Tất cả các đài vô tuyến đều dành chương trình trong ngày để phát về lễ tang Giáo hoàng. Tất cả các nhà thờ lớn trên thế giới đều làm lễ truy điệu, hàng triệu người mặc đồ đen để tang và đau buồn khóc thương Giáo hoàng. Ai nấy đều ngấm ngầm đòi phải trả thù, tuy các bài giảng đạo kêu gọi lòng khoan dung. Trong các buổi truy điệu này, người ta còn cầu nguyện mong sao Theresa Kennedy được an toàn giải thoát.
Có những tin đồn Tổng thống sẵn sàng trả lại tự do cho tên đã sát hại Giáo hoàng để giải thoát các con tin và con gái ông. Các hãng vô tuyến phỏng vấn những chính khách có tên tuổi, họ không hoàn toàn cho rằng đây là một cách giải quyết khéo léo, nhưng nhận thấy rằng những yêu sách đầu tiên này chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc thương lượng như các lần bắt cóc con tin trong những năm qua. Họ không ít thì nhiều nhận định rằng Tổng thống hốt hoảng vì lo cho con gái đang gặp lâm nguy.
Trong bối cảnh đang diễn biến như vậy, đám người thức qua đêm tụ tập bên ngoài Nhà Trắng mỗi ngày một đông. Các đường phố Washington, trái tim của đất nước, tắc nghẽn xe cộ và khách bộ hành. Nhiều người trong số họ đem theo cả thực phẩm và nước uống để chuẩn bị thức trắng suốt đêm. Họ thức không ngủ cùng với Tổng thống của họ, Francis Kennedy.
Khi Kenndy về phòng ngủ của ông vào tối Thứ Ba, ông cầu nguyện mong sao các con tin sẽ được trao trả vào ngày hôm sau. Bước đầu Yabril đã thắng. Còn bây giờ, trên mặt bàn ngủ của Kennedy đã để sẵn một tập báo cáo do CIA, Hội đồng An ninh Quốc gia, Bộ trưởng Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng và các bản giải trình của bộ tham mưu của chính Tổng thống. Anh quản gia, Jefferson, mang vào phòng cho ông một cốc sôcôla nóng và bánh bích quy. Tổng thống ngồi đọc các bản báo cáo này.
Ông đọc giữa các dòng. Ông chắp nối những quan điểm tưởng chừng như khác biệt hẳn nhau. Khi đọc báo cáo, ông cố tự đặt mình vào địa vị kẻ đối đầu với mình. Ông nhìn nhận trong mấy thập kỷ qua Hoa Kỳ là một nước có đôi chân đang teo, một gã khổng lồ béo bệu, bị viêm khớp, đang bị một tên nhãi xấu bụng véo mũi. Bản thân bên trong gã khổng lồ lại đang bị xuất huyết. Người giàu cứ giàu thêm, kẻ ngập trong bãi lầy lún xuống bùn. Lớp trung lưu tìm mọi cách kiếm tiền để sống thoải mái. Kennedy nhận thấy rằng những khủng hoảng mới đây: Vụ giám sát Giáo hoàng, vụ bắt cóc máy bay, vụ bắt cóc con gái ông và những yêu sách có tính chất muốn làm bẽ mặt là một sự dàn dựng được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm đánh thẳng vào uy quyền của Hoa Kỳ.
Nhưng ngoài ra lại còn cuộc tấn công vào ngay chính trong lòng Hoa Kỳ; lá thư dọa đánh bom nguyên tử. Ung nhọt ung thư ngay trong cơ thể. Tất nhiên ông đã ra lệnh không để gây hoang mang về mặt tâm lý và những biện pháp phòng ngừa. Nhưng chưa đủ. Chuyện này nằm ngay trong lòng đất nước, nó là một thủ đoạn quá nguy hiểm đối với bọn khủng bố, một vấn đề hóc búa quá nan giải đối với gã khổng lồ béo bệu. Đây là một bước đi liều lĩnh mà bất kỳ bọn khủng bố nào, dù táo tợn đến đâu, cũng không dám thực hiện.
Kennedy tiếp tục nghiên cứu các bản báo cáo khác. Nhưng lúc này chẳng còn biết làm gì hơn là chờ đợi.
Trước khi đắm mình vào giấc ngủ, ông nghĩ tới con gái và nụ cười rạng rỡ đầy tin tưởng lúc Theresa trò chuyện với Yabril, một nụ cười hiện thân của chính người bác đã quá cố. Sau đó ông chìm vào một cơn ác mộng, ông rên la kêu cứu. Jefferson vội chạy bổ vào phòng ngủ, đứng lặng người một lát nhìn khuôn mặt khắc khoải của vị Tổng thống đang chập chờn ngủ. Sau đó anh lay Tổng thống tỉnh bứt ra khỏi cơn ác mộng. Anh bưng vào một ly sôcôla nóng sữa và đưa Kennedy viên thuốc ngủ bác sĩ đã dặn.
SÁNG THỨ TƯ.
SHERHABEN.
Francis Kennedy đi ngủ đúng lúc Yabril dậy. Gã thích không khí trên sa mạc vào những giờ phút sáng sớm, làn khí mát xua đi hơi nóng của mặt trời ủ trong lòng cát, cả bầu trời rực đỏ. Vào những giây phút này, gã luôn nghĩ tới Mohammedan Lucifer được mệnh danh là Azazel.
Thần Azazel đã được cử xuống hạ giới đốt cháy cát ở sa mạc thành lửa địa ngục. Ồ, mình phải là Azazel, Yabril thầm nghĩ. Hồi còn trẻ và tâm hồn còn thơ mộng, gã đã đặt cho chiến dịch đầu tiên của gã cái tên là Azazel.
Sáng này ánh sáng chiếu gắt làm gã hoa cả mắt. Do đang đứng nơi ngưỡng cửa chiếc máy bay có điều hòa nhiệt độ, gã bị một làn gió oi bức quật bật lùi trở vào trong máy bay. Gã thấy buồn nôn và tự hỏi không biết có phải do tại hành động của gã không. Bây giờ gã buộc phải ra tay làm một việc không thể đứng được.
Phía xa xa, gã thấy đội lính bảo vệ của Quốc vương đứng vây quanh cửa ra vào sân bay chặn hàng ngàn nhà báo và phóng viên các hãng vô tuyến truyền hình không để một ai lọt qua. Bây giờ gã đã là trung tâm chú ý của cả thế giới, gã nắm trong tay con gái Tổng thống Hoa Kỳ. Gã là một diễn giả lớn nhất, lớn hơn bất kỳ nhà lãnh đạo nào, bất kỳ vị Giáo hoàng, tiên tri nào. Yabril đưa mắt rời cửa máy bay mở ngỏ nhìn vào trong lòng máy bay.
Bốn tên trong số cốt cán mới của gã đang ngồi ăn sáng ở cabin hạng nhất. Hai mươi tư tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ khi gã trao bản tối hậu thư. Đã đến lúc rồi. Gã thúc bọn chúng ăn khẩn trương rồi trao việc cho từng tên. Một tên cầm lệnh do chính tay Yabril viết trao cho chỉ huy đội lính cahựn ở vành đai trước cửa ra vào sân bay bảo cho phép người của các hãng vô tuyến truyền hình tiến đến sát bên máy bay. Một tên đi phân phát những tờ truyền đơn tuyên bố rằng hai mươi tư tiến đồng hồ đã trôi qua kể từ khi Yabril đưa ra những yêu cầu, do đó một con tin sẽ bị xử bắn.
Hai tên còn lại được lệnh giải con gái Tổng thống từ hàng ghế đầu đã bị cách ly trong cabin khách du lịch tới cabin hạng nhất, nơi Yabril đang ngồi đợi.
Theresa Kennedy bước vào cabin hạng nhất, thấy Yabril ngồi đợi, cô nhẹ nhõm mỉm cười. Yabril ngạc nhiên thấy sau mấy ngày vừa qua phải sống trên máy bay mà sao trông cô vẫn thật đáng yêu. Gã nghĩ bụng sở dĩ được vậy là nhờ nước da. Cô không tô son điểm phấn nên da không bám bụi bặm. Gã đáp lại nụ cười của cô và nói giọng nửa đùa cợt:
- Cô trông thật xinhd dẹp, nhưng hơi lôi thôi, lếch thếch. Cô nên trang điểm, son phấn thoa một chút ít, chải tóc gọn gàng. Ống kính vô tuyến đang đợi chúng ta. Cả thế giới đang ngóng đợi, tôi chẳng muốn họ nghĩ rằng tôi đã đối xử không ra gì với cô.
Yabril để Theresa vào phòng vệ sinh trên máy bay và đứng ngoài đợi. Theresa ở trong phòng khoảng hai mươi phút. Yabril nghe rõ tiếng nước chảy mạnh và hình dung thấy Theresa như một cô gái nhỏ. Gã thót tim quặn đau nên đã phải cầu nguyện, Azazel, cầu xin thần linh Azazel lúc này hãy ở bên con. Rồi sau đó, gã nghe tiếng những người đứng dưới trời nóng như thiêu đốt ngoài sa mạc đang la hét như sấm dậy: họ đã đọc các tờ truyền đơn. Gã nghe rõ tiếng động cơ các xe quay TV tiến lại sát bên máy bay.
Theresa bước ra, Yabril nhận thấy khuôn mặt cô hơi buồn bã. Nhưng cũng đồng thời toát lên một vẻ ngoan cường. Cô đã quyết định rằng mình sẽ không nói gì, sẽ không để yabril ép buộc cô để quay cuốn băng video về gã. Theresa đã gọn gàng, xinh đẹp, tin tưởng vào sức mạnh của bản thân mình. Nhưng cô đã mất vẻ ngây thơ trong trắng. Cô mỉm cười với Yabril và bảo:
- Tôi sẽ không nói gì đâu.
Yabril cầm tay cô và nói:
- Tôi chỉ muốn họ được thấy cô.
Gã dẫn cô đến đứng trước cánh cửa máy bay mở rộng. Làn không khí đỏ rực ngoài sa mạc bốc lửa trên cơ thể họ. Sáu ống kính máy quay TV chĩa về phía máy bay như đang rình chộp những hình ảnh các con quái vật thời tiền sử.
- Cô chỉ cần mỉm cười với họ, - Yabril bảo, - Tôi muốn bố cô thấy cô vẫn bình an.
Nói xong, gã vuốt gáy Theresa, cảm nhận rõ mái tóc vàng óng mượt như tơ lụa. Gã hắt ngược mái tóc cô lên để lộ chiếc cổ trắng nõn, điểm một nốt ruồi đen nhỏ nơi vai.
theresa bối rối khi thấy Yabril đụng tay vào người cô. Cô ngoái lại nhìn xem gã định làm gì. Gã liền túm chặt tóc cô, bắt cô phải quay mặt nhìn thẳng về phía các ống kính để máy có thể thu được vẻ đẹp trên khuôn mặt cô. Ánh nắng ngoài sa mạc tỏa ánh vàng quanh cô. Lúc này cơ thể cô là bóng của chính bản thân mình.
Một tay giơ cao áp chặt thành trên khung cửa, Yabril hất lưng Theresa đẩy cô đứng sát ngay mép cửa máy bay. Tay phải gã rút súng lục gí sát nòng vào lớp da trần nơ cổ Theresa. Trước khi cô cảm nhận thấy hơi lạnh của kim loại trên làn da, gã bóp cò súng và không đỡ để xác cô gái văng ra ngoài.
Theresa bật nảy người trên không, vươn về phía mặt trời, nhòa trong làn máu do cơ thể cô tuôn trào ra. Sau đó, cô lộn nhào xuống, chân hất cao lên trời, lộn một vòng rồi đập người xuống đường băng xi măng, nằm im bất động, đầu như bị ánh nắng hun nứt toác. Thoạt đầu, người ta chỉ nghe rõ tiếng camêra TV quay xè xe, tiếng cát lạo xạo, sau đó là tiếng khóc than của hàng ngàn con người lan vang trên sa mạc, cuốic ùng là tiếng kêu thét thất thanh khiếp sợ.
Âm thanh chủ yếu không hề mang chút hân hoan như đã mong đợi làm Yabril bị sững sờ. Gã rời khỏi cửa, bước giật lùi vào trong máy bay. Yabril cảm thấy quân của gã nhìn gã bằng cặp mắt hốt hoảng, ghê sợ, gần giống nỗi khiếp sợ của con thú. Gã bảo bọn chúng:
- Cầu Đức Alah!
Nhưng chẳng tên nào hứng lời đáp lại gã. Gã đợi một hồi lâu, rồi cộc lốc bảo chúng:
- Bây giờ cả thế giớ sẽ biết ta đáng gờm đến mức nào. Bây giờ chúng sẽ phải đáp ứng những gì ta yêu cầu.
Nhưng trong thâm tâm, gã nhận ra rằng tiếng la hét của đám đông không phải do xuất phát từ nỗi mê li ngây ngất như gã mong đợi. Phản ứng của những tên dưới quyền gã kể cũng đáng ngại. Việc xử bắn con gái Tổng thống Hoa Kỳ, việc tước bỏ một số biểu tượng ngoại trừ này của quyền lực đã vi phạm điều cấm kỵ gã không ngờ tới. Nhưng thôi, đành vậy.
Yabril suy nghxi một lát tới Theresa Kennedy, tới khuôn mặt đáng yêu, hương hoa viôlét toát ra từ chiếc cô trắng nõ của cô, gã nghĩ tới xác cô đang nằm trên cát bụi thấm loang máu đỏ. Và gã nghĩ, thôi đành phó thác cô cho Azazel đã từ trời cao tỏa muôn ánh vàng bị mãi mãi đày xuống cát bụi sa mạc.
WASHINGTON.
Trước buổi bình minh ngày Thứ Tư ló rạng, Tổng thống Kennedy thấy Jefferson lay mình tỉnh dậy đúng lcú đang đắm chìm trong cơn ác mộng rộn tiếng kêu thống khổ của cả một biển người. Và thật kỳ lạ, tuy chưa tỉnh hẳn dậy, ông đã nghe rõ tiếng đám đông nổi như sấm rền lọt qua cá bức tường Nhà Trắng.
Trông Jefferson có vẻ khác thường: anh ta không giữ được dáng vẻ người pha sôcôla nóng, chải sạch áo quần, người hầu cung kính. Toàn thân và bộ mặt anh căng thẳng như người sắp nhận một tin khủng khiếp. Anh ta cứ luôn mồm nhắc đi nhắc lại:
- Thưa ông Tổng thống, tỉnh dậy đi, tỉnh dậy đi, ông!
Nhưng Kennedy đã tỉnh giấc và bảo:
- Có chuyện gì mà ngoài kia ầm ĩ lên thế?
Chiếc đèn chùm tỏa sáng khắp giường. Có một nhóm người đứng sau lưng Jefferson. Kennedy nhận ra đó là viên sĩ quan hải quân, thầy thuốc của Nhà Trắng, đó là viên chuẩn úy đã được giao cho vụ hạt nhân “bóng đá”, đó là Eugene Dazzy, Arthur Wix và Christian Klee. Kennedy có cảm giác như Jefferson dựng ông rời khỏi giường, đỡ ông dậy, rồi quàng vội cho ông chiếc áo khoác. Ông không rõ tại sao chân mình cứ khuỵu xuống. Jefferson phải xốc nách ông.
Trông ai nấy đều ủ rũ, mặt mày trắng bợt, mắt như trố mở. Kennedy sững sờ nhìn họ, sau đó ông bối rối kinh hãi. Mắt ông mờ đi trong giây lát chẳng còn nhìn thấy gì, tai ù đặc, người mụ như mất trí. Viên sĩ quan hải quân mở chiếc túi đen và lấy ra chiếc ống tiêm đã chuẩn bị sẵn, nhưng Kennedy liền gạt đi bảo:
- Không cần đâu.
Sau đó ông lặng lẽ lần lượt đưa mắt nhìn từng người đứng trước mặt mình, rồi cố cất lời bảo:
- Tôi không sao cả, Chris, tôi biết trước nó sẽ ra tay. Nó đã giết hại Theresa, đúng không?
Kennedy hồi hộp đợi Christian đáp không phải vậy, điều đó còn có một ý nghĩa khác nữa, nó như một chuyện thiên taim một vụ nổ trạm nguyên tử, cáci chết của người đứng đầu cao nhất trong một nước, vụ đắm một con tàu chiến lớn ở Vịnh Perxic, sức tàn phá của một vụ động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, bệnh dịch. Nó còn kéo dài theo chuyện khác. Nhưng Christian đã tái mặt đáp:
- Đúng vậy.
Kennedy cảm thấy như bị cơn bệnh ủ từ lâu trong cơ thể mình, cơn sốt cố nén đột nhiên phát ra. Ông cúi gập người và mãi lúc này mới nhận thấy Christian đứng bên mình, tựa như muốn đứng che để những người khác đang có mặt trong phòng không thấy nước mắt ông đang tuôn trào và há miệng đớp không khí thở. Mọi người ở trong phòng liền tiến sát bên ông, viên bác sĩ trích mũi kim vào cánh tay Kennedy, rồi Jefferson và Christian nhẹ nhàng đỡ ông đặt lên giường.
Họ đợi Fancis Kennedy tỉnh lại sau cơn choáng. Cuối cùng ông đã phần nào tự chủ được bản thân, ông đưa ra một số chỉ thị: huy động tất cả các ban ngành cần thiết, giữ liên lạc thường xuyên với các vị đứng đầu Quốc hội và giải tán đám đông đang tụ tập trên đường phố và các khu vực quanh Nhà Trắng. Và để chặn mọi phương tiện đưa tin đại chúng, Kennedy tuyên bố sẽ gặp họ vào lúc 7.00 giờ sáng.
Mãi gần tối, Francis Kennedy mới cắt cử xong công việc của từng người. Sau đó Jefferson bưng chiếc khay thường lệ trên bày tách sôcôla nóng và bánh bích quy.
- Tốt hơn hết tôi nên đứng ở ngoài cửa phòng, - Jefferson nói. – Thưa ông Tổng thống nếu được ông cho phép tôi cứ nửa tiếng lại vào đây xem ông cần gì không.
Kennedy gật đầu, Jefferson rời khỏi phòng.
Kennedy tắt tất cả các đèn. Hoàng hôn sắp đổ nên căn phòng mờ tối. Ông cố tập trung suy nghĩ thật rành rọt. Nỗi đau ông mang trong lòng là kết quả của cuộc tấn công mà đối phương đã tính toán kỹ và ông cố xua dịu nỗi đau này. Ông đưa mắt nhìn quakhung cửa sổ bầu dục dài. Ông đã cho lắp cửa bằng loại kính đặc biệt, ông có thể nhin ra bên ngoài, nhưng không ai nhìn được vào phòng, kính chống được đạn. Cửa sổ trông ra khu vườn Nhà Trắng, bên kia vườn là mấy dãy nhà của bên An ninh. Ngoài ra quanh vườn còn có cả một hệ thống theo dõi đặc biệt và các đội tuần tra có dắt theo chó. Bản thân ôgn luôn được an toàn: Christian đã giữ đúng lời hứa, nhưng chưa tìm ra được cách nào đảm bảo an toàn cho Theresa.
Nhưng chẳng cần phải đảm bảo an toàn Theresa nữa: con gái ông đã chết rồi. Và lúc này, sau khi cơn đau lúc ban đầu đã dịu, ông ngạc nhiên thấy mình thật bình tĩnh.
Ông rất thương quý Theresa. Nhưng con gái ông đã chết. Tin này không quá đường đột với ông vì mấy ngày qua ông đã tự mình chuẩn bị cho bản thân sẵn sàng đương đầu trước tình huống đau thươngnày.
Vụ ám sát Giáo hoàng và bắt cóc máy bay có liên quan tới việc bắt giữ con gái vị nguyên thủ một cường quốc hùng mạnh nhất thế giới, amĩ tới khi tên sát nhân được đưa vào vị trí và bị bắt tại Hoa Kỳ thì bọn chúng mới tung ra các yêu sách. Sau đó là sự ngạo mạn được cân nhắc kỹ trong yêu sách là đòi phải thả tên ám sát Giáo hoàng.
Francis kennedy đã phải dồn mọi nỗ lực phi thường về ý chí để xua đuổi khỏi tâm trí mọi suy nghĩ mang tính cá nhân. Ông cố gắng suy luận theo logic. Sự việc không đến nỗi quá rắc rối: một vị Giáo hoàng và một cô gái trẻ tuổi đã bị giết hại. Nếu nhìn nhận một cách khách quan thfi về cơ bản, sự kiện đó không làm thay đổi ghê gớm cán cân thế giới. Có thể phong thánh các vị chức sắc trong tôn giáo, người ta đã từng khóc than nuối tiếc bao cô gái trẻ. Nhưng có một điều cần phải cân nhắc kỹ. Mọi người trên toàn thế giới sẽ coi khinh Hoa Kỳ và những người lãnh đạo nước này. Từ đây sẽ nổ ra những cuộc tấn công khác không thể lường trước được. Nhà cầm quyền chẳng thể duy trì trật tự. Một nhầ cầm quyền đã trở thành cái đích để chế giễu và bị thất bại thì đâu còn khả năng gìn giữ bền chặt nền văn minh đặc thù của đất nước mình. Ông làm soa bảo vệ được nó đây.
Cửa phòng ngủ hé mở, ánh sáng từ ngoài hành lang ùa vào. Nhưng lúc này, căn phòng đã nhuộm ánh ban mai rực hồng. Jefferson, áo quần chỉnh tề, đẩy chiếc bàn có bánh xe trên bày bữa điểm tâm chuẩn bị cho Kennedy. Anh ta liếc nhìn ông vẻ lưỡng lự, cuối cùng anh đã quyết định mở rộng cửa, đẩy bàn vào trong phòng.
Nước mắt Kennedy dâng trào xuốn má và đột nhiên ông biết rằng đấy là những dòng nước mắt bất lực. Ông lại nhận thức rõ rằng nỗi đau trong lòng đã dịu và thấy kinh ngạc. Máu từng đợt từng đợt dội lên não khuấy gọi một cơn thịnh nộ khủng khiếp, ông thậm chí tức giận cả bộ tham mưu của ông đã không làm trọn nhiệm vụ với ông, một cơn thịnh nộ ông chưa hề từng biết và là hậu quả ông phải gánh chịu vì suốt đời ông, ông đã xem thường người khác. Ông cố ghìm nén nó.
Mãi lúc này ông mới suy ngẫm xem bộ tham mưu của ông đã cố hỗ trợ ông tới mức nào. Suốt bao năm nay, Christian tỏ rõ mối thiện cảm trìu mến của mình với ông, chính Christian đã ôm ông và đỡ ông nằm xuống giường. Là một con người lạnh lùng và bàng quan, thế nhưng Oddblood Gray đã ôm chặt ông và khẽ lẩm bẩm:
- Tôi rất lấy làm tiếc, vô cùng thương tiếc!
Còn Arthur Wix và Eugene Dazzy thì dè dặt hơn. Hai người chỉ hơi khẽ đụng tay vào người ông và lầm rầm nói đôi lời ông không nghe rõ nội dung. Kennedy nhận thấy rằng, với tư cách là người đứng đầu bộ tham mưu, Dazzy rời khỏi phòng ông sớm để ổn định mọi họat động của Nhà Trắng, Wix đã theo chân ngay Dazzy. Với tư cách là người đứng đầu Hội đồng An ninh quốc gia, ông sợ phải nghe một lời ra lệnh trả đũa quá dữ dội mà bố cô gái vừa bị giết hại ban ra.
Ngay trước khi Jefferson mang bữa điểm tâm vào phòng, Kennedy biết rằng cuộc đời mình sẽ đi theo một hướng hoàn toàn khác, có thể buột khỏi sự kiềm chế của bản thân. Ông cố gạt cơn thịnh nộ ra ngoài dòng suy nghĩ.
Francis Kennedy nhớ lại các phiên họp chiến lược thảo luận những sự kiện gay cấn tương tự. Ông nhớ lại Iran, Iraq.
Suy nghĩ của ông quay ngược trở lại thời điểm bốn chục năm trước đây. Dạo đó ông còn là một chú bé bảy tuổi nô đùa trên bãi cát ở Hyannisport cùng con cái của hai bác Jack và Bobby. hai bác ấy như mấy vị thiên thần có dáng người cao lớn, cân đối và đẹp trai đã cùng quây quần chơi đùa với lũ trẻ trước khi bước lên chiếc trực thăng đang đợi mình. Ông ngưỡng mộ quý mến bác Jack nhất, theo đúng tình cảm của một chú bé, vì chú biết rõ mọi điều bí mật của bác. Một lần chú thấy bác ôm hôn một người đàn bà, sau đó đưa bà ta vào phòng ngủ của bác, mãi một tiếng đồng hồ sau mới thấy hai người bước ra. Chú chẳng bao giờ có thể quên được ánh mắt bác lúc đó, một ánh mắt tràn đầy hạnh phúc tựa hồ như vừa được trao tặng một món quà không bao giờ quên được. Hai người đã không nhìn thấy chú bé núp sau dãy bàn kê dọc hành lang. Thời ấy bên An ninh còn sơ hở đã không bám sát Tổng thống.
Những kỷ niệm khác của thời thơ ấu lại tiếp nối quay trở lại trong đầu óc ông, đấy là những hình ảnh đầy uy quyền. Đàn ông, phụ nữ lớn tuổi hơn hai bác ấy nhiều đã tỏ vẻ cung kính hai bác như các bậc vua chúa. Bác Jack vừa bước chân ra bãi cỏ, nhạc liền nổi vang, mọi ánh mắt đổ dồn nhìn bác, mọi câu chuyện tuy đang trao đổi dở liền ngừng bặt chờ cho đến tận khi bác đọc xong bài diễn văn. Hai bác chú nổi tiếng là những người có uy quyền và phong nhã. Hai bác tin tưởng đợi trực thăng bốc lên cao, hai bác thấy an toàn khi thấy quanh mình che chắn cho hai bác tránh mọi hiểm nguy, hai bác đã bay vút lên trời cao lồng lộng và từ đỉnh cao bước xuống thật uy nghi biết bao...
Nụ cười của hai bác ấy tỏa sáng, ánh mắt toát lên đầy vẻ thánh thiện và hiểu biết, mang sức thuyết phục làm xiêu lòng người, còn thân hình mang sức hút mãnh liệt. Ấy vậy mà hai bác vẫn dành thời gian để vui chơi với mấy cô cậu nhóc là con trai, con gái, cháu của hai bác, vui chơi một cách thực sự nghiêm túc. Và rồi sau đó. Và rồi sau đó...
Chú ngồi coi vô tuyến với mẹ đang thút thít khóc theo dõi tang lễ của bác Jack, loạt súng bắn tiễn biệt, bày ngựa kéo xe tang, triệu triệu con người buồn tiếc thương đưa bác đến nơi yên nghỉ. Hình ảnh bác Bobby và bác gái Jackie xuất hiện trên màn ảnh nhỏ. Mẹ chú liền ôm chặt chú vào lòng và bảo:
- Đừng nhìn cảnh này nữa, con. Đừng, con!
Mắt Francis Kennedy nhòa đi vì làn tóc dài của mẹ và vì đang ứa lệ.
Lúc này, nắng vàng lọt qua khung cửa vừa mở đã cắt ngang dòng hồi ức của Francis Kennedy và ông thấy Jefferson đang đẩy chiếc bàn gắn bánh vào phòng. Ông liền vội bảo:
- Đưa các thứ đó ra ngoài đi và sau một tiếng nữa hãy vào. Trong vòng một tiếng đồng hồ sắp tới, đừng để tôi bị mất tập trung ngắt quãng dòng suy nghĩ.
Ít khi ông ăn nói thô bạo hoặc cộc cằn. Jefferson nhìn ông, vẻ không hài lòng rồi đáp:
- Thưa Tổng thống, vâng ạ.
Nói xong anh ta đẩy bàn quay ra và đóng cửa lại.
Nắng khá gắt nên phòng ngủ lúc này tương đối sáng rõ nhưng không bị nóng. Tuy vậy không khí nhộn nhịp ở Washington vẫn lọt được vào trong. Xe lưu động của nhiều hãng truyền hình đặt trên các xe chạy đầy trên đường phố bên ngoài các cổng nhà và tiếng độngc ơ của vô vàn xe cộ đang chạy dội lên như một bày côn trùng khổn lồ vừa bị vỡ tổ. Máy bay liên tục bay qua lại trên đầu, toàn là của bên quân sự, máy bay dân dụng cấm không được bay qua khoảng không này.
Francis Kennedy cố dằn cơn thịnh nộ khó cưỡng lại đang dội lên trong lòng ông. Miệng ông đắng ngắt. Điều ông coi là thắng lợi vẻ vang nhất trong đời mình lại là nỗi bất hạnh lớn nhất ông phải gánh chịu. Ông đã được bầu giữ chức Tổng thống và vợ ông đã qua đời trước khi ông tuyên thệ nhậm chức. Những chương trình to lớn của ông dành cho nước Hoa Kỳ không tưởng đã bị Quốc hội gọt đẽo. Còn bây giờ, con gái ông đã phải trả giá cho tham vọng và những ước mơ của ông. Miệng ông ứ đầy nước miếng chỉ chực muốn nôn ra. Cơ thể ông như bị ngấm dần như một thứ thuốc độc làm rã rời chân tay ông và chỉ cơn thịnh nộ mới tống được nó thoát ra, làm cho ông thấy khỏe khoắn. Đúng lúc đó, dường như có một luồng điện chạy qua não ông, nạp vào cơ thể ông một năng lượng khá mạnh đủ sức để ông có thể vung tay, giơ cao nắm đấm về phía mấy cửa sổ lcú này đã ngập trong ánh nắng.
Ông có sức mạnh, ông sẽ sử dụng sức mạnh đó. Ông có thể làm cho các đối thru của mình phải run sợ, ông có thể làm cho nước miếng của họ có vị cay đắng hơn trong miệng chúng. Ông có thể quét sạch toàn bộ lũ người nhỏ bé vô nghĩa đó cùng những loại nòng súng thép rẻ tiền của chúng, toàn bộ những kẻ đã gieo rắc thảm họa trong đời và trong gia đình ông.
Lúc này ông có cảm giác của người ốm yếu suốt một thời gian dài, cuối cùng, sau đợt chạy chữa chu đáo, khi tỉnh dậy vào một buổi sáng, cảm thấy mình bình phục khỏe mạnh. Ông phấn chấn vui hẳn lên, lòng thanh thản chưa từng tháy kể từ sau ngày vợ ông qua đời. Ông ngồi dậy và cố gắng kềm chế những cảm xúc của bản thân, suy nghĩ một cách thận trọng và có lý trí. Ông bình tĩnh hơn xem xét lại mọi sự lựa chọn của mình và mọi nước hiểm nguy khi tiến hành những sự lựa chọn đó. Cuối cùng ông đã nhận rõ rần phải làm gì và tiên đóan trước những mối hiểm họa sẽ vấp phải. Ông thấy con tim nhói đau khi nghĩ rằng con gái mình không còn nữa.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...