Dina thấy Khaled bước ra khỏi ngưỡng cửa cô ấy sẽ phát tín hiệu cho cậu bằng vô tuyến. Cậu phải trở lại đại lộ Rémy trong thời gian không quá ba mươi giây”.
Shamron từ tốn dụi điếu thuốc.
“Tôi không quan tâm liệu hành động này có diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật hay không”, ông nói bằng giọng đều đều. “Tôi không quan tâm nếu hắn có bạn đi cùng. Tôi cũng không quan tâm nếu có đông người chứng kiến vụ ám sát này. Khi Khaled al-Khalifa bước ra khỏi tòa nhà đó, tôi muốn cậu hạ hắn ngay lập tức”.
“Còn đường thoát?”
“Đi lên theo đại lộ Notre-Dame, qua đường du Prado. Chạy về hướng đông với tốc độ cao. Nhóm Ayin sẽ chuẩn bị sẵn một chiếc xe hơi cho các cậu trong bãi đậu xe của sân vận động Vélodrome. Sau đó chạy sang Geneva nhanh nhất có thể. Chúng tôi sẽ đưa cậu tới một căn hộ an toàn ở đó và cậu sẽ phải tiếp tục di chuyển đến khi nào mọi việc đã yên ổn”.
“Bao giờ chúng tôi rời khỏi Sardinia?”
“Ngay bây giờ”, Shamron nói. “Hãy đi lên phía bắc, hướng về đảo Corsica. Ở góc tây nam của hòn đảo là cảng Propriano. Từ đó có phà đi Mác-xây. Các cậu sẽ bám theo nó qua biển Địa Trung Hải. Đó là một hành trình chín giờ đồng hồ từ Propriano. Các cậu sẽ cập cảng sau khi trời tối và đăng ký với ban quản lý cảng. Sau đó liên lạc với các nhân viên theo dõi và thiết lập đường truyền với các máy quay giám sát”.
“Còn ông?”
“Điều mà cậu không cần nhất ở Mác-xây là một ông già như tôi. Rami và tôi sẽ chia tay cậu ở đây. Tối mai chúng tôi sẽ trở về Tel Aviv”.
Gabriel nhặt bức ảnh vệ tinh chụp đại lộ Rémy và nghiên cứu nó một cách cẩn trọng.
“Aleph, Bet, Ayin, Qoph”, Shamron nói. “Sẽ giống hệt vụ ám sát trước đây thôi”.
“Phải”, Gabriel đáp. “Làm gì có trục trặc nào xảy ra được?”
Yaakov và Dina ở lại chờ trên tàu Fidelity trong khi Gabriel đưa Shamron và Rami lên bờ. Rami nhảy lên cầu tàu và giữ chặt chiếc xuồng để Shamron từ từ leo lên.
“Chỉ một lần này nữa thôi”, Gabriel nói. “Lần cuối cùng. Sau lần này là chấm hết”.
“Tôi tin là cả hai chúng ta sẽ được hoàn toàn nghỉ ngơi sau vụ này”, Shamron đáp. “Anh sẽ về nhà, chúng ta sẽ cùng chào đón tuổi già”.
“Chúng ta đã già rồi”.
Shamron nhún vai. “Nhưng chưa quá già cho một trận chiến cuối cùng”.
“Tôi không nghĩ vậy”.
“Nếu cậu có cơ hội bóp cò, đừng do dự. Hãy làm tròn bổn phận của mình”.
“Với ai?”
“Tất nhiên là với tôi”.
Gabriel cho xuồng quay đầu và rời khỏi cảng. Anh ngoái đầu nhìn lại và thấy Shamron đang đứng bất động trên cầu tàu với một cánh tay giơ cao thay cho lời chào tạm biệt. Khi anh ngoái lại lần thứ hai, ông già đã biến mất. Fidelity đã nhổ neo. Gabriel mở hết tốc lực phóng theo chiếc du thuyền ấy.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...