Em ở đâu

Chương 2.3
Tất cả các campesino (1) đã tập hợp lại đứng dọc hai bên lề đường dẫn vào thôn. Lần này, không ai dám leo lên bậc lên xuống của xe. Susan cho xe chạy chậm lại và dân làng lại đứng túm tụm quanh chiếc xe. Cô tắt máy và bước xuống, quay đầu từ trái qua phải, hãnh diện đáp lại mỗi ánh mắt đang nhìn mình. Juan đứng phía sau cô, lấy chân di di lên nền đất, cố gắng lấy vẻ bình tĩnh. Rolando đến đứng trước mặt cậu. Ông ném mẩu thuốc lá xuống đất.      
Susan hít một hơi thật sâu rồi bắt đầu đi vòng ra sau chiếc Dodge. Đám đông đưa mắt nhìn theo cô. Rolando tiến đến gần. Gương mặt ông không để lộ một chút cảm xúc. Bằng một động tác nhanh gọn, cô nâng tấm bạt lên, và ngay lập tức Juan giúp cô hạ tấm cửa chắn xuống, để lộ ra cô bé mà Susan đưa trở lại về làng. Cô bé chỉ còn một bên chân, nhưng cô bé dang rộng hai cánh tay về phía người đã cứu mạng mình. Rolando leo lên thùng xe và nâng bổng cô bé lên.Ông thì thầm vài tiếng vào tai cô bé, làm em mỉm cười. Khi bước xuống xe, ông đặt cô bé xuống đất, quỳ xuống ngang tầm vai em để đỡ em đứng thẳng. Vài giây im lặng, rồi tất cả những người đàn ông có mặt ở đó tung ũ lên trời và hét lên những tiếng reo vang dội rừng núi. Susan ngại ngùng cúi đầu để không ai nhìn vào cô trong khoảnh khắc này, khi mà cô cảm thấy mình vô cùng yếu đuối. Juan nắm lấy cổ tay cô. “Để kệ tôi” cô nói. Cậu siết chặt tay cô: “Thay mặt họ cảm ơn cô.” Trong khi đó, Rolando đã trao lại bé gái ột người phụ nữ rồi bước đến gần bên cô. Ông đưa tay về phía gương mặt cô, nâng cằm cô lên và quay sang hỏi Juan với một vẻ uy quyền:
- Tên của cô ấy là gì?    
Juan nhìn chăm chăm vào người đàn ông có vóc dáng lừng lững và đợi vài giây trước khi trả lời.    
- Dưới kia, trong thung lũng, người ta gọi cô ấy là Senora Blanca.  
Rolando tiến thêm một bước đầy thân thiện về phía cô, ông đặt đôi bàn tay to bè lên vai cô. Những nếp nhăn hằn sâu quanh mắt ông nheo lại, miệng ông rộng mở trong một nụ cười phóng khoáng, để lộ một phần hàm răng. 
- Dona Blanca(2)! ông thốt lên. Rolando Alvarez đã gọi cô như thế.         
Người nông dân nắm tay dẫn Juan đi trên con đường mòn rải đá dẫn vào làng, tối nay, họ sẽ cùng nhau uống rượu guado.  
Những ngày đầu tiên của tháng Giêng năm 1976 nối tiếp đến Giáng Sinh thứ hai họ ở xa nhau. Susan vẫn làm việc không ngừng nghỉ trong suốt những ngày lễ. Philip cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết, anh viết cho cô liền năm lá thư trong mấy ngày, từ lễ Tạ Ơn đến đêm đầu năm mới.  
Trong đêm mùng 4 tháng hai, một cơn địa chấn khủng khiếp đã làm rung chuyển mặt đất ở Guatemala, cướp đi sinh mạng của hai mươi lăm nghìn người. Susan đã làm tất cả những gì để tới cứu trợ người dân ở đó, nhưng những bánh xe của guồng máy hành chính không chịu vận hành theo đúng chiều của nó, và cô đành chịu bó tay. Ngày 24 tháng Ba, tại Ác-hen-ti-na, chính phủ Peron bị lật đổ, tướng Jorge Rafel Videla vừa ra lệnh bắt Isabel Peron (3); một hi vọng khác đang tắt đi tại phần đất này của thế giới. Tại Holywood, giải Oscar được trao cho Jack Nicholson. Ngày 4 tháng Bảy, cả nước Mỹ hoan hỉ ăn mừng hai trăm năm độc lập. Vài ngày sau, cách đó hàng trăm ngàn cây số, một chiếc vệ tinh Viking đáp xuống sao Hỏa và gửi về trái đất những hình ảnh đầu tiên chụp hành tinh màu đỏ mà trái đất lần đầu khám phá. Ngày 28 tháng Bảy, một trận động đất khác vượt qua ngưỡng báo động số tám theo thang độ Richter. Đúng 3 giờ 45 phút, thành phố Đường Sơn của Trung Quốc bị xóa tên khỏi bản đồ trái đất, chỉ vài phút trước, thế mà một triệu sáu trăm nghìn người dân đã từng sống bình yên tại đó. Cũng vào đêm đó, bốn mươi nghìn thợ mỏ đã bị chôn vùi dưới đáy một khu mỏ ở phía nam thành phố Bắc Kinh. Trong đống đổ nát ngổn ngang của thành phố lớn này, sáu triệu người trong phút chốc trở thành người vô gia cư, phải sống trong những lán trại tạm bợ dưới trời mưa như trút nước. Đất nước Trung Quốc để tang bảy trăm năm mươi nghìn người thiệt mạng. Ngày mai, máy bay của Susan sẽ hạ cánh xuống Newark.    
Hôm nay anh rời khỏi hãng sớm hơn mọi khi. Trên đường về, đầu tiên, anh dừng lại để chọn một bó hoa hồng đỏ và hoa ly trắng, những loài hoa yêu thích nhất của Susan. Anh dừng lại lần thứ hai ở tiệm tạp hóa nơi góc phố. Anh mua một tấm khăn trải bàn bằng vải để chuẩn bị ột bữa ăn tối thịnh soạn, sáu chai coca-cola nhỏ, bởi vì cô không thích những chai loại lớn, và thật nhiều túi kẹo các loại, nhất là những túi kẹo nhân dâu chua ngọt mà cô luôn ăn một cách thích thú. Hai tay xách nặng, anh leo lên những bậc thang của chung cư. Anh đẩy bàn làm việc ra giữa phòng khách và bày bàn ăn, kiểm đi kiểm lại để chắc chắn là những chiếc đĩa được đặt ngay ngắn đối diện nhau, bộ dao nĩa bày thật cân đối và những chiếc ly thật thẳng hàng. Anh dốc sạch những chiếc kẹo vào chiếc tô dùng để ăn sáng và đặt nó lên bậu cửa. Suốt một tiếng đồng hồ sau đó anh tập trung vào việc cắt tỉa những cành hoa và cắm vào hai lọ. Lọ hoa hồng đỏ anh đặt trong phòng ngủ, trên chiếc bàn phía tay phải đầu giường. Sau đó, anh thay ga trải giường. Anh đặt thêm một chiếc cốc súc miệng lên trên kệ trong chiếc phòng tắm nhỏ xíu của căn hộ. Các vòi nước, bồn rửa mặt và bồn tắm anh đã cọ rửa thật kĩ. Đêm đã về khuya khi anh bắt đầu đi rảo một vòng khắp căn hộ để kiểm tả tất cả, và vì mọi thứ có vẻ hơi gọn gàng, sạch sẽ quá mức, anh lại loay hoay bố trí lại một vài thứ đồ vật để khung cảnh có vẻ tự nhiên sống động hơn. Sau khi nhấm nháp hết một gói khoai tây chiên ngay bên chiếc sọt rác đựng giấy vụn trong phòng, anh rửa mặt ngay tại bồn rửa chén trong bếp và ngả lưng xuống chiếc ghế nệm. Giấc ngủ chẳng buồn đến, cứ mỗi tiếng đồng hồ anh lại mở mắt thức dậy. Khi trời sáng, anh mặc quần áo và ra khỏi nhà đón xe buýt để đên sân bay Newark.        
Mới có 9 giờ sáng, chiếc phi cơ từ Miami sẽ hạ cánh trong hai giờ nữa. Hi vọng là cô chọn chuyến bay đầu tiên này, anh đã đến sớm, “xí trước” bàn của mình bằng cách gập lưng ghế lại và ra ngồi ở quầy bar, cố gắng bắt chuyện với anh phục vụ quầy để quên đi phần nào sự sốt ruột vì chờ đợi của mình. Anh này không giống với những người tiếp tân mặc chế phục màu đen hay trắng trong các khách sạn lớn, vốn có thói quen lắng nghe tâm sự của khách hàng, anh ta vừa làm vừa nghe Philip nói chuyện một cách lơ đãng. Trong khoảng từ 10 đến 11 giờ, anh đã lưỡng lự đến cả trăm lần, muốn ra cửa sân bay để đợi cô, nhưng cuộc hẹn mà cô dành cho anh là ở đây, tại chiếc bàn này. Chi tiết này hoàn toàn đúng với con người Susan, như một minh họa tuyệt vời cho những điều mâu thuẫn ở cô, cô căm ghét những tình huống cường điệu hóa nhưng lại tôn vinh những điều mang tính biểu tượng. Khi chiếc Super Continental của hãng Eastern Airlines bắt đầu bay thấp xuống phía trên khu đường băng, con tim của Philip bắt đầu đập nhanh hơn và miệng anh khô lại. Nhưng ngay khi chiếc máy bay dừng hẳn, anh đã biết là cô không ở trên chuyến máy bay này. Ngồi dán vào cửa kính, anh có thể nhìn thấy các hành khách lần lượt rời khỏi khoang máy bay, anh nhìn theo những con người đang đi theo đường kẻ màu vàng trên mặt đất để đến cửa ra. Chắc hẳn là cô sẽ đến vào chuyến bay cuối giờ chiều, “như thế mới hợp lí”. Vậy là để giải khuây trong một thời gian dài chờ đợi, anh bắt đầu ngồi vẽ. Một giờ đồng hồ trôi qua; sau khi phác thảo chân dung của bảy người khách vào quán rồi lại đi, trên những tờ giấy sọc khổ lớn, anh cuộn cuốn tập vẽ của mình lại và tiến đến gần anh phục vụ quầy bar để hỏi: 

- Có thể anh sẽ thấy tôi kì cục, nhưng tôi đợi một người chắc đã lên máy bay ở Miami sáng nay, chuyến kế tiếp mãi đến 19 giờ mới tới nơi, tôi còn phải giết thời gian trong hơn sáu tiếng nữa mà tôi thì chẳng có trò gì để làm.
Người phục vụ nhìn anh vẻ dò hỏi, anh ta tiếp tục điềm nhiên lau khô ly chén và xếp chúng lên chiếc kệ phía sau lưng. Philip tiếp tục cuộc độc thoại của mình:
- Đôi khi một giờ đồng hồ thật dài! Có những ngày thời gian trôi qua nhanh đến nỗi ta chẳng thể có lúc để làm hết mọi thứ muốn làm, và có những ngày khác, như hôm nay, ta không ngừng nhìn đồng hồ và cứ tưởng như nó đã bị chết gí một chỗ. Tôi có thể giúp anh lau khô các ly chén được không, hay là làm việc gì khác tôi cũng không biết nữa, đến các bàn ghi các món mà khách hàng gọi chẳng hạn, chỉ cốt sao để tôi có thể giết thời gian thôi? Tôi đang quay vòng vòng không biết làm gì đây!   
Anh phục vụ vừa xếp xong chiếc ly cuối cùng lên giá. Anh ta đưa mắt nhìn một vòng quanh quán bar vắng khách, và với một giọng uể oải, anh ta hỏi Philip có muốn uống thêm gì nữa không, đồng thời, đẩy về phía anh môt cuốn best-seller mà anh ta lấy lên từ phía dưới quầy. Philip nhìn vào tựa sách: “Will you please be quiet… please(4)”! Anh cảm ơn người phục vụ và quay trở về chỗ ngồi của mình. Vào giờ ăn trưa, quán đầy chật khách, anh tự ép mình gọi một món, để làm cho người phục vụ hài lòng hơn là để cho cái dạ dày không hề thấy đói của mình. Anh nhấm nháp chiếc sandwich và tiếp tục đọc tập truyện ngắn của Raymond Carver. Lúc 14 giờ, khi cô gái phục vụ vừa vào ca làm việc đến rót đầy vào ly của anh ly cà phê thứ mấy anh cũng không nhớ nữa, anh gọi một phần bánh ga tô sôcôla mà sau đó cũng không hề động đến, anh vẫn đang đọc mãi truyện ngắn thứ nhất. Lúc 15 giờ, anh nhận ra mình đang đọc đi đọc lại một trang suốt mười phút qua, và đến 15 giờ 30, rằng mình vẫn đọc mãi một dòng; anh gấp cuốn sách lại và thở dài.
Ngồi trong chiếc Boeing bay từ Miami đến Newark, Susan nhắm mắt thầm đếm trong đầu những ngọn đèn màu cam treo phía trên quầy bar, nhớ lại cái sàn bằng gỗ đánh verni, cánh cửa quán với cái ô cửa tròn to rộng hơn hẳn cái ô cửa trong khoang máy bay mà cô đang tựa đầu.         
Khoảng 16 giờ, quay trở lại trên chiếc ghế đẩu cạnh quầy bar, anh lau khô những chiếc ly vừa được rửa, vừa lau vừa nghe anh phục vụ quầy mới, thay cho người ban sáng, kể lại một vài giai đoạn của cuộc đời đầy sóng gió của anh ta. Philip bị thu hút bởi thứ trọng âm Tây Ban Nha của anh này, anh liên tục hỏi về nguồn gốc xuất xứ của anh ta, anh ta cứ phải nhắc đi nhắc lại rằng mình là người gốc Mê-hi-cô và chưa từng tới Honduras. Vào 17 giờ, quán bar đông khách trở lại, anh quay về chiếc bàn của mình. Một bà cụ lưng còng bước vào khi tất cả các bàn đã có người ngồi và chẳng có ai để ý đến bà. Anh lấy cuốn tập vẽ để trước mặt để không phải bắt gặp ánh mắt của bà cụ. Chỉ trong một vài giây, thời gian đủ để anh cảm thấy một cảm giác tội lỗi. Anh bày đồ ra quanh bàn, một lần nữa gấp vai tựa ghế ngồi của mình lại, đứng lên và đi ra phía quầy nơi bà cụ đang phải đứng một cách tội nghiệp. Bà cụ cảm ơn và đi theo anh, nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế còn trống mà anh dành cho bà.  
Quá bồn chồn, không thể ngồi yên một chỗ, Philip dặn đi dặn lại để bà giữ chỗ rồi tự đi ra quầy để lấy đồ uống. Mười lăm phút tiếp theo đó, bà cụ tìm cách bắt chuyện thăm hỏi anh vài câu. Khi bà cụ cố tình gợi chuyện đến lần thứ hai, một cách lễ phép nhưng dứt khoát, anh mời bà uống nước và giữ im lặng. Ba mươi phút dài vô tận cuối cùng cũng chấm dứt, cuối cùng cũng đứng dậy! Bà chào anh, anh nhìn theo bà chầm chậm bước ra phía cửa.    
Tiếng động cơ inh tai ngay phía trên đầu bất chợt bứt anh ra khỏi những suy nghĩ triền miên. Anh gần như cúi hẳn đầu xuống khi chiếc phi cơ DC3 lượn qua trên mái nhà, bay một vòng qua khu vực sân bay. Người cơ trưởng cho chiếc máy bay nghiêng sang phải, tiếp tục vòng lượn chuẩn bị hạ cánh, bay song song phía trên đường băng. Đằng xa, chiếc máy bay hai động cơ lại nghiêng mình một lần nữa, lần này nó nhắm thẳng hướng vuông góc với mặt đất, và gần như ngay lập tức, nó bắt đầu hạ cánh. Những bánh xe to nặng nhô ra phía dưới động cơ, dàn đèn gắn trên hai cánh máy bay phía trước nhấp nháy. Vài giây sau, cái mũi to tròn của máy bay hơi ngả về phía sau, chiếc bánh xe ở đuôi máy bay vừa chạm mặt đất. Dần dần, người ta đã có thể nhìn thấy rõ những cánh quạt đang quay của máy bay. Đến ngang tầm khu nhà ga sân bay, chiếc DC3 quay đầu, tiến về phía bãi đậu nằm ngay dưới chân quán bar. Máy bay của Susan vừa đỗ lại. Philip ra hiệu cho người phục vụ để anh ta đến lau sạch bàn, xếp lại lọ muối, lọ tiêu và hũ đường cho ngay ngắn. Khi những hành khách đầu tiên bước xuống thang máy bay, anh bỗng thấy lo lỡ linh tính của mình mách bảo sai.    
Cô mặc trên người một chiếc sơ-mi con trai, hai vạt dài phủ xuống hai bên chiếc quần jean bạc màu. Cô gầy đi một chút nhưng nhìn có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh, đôi gò má vốn nhô cao của cô rướn lên vài centimet khi cô nhìn thấy anh ngồi trên tầng lầu, phía bên kia cửa kính. Anh phải gồng người lên, cố gắng làm cái điều không thể này: tôn trọng ý muốn của cô và ngồi yên tại bàn. Ngay khi cô bước vào khu nhà ga, biến mất khỏi tầm mắt của anh trong một lúc, anh quay người lại và gọi một ly hai viên kem vani phủ sô-cô-la nóng trên rắc những lát hạnh nhân, trên cùng rưới một lớp caremen lỏng.        
Vài giây sau, cô dán mắt vào chiếc cửa sổ mắt bò bằng kính và nhăn mặt làm hiệu với anh. Anh đứng lên ngay khi cô xuất hiện ở ngưỡng cửa quán bar. Cô mỉm cười khi nhận ra anh đã ngồi đúng chiếc bàn ngày trước. Trong một cuộc đời mà cô đã mất đi gần hết những chỗ dựa để có thể bám víu, cái góc nhỏ bé quen thuộc nằm trong góc của cái phi trường xa lạ này đã trở thành một điều gì đó quan trọng đối với cô. Cô đã tự thú nhận với chính mình điều đó trước khi bước xuống từ chiếc máy bay nhỏ của bưu điện đã đưa cô từ Puerto Cortes đến Tegucigalpa.        
Khi cô đẩy cánh cửa bước vào, anh đã cố hết sức để ép mình không chạy về phía cô, cô sẽ rất ghét nếu anh làm thế; bây giờ, cô đang cố tình bước chậm rãi. Đến hàng ghế thứ ba, cô buông chiếc túi sách thành phố kềnh xuống đất, bắt đầu chạy lại để nhào vào vòng tay anh. Cô tựa đầu lên bờ vai anh, hít thở mùi hương tỏa ra từ gáy anh. Anh đưa hai bàn tay nâng lấy mặt cô để nhìn vào mắt cô. Họ im lặng một lúc lâu. Người phục vụ ho khẽ mấy tiếng phía sau và hỏi Philip vẻ nghịch ngợm: “Ông có muốn tôi thêm một chút kem chantilly lên trên không?”     
Cuối cùng họ cũng ngồi xuống bàn, cô ngắm nhìn ly kem, thọc ngón tay trỏ vào ly rồi đưa lên miệng mút lớp caramen bao quanh ngón tay.     
- Anh nhớ em kinh khủng! anh nói  

- Anh đời nào mà nhớ em! cô trả lời châm chọc. Cuộc sống của anh thế nào?
- Chuyện đó không quan trọng, hãy để anh ngắm em nào.    
Cô đã thay đổi, có thể những nét thay đổi nhỏ đó người khác không nhận ra, nhưng chúng không thể trốn đi đâu được dưới con mắt của Philip. Má cô hơi hóp lại và nụ cười của cô toát lên một vẻ mệt mỏi mà anh có thể cảm thấy nhưng không thể giải mã được. Như thể mỗi bi kịch mà cô từng chứng kiến đã in hằn lên da thịt cô, vẽ lên những đường lằn của vết thương mà từ đó quặn lên tình yêu thương đồng loại đan xen với tâm trạng rối bời.  
- Tại sao anh lại nhìn em như thế, Philip? 
- Bởi vì em khiến anh rất ấn tượng.  
Susan bật cười vang, tiếng cười lan đi khắp quán bar, khiến cho hai khách hàng đang ngồi ở một chiếc bàn gần đó quay lại nhìn. Cô đưa tay lên che miệng.       
- Ui, em xin lỗi!   
- Không, em đừng xin lỗi, em trông thật tuyệt vời khi cười, ở đó thỉnh thoảng em có cười như vậy không?
- Anh biết không, điều khó tin nhất, đó là nơi với anh có vẻ như tận cùng thế giới, thật ra nó lại ở rất gần. Nhưng thôi, kể cho em nghe về anh, về New York đi.     
Anh hạnh phúc khi được sống tại Manhattan. Anh được nhận vào một hãng quảng cáo, họ đã giao cho anh làm một story-board. Các bức vẽ của anh khiến hãng hài lòng, anh bắt đầu chuyển sang một dự án khác. Với công việc này anh không kiếm được nhiều tiền lắm, nhưng anh đã làm được điều gì đó cụ thể. Khi cô hỏi anh có hài lòng với cuộc sống của mình không, anh trả lời bằng một cái nhún vai. Anh muốn biết còn cô, cô có hài lòng với kinh nghiệm đã trải qua không, cô có tìm được điều cô đang tìm kiếm không. Cô lảng tránh câu hỏi của anh và tiếp tục đặt câu hỏi cho anh. Cô muốn biết tin về bố mẹ anh. Họ đang dự đính bán ngôi nhà ở Montclair và chuyển đến sống ở khu bờ Tây. Philip gần như không gặp họ suốt một năm qua, trừ vào dịp lễ Tạ Ơn. Về nhà đêm nằm ngủ trong căn phòng của mình, anh có một cảm giác không mấy dễ chịu, anh cảm giác như mình đang xa dần bố mẹ, và lần đầu tiên trong đời anh thấy họ già đi, như thể khoảng cách đã cắt đứt sợi dây thời gian, và chia cuộc đời ra thành những hình ảnh tách biệt nối tiếp nhau,trên đó những khuôn mặt biến đổi từ một sự kiện này sang một sự kiện khác,tất cả được vẽ trên một tờ giấy nhuốm màu nâu ánh vàng. Anh phá vỡ sự yên lặng.
- Khi người ta sống bên cạnh người thân, người ta không thật sự nhận ra rằng họ đang dần thay đổi, và chính vì thế mà cuối cùng ta đánh mất họ.
- Đó cũng chính là điều mà em vẫn luôn nói với anh, anh ngốc của em, sống chung hai nguời rất nguy hiểm, cô nói. Anh có thấy em mập ra không?

- Không, ngược lại thì có, sao vậy?  
- Vì cái điều anh vừa nói đó. Anh thấy em thay đổi àh?        
- Em có vẻ rất mệt, Susan, chỉ có vậy thôi.
- Vậy là em đã thay đổi!         
- Em bắt đầu lo lắng về hình thức của mình từ khi nào vây?  
- Mỗi khi em gặp anh.   
Cô dõi mắt nhìn theo những lát hạnh nhân chìm vào trong lớp sô-cô-la đang tan ra và chảy xuống đáy ly.      
- Em muốn ăn một món gì đó nóng sốt.    
- Em sao vậy, Susan?   
- Chắc sáng nay em đã quên không uống mấy viên thuốc gây cười của em!       
Cô làm anh giận. Cô bắt đầu ân hận về câu nói đùa của mình,cnhưng cô nghĩ rằng quan hệ của họ thân thiết đến mức cô có thể thoải mái xử sự thế nào cũng được, như ý cô thích.    
- Ít nhất em cũng có thể cố gắng một chút được chứ?   
- Anh đang nói về chuyện gì vậy?    
- Để làm cho anh tin rằng em được hạnh phúc khi gặp anh.   
Cô đưa một ngón tay vuốt lên má của anh.         

- Anh ngốc nghếch của em, tất nhiên là em hạnh phúc chứ, thái độ vừa rồi không liên quan gì đến anh!     
- Vậy thì đến cái gì?      
- Thật khó khăn đối với em khi trở về đất nước mình. Ở đây, tất cả mọi cái đều xa vời với cuộc sống mà em đang sống. Ở đây, cái gì cũng có, tất cả đều đầy đủ, còn ở đó, mọi thứ đều thiếu thốn.
- Cái chân gãy của cô hàng xóm cũng không làm ắt cá chân bị bong gân của em bớt đau đi đâu. Nếu em không thể tương đối hoá mọi thứ nữa, hãy cố gắng để sống ích kỉ hơn một chút, điều đó sẽ làm cho em trở thành một người hay hơn đấy.      
- Oao, anh trở thành một triết gia rồi đấy, anh ngốc của em. 
Philip đột ngột đứng dậy và bước về phía cửa. Anh ra ngoài hành lang rồi lại quay trở lại ngay, bước nhanh đến bên cô. Anh nghiêng người và hôn vào cổ cô.        
- Chào em, anh thật hạnh phúc vì được gặp em. 
- Em có thể hỏi anh đang chơi trò gì không?       
- Anh hoàn toàn không chơi đùa gì cả! Anh đã chờ em suốt hai năm nay, tay anh đã chai cả đi vì viết thư cho em, bởi vì đó là cách duy nhất anh có thể chia sẻ với em một chút những điều tối thiểu nhất trong cuộc sống của em, anh thấy rằng cuộc hội ngộ của chúng ta hôm nay đang bắt đầu khác so với những gì anh hình dung trong tâm trí, vì vậy anh muốn làm lại tất cả từ đầu!  
Chú thích:  
(1) campesino: Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, có nghĩa là “dân làng”
(2) Dona Blanca : Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản , có nghĩa là “bà da trắng”.
(3) Isabel Peron: Nữ tổng thống Ac hen ti na 1974-1976
(4) “Will you please be quiet…please!”: Tiếng anh trong nguyên bản: “Anh có thể làm ơn yên lặng giùm được không!”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui