Chương 2.2
Ngày 25 tháng Tư năm 1975,
Philip
Em đã nhận được thư anh, lẽ ra em phải viết thư trả lời anh từ cách đây hai tuần cơ, nhưng em chẳng thể nào có đủ thời gian, đã đến cuối tháng Tư rồi, trời rất đẹp, và nóng lắm, đôi khi không khí bốc một mùi thật khó chịu. Bọn em đã đi suốt mười ngày cùng với Juan, đi xuyên qua thung lũng Sula và leo lên những con đường trên đỉnh Cabacelas de Naco. Mục đích chuyến đi của bọn em là đến được với những xóm dân cư nằm cheo leo trên vách núi. Hành trình không dễ dàng chút nào. Dodge, đó là cái tên mà chúng em đã đặt cho chiếc xe tải của cả bọn, đã suýt bỏ rơi bọn em đến hai lần, nhưng Juan quả thật có đôi bàn tay của nhà ảo thuật. Lưng em bây giờ mỏi nhừ, anh không thể biết được phải thay bánh ột cái xe như vậy là thế nào đâu. Thoạt đầu những người nông dân trong làng tưởng bọn em là mấy người sandiniste(2), còn mấy người sandiniste thì lại thường lầm tưởng chúng em là những người bên quân đội giả làm thường dân. Giá mà họ có thể thống nhất được với nhau thì đỡ cho công việc của bọn em biết mấy.
Ở chốt chặn đầu tiên, thú thật là tim em đập loạn cả lên. Em chưa bao giờ nhìn thấy những họng súng máy kê sát mặt mình đến thế. Chúng em đã phải đưa cho họ vài túi bột mì và mười hai cái chăn để đổi lấy sự bình yên cho chuyến đi. Con đường dọc sườn núi đá khó đi vô cùng. Bọn em đã phải mất hai ngày mới lên cao được 1.000 mét. Thật khó có thể miêu tả hết với anh những gì chúng em đã thấy trên đó. Những xóm dân đói không có gì để ăn, chưa bao giờ nhận được sự hỗ trợ từ bất kì ai. Juan đã phải thương lượng rất gay go mới có thể chiếm được lòng tin của những người canh gác ngọn đèo…
Họ được đón tiếp bởi những con người với thái độ hết sức nghi ngờ và đề phòng. Tiếng kêu ì ì của cỗ máy xe tải truyền đi trước khá xa và những người dân trong xóm đã tập trung dọc theo con đường để dõi theo bước tiến chậm chạp của chiếc Dodge già nua với cái hộp số kêu lên như sắp gẫy mỗi khi đến một khúc quanh. Khi đến chỗ ngoặt báo hiệu điểm cuối của con đường hoang vu, chiếc xe gần như phải dừng hẳn lại trong một nỗ lực để bám cua, hai người đàn ông phóng ra từ hai bên lề đường, nhảy lên đứng trên bậc lên xuống của xe và chĩa những chiếc dao rựa của họ vào khoang lái. Giật mình, Susan giật tay lái làm chiếc xe bị trệch hướng, cô vội đạp phanh gấp, xém chút xíu là chiếc xe lao xuống vực.
Giận điên lên, không còn biết sợ hãi là gì nữa, cô lao ra khỏi cabin. Cô đẩy cửa xe ra quá mạnh nên đã hất ngã một trong hai người đàn ông xuống đất. Ánh mắt sầm lại và hai tay chống ngang hông, cô rủa xả họ một trận tơi bời. Người nông dân đứng dậy ngỡ ngàng, anh ta không hiểu một từ nào trong cả tràng ngôn ngữ mà người phụ nữ da trắng đang hét vào mặt anh ta, nhưng Quý cô da trắng rõ ràng là đang giận dữ ghê lắm. Đến lượt Juan xuống xe, với một vẻ bình tĩnh hơn, cậu giải thích với họ lí do của cuộc viếng thăm này. Sau vài giây lưỡng lự, một trong hai người nông dân giơ cánh tay trái lên trời và một nhóm khoảng mười người dân làng tiến lại phía anh ta. Họ túm tụm lại và bắt đầu tranh luận. Cuộc nói chuyện kéo dài rất lâu, ngày càng trở nên sôi nổi và có vẻ như không có hồi kết. Susan leo lên mui xe tải và lạnh lùng ra lệnh cho Juan bấm còi. Cậu ta mỉm cười và thi hành mệnh lệnh. Tiếng tranh cãi bị tiếng còi khàn khàn của chiếc xe tải át dần và cuối cùng ngưng hẳn. Cả nhóm người quay về phía Susan. Cô cố gắng tập trung hết vốn liếng tiếng Tây ban Nha của mình và hướng về phía người có vẻ là thủ lĩnh trong nhóm.
- Tôi mang theo chăn đắp, lương thực và thuốc men. Bây giờ, hoặc là các anh giúp tôi gỡ mọi thứ xuống, hoặc tôi sẽ thả phanh tay và đi bộ về nhà!
Một người phụ nữ băng qua đám đông đang đứng im lặng và tiến lên phía trước chiếc xe tải, bà làm dấu thánh giá. Susan tìm cách trèo xuống từ mui xe, tìm cách tránh không để bị trẹo mắt cá chân, người phụ nữ giơ một tay ra đỡ cô, và ngay lập tức một người đàn ông khác cũng đến giúp. Mặc kệ đám đông, cô đi ra phía sau xe nơi Juan đang đứng. Dân làng từ từ rẽ ra hai bên nhường đường cho cô. Juan nhảy lên thùng xe phía sau và hai người cùng nâng tấm vải bạt lên. Cả dân làng vẫn lặng im đứng bất động, cô lấy ra một lố chăn và quảng xuống đất.. Không ai động đậy.
- Họ đang chờ cái gì cơ chứ, phát điên mất!
- Cô ơi, Juan nói, những gì cô mang đến là vô giá đối với những con người này, họ đang chờ xem cô sẽ đòi hỏi họ điều gì và họ biết rõ là họ chẳng có gì để đổi lại cho cô.
- Vậy thì hãy nói với họ rằng điều duy nhất cô yêu cầu ở họ, đó là giúp chúng ta dỡ những thứ này xuống.
- Thực ra thì sẽ hơi phức tạp hơn thế một chút đấy cô ạ.
- Thế nếu muốn đơn giản thì phải làm sao đây?
- Cô hãy mang băng tay của tổ chức Peace Corps vào và lượm một trong số những cái chăn mà cô vừa quăng xuống đất lên và mang đến đặt lên vai của người phụ nữ vừa làm dấu thánh giá.
Vừa đặt chiếc chăn ca-rô nhỏ lên vai người phụ nữ, cô vừa nhìn sâu vào mắt bà và nói bằng tiếng Tây Ban Nha: “Tôi tới đây để mang cho các bạn những thứ mà lẽ ra chúng tôi đã phải mang đến cho các bạn từ lâu rồi, hãy tha lỗi cho tôi vì đã chậm trễ đến thế.”
Teresa ôm lấy cô và hôn lên má cô. Những người đàn ông vô cũng hoan hỉ tranh nhau chạy lại phía xe tải và dỡ hết hàng hóa trên xe xuống, Susan và Juan được mời ăn tối với tất cả dân làng. Màn đêm buông xuống, một đống lửa to được nhóm lên và một bữa ăn đạm bạc được dọn ra.
Trong lúc ăn tối, một cậu bé đến gần sau lưng Susan. Cô cảm nhận được sự có mặt của cậu bé, quay lưng lại và mỉm cười nhưng ngay lập tức cậu bé chạy trốn. Lát sau, cậu bé lại xuất hiện, đến gần cô hơn chút nữa. Một cái nháy mắt và cậu bé lại bỏ chạy. Màn làm quen lặp đi lặp lại như vậy nhiều lần, cho đến khi cậu bé đến sát bên Susan, cô nhìn cậu bé, không một cử động và im lặng. Dưới lớp cáu bẩn dày đặc trên khuôn mặt cậu bé, cô nhận ra vẻ đẹp của tròng mắt với đôi mắt đen huyền.
Cô chìa bàn tay về phía cậu bé, lòng bàn tay hướng lên trời. Đôi mắt cậu nhỏ lưỡng lự hết về hướng về phía gương mặt cô rồi lại nhìn vào bàn tay cô, và những ngón tay cậu rụt rè khẽ bám vào ngón nhỏ bé đang muốn kéo cô đi. Susan đứng dậy và để mặc cho cậu bé dắt cô băng qua những lối đi hẹp ngăn cách giữa những ngôi nhà. Cậu bé dừng lại sau một bức vách và đặt một ngón tay lên miệng ra hiệu cho cô không gây tiếng ồn và để cô quỳ gối xuống ngang chiều cao của cậu.Cậu bé chỉ một lỗ hổng trên tấm liếp đan bằng sậy, ghé một mắt nhìn vào để cô bắt chước làm theo. Cậu bé vừa lùi ra sau, Susan lập tức bước tới nhìn xem cái gì đã có thể khiến cậu bé này có đủ chừng ấy sức mạnh vượt qua nỗi sợ hãi để dẫn cô đến tận đây.
…Em nhìn thấy một bé gái chừng năm tuổi đang chết dần, chân của em đã bị hoại thư quá nặng. Trong khi một bộ phận dân làng đang bị cuốn đi trong dòng thác bùn, một người đàn ông may mắn bám được vào thân cây, và trong khi đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng đứa con gái nhỏ vừa mất tích, ông đã nhìn thấy một cánh tay nhô lên từ dòng thác. Giành lại được đứa trẻ từ tay của thần chết, ông ôm chặt lấy cơ thể bé nhỏ trong lòng. Hai người đã băng qua hàng cây số trong bóng tối, cố gắng để đứng vững trên đôi chân trong tiếng gào thét đến điếc tai của những cơn gió xoáy đang chỉ chực nuốt chửng lấy họ. Họ cứ đi cho đến khi kiệt sức và ngã xuống bất tỉnh. Khi trời sáng, người đàn ông tỉnh dậy, bé gái nằm cạnh ông. Họ bị thương nhưng đã sống sót. Chỉ có một khác biệt duy nhất: cô bé mà ông cứu sống không phải là con gái của ông. Ông đã không thể tìm lại được xác của con gái.
Sau một đêm thương thảo dằng dai, cuối cùng người đàn ông đã chấp nhận giao cô bé cho chúng em, em không chắc cô bé có sống sót được sau chặng đường dài không, nhưng nếu ở lại trên đó, cô bé sẽ chỉ còn sống được thêm vài ngày nữa. Em đã hứa với người đàn ông ấy là sẽ quay trở lại sau một, hai tháng nữa, mang theo một xe tải đầy lương thực. Nhờ thế ông ấy đã chấp nhận hi sinh, chắc hẳn vì nghĩ đến những người dân khác trong làng. Dù lý do của em là chính đáng, em vẫn cảm thấy mình thật là xấu xa trong ánh mắt của ông. Em về đến San Pedro, bé gái vẫn đang ở ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, em thì hoàn toàn kiệt sức. Để anh biết mà tiện đường ứng xử, Juan là trợ lí của em. Cái câu nói đầy ẩn ý của anh mới ngớ ngẩn làm sao! Em có phải đang ở trại hè nghỉ mát bên Canada đâu!!! Dù sao em vẫn hôn anh.
Susan.
TB: Vì anh và em đã thề luôn luôn nói ra sự thật giữa hai chúng ta, em phải thú thật với anh một điều: anh và cái thành phố New York của anh làm em phát ngán với câu chuyện về những người vô gia cư mà anh kể!
Lá thư của Philip cô nhận được liền ngay sau đó; tuy anh đã viết lá thư ấy trước khi nhận được thư cô.
Ngày 10 tháng Năm năm 1975
Susan
Anh cũng vậy, anh cũng không trả lời em được ngay, anh đã vùi đầu học như một thằng điên, anh vừa thi học kì xong. Thành phố đang lấy lại màu sắc tháng Năm của mình, và màu xanh thật là hợp với nó. Chủ nhật vừa rồi, anh đã đi dạo với các bạn trong công viên Central Park. Lại bắt đầu thấy những cặp tình nhân đầu tiên ôm nhau trên bãi cỏ, báo hiệu mùa xuân đã trở lại sau một mùa đông dài. Anh leo lên nóc tòa chưng cư, ngồi vẽ quang cảnh khu phố đang trải dài dưới chân mình. Anh ước gì có em ở đó. Hè này anh đã được nhận vào thực tập trong một hãng quảng cáo. Hãy kể anh nghe mỗi ngày anh sống thế nào, em đang ở đâu? Viết cho anh nhanh đi, mỗi khi chờ lâu quá không thấy tin tức gì của em, anh lại lo lắng.
Hẹn sớm gặp lại trong thư sau, anh yêu em.
Susan.
Dưới sâu thung lung, cô đang ngắm nhìn những làn ánh sáng đầu tiên của buổi bình minh rọi xuống xuyên qua bóng tối của màn đêm còn đang bao trùm lên thung lũng. Chẳng mấy chốc, mặt trời ló rạng chiếu sáng con đường. Nó trải qua như một đường vạch dài băng qua những đồng cỏ mênh mông còn ẩm ướt sương đêm. Vài chú chim bắt đầu sải cánh bay trên nền trời còn nhợt nhạt. Susan vươn vai, đốt sống ngang lưng làm cô đau, cô thở dài. Cô bước xuống cầu thang đi về phía bồn rửa mặt, để chân trần bước trên nền đất. Cô hơ tay phía trên đống than còn âm ỉ đỏ hồng trong lò sưởi. Cô cầm lấy chiếc hộp bàng gỗ trên cái kệ mà Juan đóng trên tường, đổ một ít cà phê vào trong chiếc ấm kim loại tráng men; cô lấy đầy nước vào ấm và đặt nó vào trong một thế cân bằng tạm bợ trên những cái thanh cong queo của tấm vỉ kim loại đặt sát phía trên đống tro.
Trong khi chờ nước sôi, cô đánh răng và ngắm nghía khuôn mặt mình trong chiếc gương nhỏ treo tạm vào một cái đinh trên tường. Cô nhăn mặt khi nhìn vào hình ảnh phản chiếu trong gương, lùa tay vào mái tóc rối. Cô vạch chiếc áo thun đang mặc ra để xem vết nhện cắn trên vai. “Đồ đáng ghét!” Cô leo ngay trở lại trên gác xép, quỳ lom khom cố gắng lật tung lớp đệm nằm để đánh đuổi kẻ đã tấn công mình. Tiếng kêu của bình nước sôi khiến cô quyết định bỏ cuộc và quay xuống. Cô lấy giẻ lót tay và rót thứ nước đen trong một chiếc ly, lấy một trái chuối trên bàn và bước ra ngoài để ăn sáng. Ngồi trước hè, cô đưa chiếc ly lên môi và phóng tầm mắt ra phía trên trời nhìn xa đến hút tầm mắt. Cô đưa tay xoa nhẹ bắp chân và thoáng rùng mình. Cô nhảy ra khỏi chỗ ngồi, cô đến bên bàn làm việc và vồ lấy chiếc bút bi.
Philip
Em hy vọng là lá thư này sẽ nhanh chóng đến tay anh, em có một việc muốn nhờ anh, anh có thể gửi cho em kem dưỡng da toàn thân và dầu gội đầu được không?
Em chờ anh gửi đấy. Em sẽ trả lại tiền cho anh khi nào em ghé qua gặp lại anh. Hôn anh.
Susan.
Chiều thứ bảy, ngày đang dần hết, đường phố đông đúc người qua lại, anh ngồi trên vỉa hè một quán cà phê ngoài đường để hoàn tất một bức phác họa. Anh gọi một ly cà phê phin, còn loại cà phê espresso vẫn chưa vượt qua Đại Tây Dương để du nhập sang đây. Anh nhìn theo một phụ nữ trẻ đang băng qua đường đi về phía cụm rạp chiếu phim. Bỗng nhiên anh cảm thấy thèm đi xem một bộ phim, anh trả tiền và đứng lên. Hai giờ sau anh ra khỏi rạp chiếu. Tháng Sáu ban tặng cho thành phố những buổi hoàng hôn đẹp nhất của mình. Trung thành với thói quen bắt đầu có từ vài tháng nay, khi đến ngã tư, anh không quên chào hòm thư. Anh lưỡng lự một chút không biết có nên ghé qua chỗ mấy người bạn đang ăn tối tại bistrot (1) trên phố Mercer chơi hay không, nhưng rồi lại quyết định về nhà.
Anh tra chiếc chìa khóa dẹt vào lỗ khóa, tìm cái vị trí duy nhất cho phép bật lẫy khóa và đẩy chiếc cửa dày nặng bằng gỗ của chung cư mở ra. Ngay khi anh vừa gạt cầu dao, một ánh sáng màu vàng nhạt bừng lên chiếu sáng lối đi hẹp dẫn đến cầu thang. Một chiếc bì thư màu xanh ló ra khỏi cái khe trên thùng thư của anh. Anh cầm lên ngay và bước từng bước dài, vội vàng lên cầu thang. Khi anh buông mình xuống chiếc ghế đệm, bức thư trên tay đã được mở ra sẵn sàng.
Philip.
Nếu lá thư này có thể đến được với anh trong khoảng mười lăm ngày nữa, lúc đó chúng ta đã ở vào cuối tháng Tám và chúng ta sẽ chỉ phải chờ thêm một năm nữa để có thể gặp lại nhau, ý em muốn nói là chúng ta đã vượt qua được một nửa chặng đường. Em vẫn chưa có thời gian kể anh nghe, nhưng có thể em sắp được lên chức đấy, mọi người đang bàn đến việc mở thêm một trại nữa trên núi và có tin đồn rằng em có thể được bổ nhiệm làm phụ trách trại. Cảm ơn anh đã gửi đồ cho em, anh biết đấy, cho dù những lá thư em viết ngày càng ít đi, em vẫn nhớ anh nhiều, chắc bấy lâu nay anh đã già đi nhiều rồi nhỉ? Viết thư cho em biết tin anh nhé.
Susan.
Ngày 10 tháng Chín năm 1975,
Susan
Anh sẽ không bao giờ còn có thể cảm thấy dửng dưng khi nhìn thấy dòng chữ “Một năm sau…” thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên màn hình ở rạp chiếu phim nữa. Trước đây, anh chưa bao giờ để ý đến cái cảm xúc ẩn giấu đằng sau ba dấu chấm lửng nhỏ xíu mà chỉ những ai biết chờ đợi có thể làm cho người ta cảm thấy cô đơn đến chừng nào mới có thể hiểu nổi. Những phút giây chờ đợi được gói gọn trong hai dấu ngoặc kép ấy mới dài làm sao! Mùa hè đang gần kết thúc, cả đợt thực tập của anh cũng vậy, họ đã đề nghị nhận anh vào làm chính thức ngay khi anh nhận bằng tốt nghiệp. Thế là anh đã không hề một lần ra biển tắm, anh đã ngu ngốc đi xem một bộ phim về một con cá mập trắng lớn gieo rắc nỗi kinh hoàng trên những bãi biển của chúng ta, phim cũng của đạo diễn đã làm phim Duel, anh và em, chúng ta đã từng thích phim này lắm, bộ phim mình đã xem ở rạp Film Forum ấy, em có nhớ không? Ngày đó, khi bước ra khỏi rạp chiếu phim, anh đã không thể biết trước rằng vài năm sau anh sẽ phải sống những giây phút chờ đợi em ngay trên con phố có quán bar mà hôm đó chúng ta đã ghé! Khi đó, không một giây phút nào anh có thể tưởng tượng rằng anh sẽ phải viết cho em, gửi đến tận “đầu bên kia trái đất”. Trong lúc chiếu đến một cảnh phim kinh hoàng, một người phụ nữ trẻ ngồi cạnh anh đã thỏa sức bấm móng tay vào cánh tay anh đang để trên ghế. Thật buồn cười, cô ấy cứ rối rít xin lỗi mãi trong suốt phần còn lại của buổi chiếu. Trong đời anh chưa bao giờ nghe thấy nhiều tiếng “Xin lỗi” và “Tôi rất tiếc” đến như thế trong vòng một giờ đồng hồ. Em sẽ không nhận ra anh đâu. Một người có thể đợi đến sáu tháng để mở lời bắt chuyện với một cô gái nào đó đã cười với mình trong một quán ăn như anh, anh đã dám nói với người phụ nữ đó như thế này: “Nếu cô còn tiếp tục nói như vậy, họ sẽ cho chúng ta ra ngoài hết đấy, hãy để lát nữa cùng đi uống một ly và nói tiếp”. Cô ấy đã im luôn cho đến hết buổi chiếu và tất nhiên là anh ngồi xem phim nhưng chẳng còn nhìn thấy gì trên màn ảnh nữa. Thật ngớ ngẩn vì anh đã đã tưởng cô ấy sẽ lẩn ngay đi khi cảnh cuối kết thúc. Khi đèn vừa bật lên, cô ấy đã nối bước theo anh ra lối đi và anh đã nghe thấy tiếng cô ấy hỏi từ đằng sau: “Chúng ta sẽ đi ăn tối ở đâu?” Anh và cô ấy đến quán Fanelli’s, cô ấy tên là Mary, sinh viên ngành báo chí. Đêm nay trời mưa rất to, anh đi ngủ đây, vậy tốt hơn, anh có thể kể lung tung bất cứ chuyện gì chỉ để làm em phải ghen lên. Cho anh biết tin của em nhé.
Philip
Một ngày tháng Mười một năm 1975, em không còn biết chính xác là ngày nào nữa.
Philip của em,
Vài tuần đã trôi qua kể từ khi em viết bức thư gần nhất cho anh, nhưng anh biết không, thời gian ở đây trôi qua không giống như ở những nơi khác. Anh còn nhớ cô bé mà em đã kể với anh ở một trong những lá thư trước? Em đã trở bé về với người cha mới của bé. Người ta đã không cứu được một bên chân của bé, em đã lo lắng không biết ông ấy sẽ phản ứng như thế nào khi nhìn thấy cô bé như vậy. Bọn em đã đi đến Puerto Cortes để đón bé, Juan đi cùng với em. Trong thùng xe phía sau của chiếc Dodge, cậu ấy lấy các bao bột mì xếp lại để làm thành một cái nệm ngả lưng. Khi tới bệnh viện, em đã thấy cô bé nằm dài trên cáng, đợi bọn em ở cuối hành lang. Em đã buộc mình tập trung mọi chú ý lên gương mặt cô bé, cố gắng để không nhìn vào khoảng trống, nơi cả một bên chân đã bị cắt đi? Tại sao chúng ta cứ phải bận tâm đến cái không còn tồn tại nữa mà quên đi tất cả những gì đang hiện hữu ở đó. Tại sao lại phải quá đau khổ trước những gì không hay đã diễn ra mà quên đi là phải biết yêu quý những gì tốt đẹp đang tiếp tục?
Em không ngừng tự hỏi cô bé sẽ tiếp tục sống như thế nào với khuyết tật của mình, Juan đã hiểu được sự im lặng của em, và trước khi em mở lời nói chuyện với cô bé, cậu ấy đã nói khẽ vào tai em: “Đừng để cho cô bé thấy sự buồn đau của cô, cô phải vui lên, điều làm cho cô bé khác với mọi người khác, đó không phải một bên chân đã bị cắt cụt, đó là câu chuyện của bé, là sự sống sót kì diệu của bé.”
Cậu ấy nói đúng. Bọn em đã để cô bé nằm trên những bao bột, và đi theo con đường dẫn lên núi. Cậu ấy đã chăm sóc cho cô bé suốt chặng đường, tìm cách làm cho cô bé vui lên và em chắc là Juan còn cố gắng để làm cho em bớt căng thẳng nữa. Để đạt được mục đích của mình, cậu ấy không ngừng trêu chọc em. Cậu ấy để em ngồi chết dí đằng sau tay lái của chiếc xe nặng nề này. Qua mỗi cây số, chiếc xe có vẻ như muốn chứng tỏ cho em thấy nó mạnh hơn em rất nhiều, dường như sức nặng bảy tấn mà nó mang theo chưa đủ làm nó mệt! Juan ngả người nửa ngồi nửa nằm, cánh tay duỗi dài ra phía trước và không ngừng làm mặt hề bắt chước nét mặt của em mỗi khi em phải cố gắng để bắt chiếc xe đổi hướng khi đến chỗ cua, còn đế thêm rằng vốn tiếng Tây Ban Nha của em không đủ để em hiểu hết được ý nghĩa của những điều cậu ấy nói. Và sau sáu giờ đi đường, điều đó đã xảy ra. Em vừa chỉnh xe và để số lùi, em đã chửi thề và đập một cú vào tay lái vì bực mình, cái phần tính khí xấu xa ấy của em vẫn còn nguyên, anh biết đấy. Juan chỉ chờ có thế, cậu ấy liền lập tức tuôn ra một tràng dài những tiếng chửi thề, vừa nói vừa bắt chước em đập tay vào chiếc thùng đặt trước mặt thay cho cái vô lăng, và, một điều không ai ngờ, cô bé bắt đầu cười.
Thoạt đầu là âm thanh trong vắt của hai tiếng cười, rồi một khoảnh khắc ngượng ngùng ngắn ngủi, một tiếng cười khác bật lên từ cổ họng cô bé, rồi đột nhiên, cái giây phút phải tới đã tới: cả chiếc xe tràn ngập tiếng cười như nắc nẻ của cô bé. Em chưa bao giờ ngờ được, chỉ một tiếng cười của một đứa trẻ thôi lại có thể đột nhiên mang lại ý nghĩa quan trọng đến thế nào với cuộc đời của một con người. Trong khung kính chiếu hậu, em ngắm nhìn cô bé đang cố lấy lại hơi sau trận cười. Trận cười ấy cũng đã chinh phục cả Juan. Em nghĩ em đã khóc còn nhiều hơn cả vào cái ngày anh ôm chặt em trong vòng tay anh, bên mộ của ba mẹ em, chỉ có điều ngày hôm ấy, nước mắt em chảy ngược vào trong. Đột nhiên, bao nhiêu sức sống, bao nhiêu niềm hi vọng hiện ra trước mắt, em quay đầu lại nhìn họ, ở giữa những chuỗi cười giòn tan, em nhận ra nụ cười mà Juan dành cho em. Rào cản ngôn ngữ không còn nữa… Mà đúng rồi, anh nói tiếng Tây Ban Nha rất khá mà, kể cho em nghe phần cuối của bữa ăn tối hôm đó sau khi phim phim đi, nếu được thì bằng tiếng Tây Ban Nha nhé, nó sẽ giúp em hoàn thiện khả năng đọc hiểu của mình…
Ông đã nhận ra chiếc xe tải ngay khi nó vừa tiến đến gần những khúc cua đầu tiên ở dưới thung lũng. Ông nhất định bỏ mọi công việc, ngồi xuống một tảng đá và không một giây rời mắt khỏi chiếc xe trong suốt cuộc hành trình chầm chậm leo núi kéo dài năm tiếng đồng hồ của nó. Rolando đã chờ đợi trong suốt mười ba tuần. Ông không ngừng tự hỏi không biết cô bé có còn sống, không biết con chim đang bay cao trên trời đang muốn báo điềm dữ, rằng cô bé đã không qua khỏi được, hay muốn báo điềm lành, rằng cần phải hi vọng. Và càng nhiều ngày trôi qua, ông càng biến những điều đơn giản nhất xung quanh thành những điềm báo, thấp thỏm sống với cái trò chơi ngoài tầm kiểm soát, tùy vào tâm trạng của ông lúc ấy như thế nào mà những dấu hiệu trở thành điềm dữ hay điềm lành.
Mỗi lần đến một khúc quanh, Susan lại bấm còi ba lần, chiếc xe gióng lên ba tiếng khàn khàn. Đối với Rolando, đó là một dấu hiệu tốt, một tiếng còi dài có thể là dấu hiệu báo điều tệ nhất, nhưng ba tiếng ngắn, có lẽ đó là một tin tốt lành. Bằng một cử chỉ rất gọn, ông cho trượt bao thuốc Paladines màu hung nhạt ra khỏi tay áo. Loại thuốc này đắt đỏ hơn nhiều so với những điếu Dorados ông hút trong ngày. Mỗi ngày ông chỉ rút một điếu duy nhất từ bao thuốc này ra để hút sau bữa tối. Ông đưa điếu thuốc lên môi và bật một que diêm. Hít một hơi thật sâu, ông lấp đầy phổi mình cái không khí ẩm ướt thơm mùi đất và mùi của rừng thông. Đầu thuốc đỏ rực lên trong tiếng kêu lách tách của sợi thuốc lá cháy. Chiều nay, cả gói thuốc lần lượt bị đốt hết. Cần phải kiên nhẫn, họ sẽ leo được lên đến đỉnh đèo vào cuối giờ chiều.
Chú thích:
(1) bistrot : một loại quán cà phê phổ biến ở phương Tây, người ta có thể uống cà phê và ăn nhẹ.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...