Chương 31
Mọi năm, vào ngày lễ Tình nhân -Valentine, hội học sinh lại tổ chức gây quỹ bằng cách bán hoa hồng và nhận luôn chuyển phát nhanh tới tận từng lớp. Có bốn loại hồng được bán, đó là hồng trắng, hồng vàng, hồng đỏ và hồng phớt, còn ý nghĩa ẩn chứa đằng sau từng màu hoa thì được đám con gái trong trường giải nghĩa và phân tích tới vô cùng vô tận. Mimi luôn hiểu chúng theo nghĩa như thế này: hồng trắng tượng trưng cho tình yêu, hồng vàng cho tình bạn, hồng đỏ cho đam mê và hồng phớt cho một đối tượng bí mật mà ai đó phải lòng. Vào ngày Valentine hàng năm, Mimi luôn là người nhận được những bó hồng to nhất và lộng lẫy nhất. Một trong những thần linh quen thuộc loài người của cô đã từng mua tới tận sáu mươi bông hồng đỏ để chứng minh sự tận tụy vĩnh cửu của anh ta đối với cô. Lúc này, Mimi đang ngồi trong phòng thí nghiệm môn Hóa - tiết thứ nhất của buổi sáng hôm nay, và chờ đợi một đợt sóng “hoa” ập đến.
Đám chân chạy việc trong hội học sinh cuối cùng cũng tới, mang theo những giỏ đầy hoa.
- Chúc mừng ngày lễ Valentine! - Cả đám đồng thanh cất tiếng lảnh lót với thầy Korgan, người lúc này đang tỏ vẻ bị quấy rầy cực độ.
- Rồi, rồi, làm lẹ đi cho xong nào. - Thầy phàn nàn.
Rất nhiều cô nàng trong lớp nhận được những bó hoa nho nhỏ và phần lớn đều là hồng vàng, điều này có nghĩa là các cô gái đã tự bỏ tiền túi của mình để tặng hoa cho nhau. Đó cũng là một cách giúp đám con gái tự làm mình cảm thấy khá hơn vì không có một lễ Valentine tử tế, đúng nghĩa.
Schuyler đang ngồi trên chiếc bàn quen thuộc của cô. Tuần này, lớp lại đổi chỗ ngồi theo lượt nên cô lại quay về ngồi chung với Oliver. Cô nhận được một đóa hồng vàng. Năm ngoái, Oliver cũng gửi tặng cô một bó như vậy, không quên kèm theo một tấm thiệp với nét chữ không lẫn đi đâu được của cậu trên đó.
- Cảm ơn, Ollie. - Schuyler mỉm cười, hít hà hương hoa tươi mới.
- Còn đây là cho anh, anh Hazard-Perry. - Cô gái đưa hoa năm nhất nói, đoạn trao cho Oliver một bó hồng phớt.
Mặt Oliver biến sắc:
- Hồng phớt à?
- Một người hâm mộ bí mật! - Schuyler trêu trọc. Cô đã quyết định gửi tặng cậu một đóa hồng phớt vì họ lúc nào cũng tặng nhau hồng vàng, thành thử quá dễ đoán là ai tặng ai. Tại sao năm nay lại không thêm một chút xíu gia vị mới mẻ nhỉ?!
- Ha. Phải rồi. Tớ biết cậu đã đặt mua chúng, Sky. - Oliver nói, rút ra tấm thiệp trên đỉnh bó hoa. Cậu đọc to: - “Oliver, cậu sẽ là “valentine”[58] bí mật của tớ chứ? Yêu cậu, Sky.”
[58] Valentine: người yêu.
Cậu đút tấm thiệp vào phong bì và không nhìn Schuyler trong một phút. Schuyler muốn dòm ngó tâm trí cậu. Cô đã hoàn thành xuất sắc bài học về nguyên tắc “chụp bắt” thứ nhất, nhưng Oliver cũng được dạy dỗ và chẳng mấy chốc, cậu đã thành thạo kỹ năng “bế quan tỏa cảng”, giúp cậu đóng kín tâm trí mình trước những ảnh hưởng ngoại lực, vì vậy Schuyler không còn đọc tâm trí cậu được nữa.
Bliss, lúc này đang ngồi chung bàn với Kingsley, cũng nhận được hai bó hồng đỏ thắm có độ lớn ngang nhau.
- A, xem ra anh có đối thủ cạnh tranh đây. - Kingley kéo dài giọng.
- Chẳng có gì đâu. Chỉ là từ một anh chàng em thậm chí còn không biết rõ lắm.
- Bliss lẩm bẩm. Không nghi ngờ gì nữa, bó hoa thứ hai là của Morgan. Anh chàng đã đặt hoa từ tận phòng ngủ kí túc xá của mình bên đảo Rhode.
Tấm thiệp của Morgan ghi: “Em luôn luôn ở trong tâm trí anh. Yêu em, M.”
Còn Kingsley thì trao tận tay cô đóa hoa hồng của cậu.
- Anh ước chúng có màu xanh ngọc, màu đó hợp với em hơn nhiều. Màu này “chọi” với màu tóc của em.
- Ổn mà anh. - Bliss thì thầm. Cô vẫn chưa hiểu rõ tình cảm cô dành cho Kingsleylà thứ tình cảm gì. Nhưng cô luôn có cảm giác ở bên anh là một sự phản bội đối với ký ức về Dylan.
Sau khi đã phân phát hết những bó hoa cỡ vừa, đám học sinh nhận đưa hoa mới mang ra những bó lớn. Những bó hoa bốn tám bông hay ba sáu bông hoa được trang trí theo kiểu “bành trướng” siêu lộng lẫy, và chúng đều có màu nhung đỏ thẫm, tất cả dường như đều có tên của Mimi Force trên thiệp gửi kèm. Ngay lập tức, khu vực quanh bàn Mimi trông như nhà tang lễ[59].
[59] Nhà tang lễ thường có rất nhiều hoa. Ở Mỹ, hoa tang được bài trí và sắp xếp rất đẹp, với màu sắc thanh tú hơn so với hoa tang thường thấy ở Việt Nam. Nhưng dù sao tác giả cũng có nhiều so sánh thấy ghê à >”<
- Có vẻ mọi chuyện xong rồi đấy nhỉ. - Thầy Korgan lầm bầm.
- Khoan, chúng ta vẫn còn một bó. - Một người đưa hoa nói, đoạn mang ra một bó hoa chắc chắn là bó hoa đắt nhất trong số tất cả những bó đã được chuyển phát ngày hôm nay: một bó hoa dài hơn chín mươi xentimét với hai trăm bông hồng trắng, một màu trắng ngà tinh khôi tuyệt đẹp. Tất cả các cô gái trong phòng chết lặng. Gần như không một chàng trai nào từng mua tặng hồng trắng. Nó là dấu hiệu lớn nhất của sự cam kết. Và đóa hoa vĩ đại này thực tế không chỉ “nói” mà là “gầm lên” tiếng gọi của một trái tim đã chịu quy phục hoàn toàn. (Hoa to quá mà XD)
Người đưa hoa mang bó hoa tới trước mặt Schuyler.
Mimi nhướng một bên mày. Cô luôn luôn thắng cuộc trong trò chơi “thi hoa” này. Vậy chuyện này rốt cuộc là sao đây?
- Của tôi sao? - Schuyler hỏi, kinh ngạc trước kích cỡ của đóa hoa. Cô lôi tấm thiệp từ cành hoa cao nhất.
“Dành tặng Schuyler, cô gái không thích những câu chuyện tình.”
Không có chữ ký kèm theo.
Mimi liếc nhìn chằm chặp những đóa hoa hồng đỏ của mình, những bông hoa dường như héo tàn trước cái lừ mắt của cô. Cô không cần phải mất công đoán xem ai đã gửi những bông hồng trắng sáng chói kia cho con quỷ con. Màu trắng của ánh sáng. Màu trắng của tình yêu. Màu trắng của sự vĩnh cửu.
Đã tới lúc cô phải thực hiện kế hoạch của mình rồi.
Khi bước ngang qua chỗ Schuyler ngồi, Mimi vờ như trượt chân và ngã tựa vào ghế của Schuyler. Cô nhanh tay túm lấy một sợi tóc sẫm màu của Schuyler.
- Ái! - Schuyler kêu lên.
- Cứ chờ xem. - Mimi khịt mũi. Sợi tóc đã nằm chắc chắn trong tay cô. Từ giờ tới lúc đó sẽ không còn lâu nữa đâu.
Chương 32
Sau khi đã thành thục nguyên tắc “chụp bắt” thứ nhất, Schuyler chuyển sang học nguyên tắc thứ hai: nguyên tắc “đề xuất”. Đây là nguyên tắc dạy ma cà rồng kỹ năng nhen nhóm kế hoạch hay ý tưởng nào đó vào đầu một kẻ khác.
- Đây là cách chúng ta đã dùng để đánh bại Máu Đỏ trong mọi việc, từ trí tuệ tuyệt đỉnh, tài năng nghệ thuật và cả sắc đẹp nữa. - Ông ngoại cô tiết lộ. - Chúng ta thường sử dụng “đề xuất”. Nó là một công cụ hữu ích. Phần lớn mọi người đều thích cho rằng ý tưởng của họ chính là do họ nghĩ ra, vì thế chúng ta chỉ “đề xuất” cho họ mà thôi. Nếu không có sự can thiệp của chúng ta thì loài người sẽ chẳng bao giờ có cái gọi là “New Deal”[60], “An sinh xã hội” hay thậm chí cả “Lincoln Center”[61] nữa.
Luyện “Đề xuất” thậm chí còn khó hơn luyện “thần giao cách cảm”. Lawrence giải thích rằng Máu Xanh phải sử dụng nó thật tài tình sao cho con người không cảm nhận được họ đang bị điều khiển. Ông nói:
- Loại hình quảng cáo tác động tiềm thức[62] cũng là do người của chúng ta sáng chế ra, hiển nhiên là vậy rồi. Nhưng đến khi Máu Đỏ phát hiện ra, ngay lập tức họ cấm sử dụng nó. Thật là đáng tiếc.
[60] New Deal: tên gọi chính sách cải cách kinh tế - xã hội thập niên 30 (thế kỷ 20) của tổng thống MỹFranklin D. Roosevelt.
[61] Lincoln Center: tên một nhà hát lớn ở New York (Mỹ), nơi chuyên tổ chức mọi loại hình nghệ thuật.
[62] Đây là loại hình quảng cáo khá phổ biến, người ta chiếu các hình quảng cáo rất nhanh trên tivi và phim ảnh nhưng lại gây ảnh hưởng lớn đến tiềm thức thị giác của người xem.
Buổi tối hôm trước, Lawrence đã yêu cầu cô “đề xuất” một việc gì đó cho Anderson. Sau mấy tiếng đồng hồ nỗ lực hầu tìm ra tín hiệu trung tâm trong não bộ Anderson, đồng thời phải tìm cách gửi tới trung khu não bộ một thông điệp, thì ông lão đột nhiên đứng dậy, nói rằng ông muốn uống trà và hỏi xem liệu có ai muốn uống nữa không?
Khi Anderson rời đi, Lawrence nhìn về phía cô cháu gái.
- Là cháu làm, đúng không?
Schuyler gật đầu. Bài học đã lấy đi của cô gần như toàn bộ sức lực, tất cả chỉ để gửi đi một thông điệp vô cùng đơn giản.
- Tốt. Ngày mai chúng ta sẽ bỏ qua bữa chiều để làm một vài chuyện khác quan trọng hơn.
Ngày hôm sau, lúc ở trường, nỗ lực hoàn thành bài học “đề xuất” đã khiến Schuyler phải trả giá. Dọc đường quay lại sảnh chính sau tiết ba, Schuyler đột nhiên cảm thấy chóng mặt. Cô bước đi lảo đảo và có lẽ đã ngã nhào xuống cầu thang nếu không cóJack Force kịp thời đỡ lấy.
- Bám chắc nào. - Jack nói. - Cậu vẫn ổn chứ?
Schuyler mở to mắt. Jack đang nhìn cô, lo lắng.
- Tớ chỉ trượt chân thôi... Tớ hơi mệt.
Mấy đứa con gái đi ngang qua hành lang phía sau cô trao nhau những nụ cười “ta đây thừa biết”. Cái kiểu ốm mệt đấy là chuyện thường ngày ở huyện trong cái trường này, và đó là dấu hiệu của bệnh biếng ăn. Rõ ràng là Schuyler Van Alen đang phải chịu một cơn rối loạn tiêu hóa. Mọi người đều nhận thấy cô ả quá gầy.
- Để tớ đưa cậu về. - Jack nói, bế cô lên ngang người.
- Không, Oliver - Conduit của tớ, cậu ấy sẽ. Mà thực tình không có chuyện gì đâu, chỉ là tớ đã dành nhiều thời gian để luyện tập kỹ năng “chụp bắt”. - Cô nói, hơi có chút ngượng ngùng thái quá.
- Tớ tin Oliver hiện đang phải thuyết trình trong lớp tiếng Anh. - Jack nói. - Nhưng tớ có thể gọi cậu ta nếu cậu muốn vậy.
Schuyler lắc đầu. Không, như vậy sẽ không công bằng cho Oliver nếu cậu phải nhận điểm kém chỉ vì cô bị ốm.
- Thôi nào, để tớ đưa cậu ra taxi và hộ tống cậu về nhà an toàn.
Lawrence đang ngồi viết lách trong thư phòng thì Hattie gõ cửa.
- Cô Schuyler đã về rồi, thưa ông. Có vẻ cô ấy đã phải bỏ dở tiết học.
Lawrence bước xuống cầu thang và nhìn thấy Jack đang bế Schuyler trên tay cậu. Jack giải thích rằng Schuyler đã thiếp đi lúc còn ở trên taxi.
- Nhân tiện, cháu là Jack Force. - Cậu mở lời giới thiệu.
- Phải rồi, phải rồi. Ta biết cậu là ai. Hãy đặt con bé xuống ghế bành đã. - Lawrencebảo rồi dẫn Jack vào phòng khách.
Jack đặt Schuyler nhẹ nhàng xuống chiếc đi-văng bọc nhung mềm mại, còn Lawrence phủ lên người cô cháu gái một tấm chăn lông cừu.
Làn da Schuyler tái nhợt đến mức gần như trong suốt, hàng lông mi đen mượt của cô rủ xuống hai má. Nhịp thở cô không đều và khó nhọc. Lawrence đặt bàn tay mát lạnh lên vầng trán nóng bỏng của cô và gọi Hattie mang tới một chiếc nhiệt kế.
- Con bé như đang bốc cháy vậy. - Ông nói bằng một giọng bồn chồn, lo lắng.
- Cô ấy lả đi lúc ở trường. - Jack giải thích. - Cô ấy có vẻ rất ổn lúc trên xe, và rồi cô ấy nói cô ấy buồn ngủ, và... ừm... như ông thấy đấy.
Lawrence nhíu mày càng dữ hơn.
- Cô ấy nói cô ấy đang học kỹ năng “chụp bắt”. - Jack chĩa tia nhìn sắc lẻm vào Lawrence.
- Đúng vậy, chúng ta đang thực hành kỹ năng đó. - Lawrence gật đầu xác nhận. Ông ngồi xuống cạnh cô cháu gái và nhẹ nhàng đút cây nhiệt kế vào giữa hai bờ môi hơi hé mở của cô.
- Việc này đi ngược lại Luật của Ủy Ban. - Jack nhắc nhở.
- Ta không nhớ rằng cậu còn biết quan tâm tới luật cơ đấy, Abbadon. - Lawrencenói. Không ai trong hai người chịu lên tiếng thừa nhận tình bạn trước đây giữa họ, cho tới lúc này. - Cậu là người đã đứng về phía chúng ta khi ở Plymouth, chấp nhận trả giá bằng cả danh dự của chính mình.
- Thời thế đổi thay rồi. - Jack lầm bầm. - Nếu những gì ông vừa nói là đúng, thì chính ông đã làm cô ấy suy kiệt.
Lawrence rút cây nhiệt kế ra khỏi miệng Schuyler.
- Một trăm mười hai độ[63]. - Ông nói. Với một người bình thường thì con số này coi như tấm giấy báo tử hoặc không ít nhất cũng là hư tổn vĩnh viễn rồi. Nhưng Schuyler là một ma cà rồng, và nhiệt độ này vẫn trong tầm chấp nhận được đối với giống loài của cô. - Có hơi cao. - Lawrence nói. - Nhưng nghỉ ngơi tốt thì sẽ sớm khỏi thôi.
[63] Độ F, xấp xỉ 44,5 độ C.
Vài phút sau đó, Schuyler thức dậy, thấy Jack cùng ông ngoại đang nhìn cô đầy quan tâm. Cô rùng mình dưới chiếc chăn len, đoạn kéo nó lên cao, quấn chặt lấy hai vai cô.
- Cháu yêu, chuyện này từng xảy ra trước đó chưa?
- Đôi khi ạ. - Schuyler nhẹ nhàng thú nhận.
- Sau những giờ thực hành à?
Schuyler gật đầu. Cô đã không dám thú nhận vì cô vẫn muốn tiếp tục được ông dạy.
- Đáng ra ta phải nhận ra. Có phải lần đầu tiên chuyện này xảy ra là khi cháu rơi vào trạng thái ngủ đông, vài ngày sau cuộc rượt đuổi giữa hai chúng ta ở Venice không?
Schuyler lại gật đầu. Cô vẫn còn nhớ những gì bác sĩ Pat đã nói: Đôi khi nó còn là một phản ứng trì hoãn.
- Ta đã biết nguyên nhân làm cháu suy kiệt rồi. - Lawrence nói. - Ta đáng bị trừng phạt vì đã không nhận ra vấn đề sớm hơn. Chuyện cũng đơn giản thôi. Do luyện tập sử dụng sức mạnh ma cà rồng nên các tế bào máu xanh của cháu phải làm việc quá sức, và vì các tế bào máu đỏ của cháu vốn cũng không cao do bản chất pha trộn máu của cháu, kết quả là năng lượng của cháu bị giảm sút. Chỉ có một cách duy nhất giúp lượng máu của cháu trở về mức bình thường. Chính là cháu phải thu nạp một thần linh quen thuộc ngay.
- Nhưng cháu vẫn chưa đủ mười tám mà. -Schuyler phản đối, viện cớ chưa đủ tuổi thực hành Nụ hôn Thần Thánh. - Cháu tính là sẽ chờ tới khi nào đủ tuổi.
- Đây là việc hệ trọng, Schuyler ạ. Ta đã bất lực nhìn mẹ cháu rơi vào hôn mê, ta cũng không muốn mất luôn cháu. Trong lúc cháu sở hữu những sức mạnh đặc biệt mà ma cà rồng ở tuổi cháu thậm chí còn không dám mơ tưởng tới, thì xét về nhiều mặt, cháu cũng có thể coi là yếu hơn cả một Máu Xanh có sức mạnh mức trung bình. Cháu không thể thoát khỏi quá trình chuyển đổi, nhưng cháu có thể kiểm soát một vài tác hại của nó. Cháu phải thu nạp một thần linh quen thuộc trước khi sang tuổi mười tám. Một cậu bé loài người. Vì bản thân cháu.
Jack hắng giọng, khiến Schuyler ngạc nhiên là cậu vẫn còn ở đây. Cậu đã im lặng suốt lúc ông cô giảng giải.
- Tôi nghĩ đã đến lúc mình nên đi rồi. Tạm biệt Lawrence, Schuyler.
Cửa phòng mở đúng lúc Jack chuẩn bị bước ra. Oliver Hazard-Perry đứng ngay ngưỡng cửa ra vào, trông cậu có vẻ bối rối khi bắt gặp Jackở đây.
- Tôi nghe nói Schuyler phải bỏ tiết giữa chừng. Tôi lo quá nên đã chạy tới đây nhanh nhất có thể.
Cả ba ma cà rồng cùng nhìn vào cậu, tất cả đều chung một ý nghĩ trong đầu.
Oliver là một “cậu bé loài người”. Một Máu Đỏ chính cống. Và Schuyler lại đang cần một thần linh quen thuộc.
- Sao? - Oliver hỏi khi không thấy ai đáp lại mình. - Người tôi bốc mùi hay có chuyện gì à?
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...