Đêm qua anh ở đâu?

3
Khiến John Mayer (1) chỉ như kẻ nghiệp dư
(1) John Mayer (1977): nhạc sĩ, ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc người Mỹ, giành giải Grammy cho giọng đơn ca nam hay nhất của dòng nhạc pop năm 2003 Với bài hát “Your Body is a Wonderland”.
“Chúng mình đang ở đâu đây nhỉ?” Brooke vừa lẩm bẩm vừa bước ra khỏi taxi và nhìn quanh con phố nhỏ tăm tối và hoang vắng ở mạn Tây Chelsea. Đôi bốt àu đen kiểu lười mà cô sắm được ở một phiên giảm giá cuối mùa cứ kéo tuột tất quần của cô xuống.
“Trung tâm khu vực triển lãm (2), Brooke ạ. Đại lộ và quán 1 OAK ở ngay đằng góc phố kìa.”
 (2) Khu vực triển lãm (Gallery District): phía Tây Chelsea là trung tâm thế giới nghệ thuật của thành phố New York với rất nhiều phòng trưng bày và các phòng nhạc.
“Tớ có cần biết những thứ cậu vừa nói là cái gì không?”
Nola lắc lắc đầu. “Thôi mà, chí ít thì trông cậu rất đẹp. Tối nay Julian sẽ rất tự hào vì có cô vợ nóng bỏng thế này.”
Brooke biết rằng cô bạn mình nói thế chỉ vì lòng tốt mà thôi. Chính Nola trông mới thật lộng lẫy, như thường lệ. Cô nàng đã nhồi chiếc áo vest và đôi giày cao tiện dụng vào chiếc túi LV ngoại cỡ và thay chúng bằng chuỗi dây đeo cổ nhiều vòng rất lớn cùng đôi giày gót cao chót vót Louboutin kiểu nửa bốt nửa xăng đan, kiểu giày mà chỉ có khoảng sáu phụ nữ trên đời có thể mang mà không bị nhầm lẫn với loại gái bạo dâm nhà nghề. Những thứ mà có lẽ trông sẽ rất rẻ tiền ở bất kỳ ai khác - son môi đỏ chót, tất lưới màu da và áo nịt ngực ren đen nhìn rõ mồn một bên trong chiếc áo hai dây trong veo của cô - thì Nola lại khiến chúng có vẻ vừa táo bạo vừa nghịch ngợm. Chiếc jupe dáng bút chì, vốn là một nửa của bộ vest đắt tiền khá phù hợp với môi trường làm việc bảo thủ nhất phố Wall, lúc này lại phô cặp mông săn chắc và đôi chân hoàn hảo của cô. Nếu đó là bất kỳ một người phụ nữ nào khác chứ không phải Nola thì Brooke hẳn sẽ ghét cay ghét đắng.
Brooke nhìn vào chiếc điện thoại BlackBerry của mình. “Giữa phố 10 và phố 11. Chính xác là nơi chúng mình đang đứng đấy chứ? Chỗ này là đâu ấy nhỉ?” Cô thoáng thấy một cái bóng lao vụt ra liền la toá
“Ồ, bình tĩnh nào Brooke. Nó còn sợ cậu hơn là cậu sợ nó đấy.” Nola xua vụ nhìn thấy chuột đi bằng bàn tay diện chiếc nhẫn cocktail.
Brooke vội vàng băng qua đường khi nhận ra rằng địa chỉ số chẵn mà họ muốn đến nằm ở phía đối diện. “Cậu nói thì dễ rồi. Cậu có thể đâm thủng tim nó bằng một cú giậm cái đế giày cao gót đó. Đôi bốt trệt bè bè này đẩy tớ vào tình thế có nguy cơ cao hơn.”
Nola cười to và điệu đà chạy sau Brooke. “Kia rồi, tớ nghĩ nó đấy,” cô vừa nói vừa chỉ tay về phía tòa nhà duy nhất trong dãy không có vẻ xập xệ.
Các cô theo cầu thang bộ hẹp từ vỉa hè dẫn xuống cánh cửa một tầng hầm không có cửa sổ. Julian đã giải thích rằng những cuộc biểu diễn ra mắt kiểu đó thường xuyên di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác, và những người trong ngành âm nhạc luôn tìm chỗ có phong cách thời trang tiếp theo để tạo cảm giác phấn chấn, nhưng dẫu vậy, trước nay cô vẫn hình dung ra một chỗ giống như phiên bản thu nhỏ của qụán bar Joe. Còn cái này là gì? Không có những người hâm mộ xếp hàng từ vỉa hè. Không có bảng quảng cáo tên nghệ sĩ tài năng biểu diễn đêm nay trương trên cửa vào. Cũng không có cả cô gái cau có như thông lệ với tấm bìa kẹp giấy tờ, gắt gỏng yêu cầu mọi người đứng lùi lại chờ đến lượt.
Brooke cảm thấy nỗi lo như một làn sóng nhỏ cồn lên tận đến lúc cô kéo cánh cửa giống như cửa hầm mộ ra, bước vào bên trong, rồi được bao bọc trong bóng tối mờ mờ ấm áp với những tiếng cười khẽ và mùi hương phảng phất nhưng không lẫn vào đâu được của cần sa. Toàn bộ không gian cỡ chỉ bằng một phòng khách rộng, và tất cả mọi thứ - từ những bức tường, những chiếc đi văng, cho đến cả những tấm ốp trên quầy bar nhỏ trong góc - đều được bọc vải nhung lông màu boóc đô. Một chiếc đèn đơn độc trên cây dương cầm tỏa ánh sáng dịu mờ xuống chiếc ghế chưa có người ngồi. Hàng trăm cây nến nhỏ được khuếch đại ánh sáng trên những mặt bàn và trần nhà ốp gương, chẳng hiểu sao khung cảnh này lại thành ra quá sức gợi cảm mà thậm chí không khơi lên một chút gì của thập kỷ tám
Đám đông trông như thể bị bứng ra khỏi bữa tiệc cocktail bên bể bơi ở Santa Barbara (3) mà thả vào thành phố New York vậy. Bốn năm chục người hầu hết là nam thanh nữ tú thơ thẩn loanh quanh, nhấp nháp từng hớp rượu từ những chiếc ly tròn thấp và nhả khói thuốc lá thành những chùm hơi dài uể oải. Hầu hết đàn ông đều vận quần jean, còn số ít vẫn mặc những bộ lê ban ngày thì đã cởi bỏ cà vạt và nới cúc áo phía trên ra. Hầu như không có phụ nữ nào đi giày gót nhọn hay vận những chiếc đầm cocktail đen bó ngắn đã làm nên đồng phục của Manhattan; thay vào đó họ đi lại thoải mái trong những chiếc áo hoa văn dáng dài, đeo hoa tai hạt đá leng keng và mặc quần jean ôm khít đẹp đến nỗi Brooke những muốn cởi phắt chiếc đầm dệt kim màu đen bó sát người ngay tại chỗ. Một số người đeo những dải băng kiểu hippi ngang trán và mái tóc đẹp của họ thả dài đến ngang lưng. Chẳng ai có vẻ gì là e dè ngượng ngập hay căng thẳng cả - thêm một nét nữa không phải chất Manhattan - tất cả những cái đó hiển nhiên làm Brooke lo ngại gấp đôi. Thế này còn khuya mới giống những khán giả thường ngày của Julian. Những người này là ai vậy và tại sao mỗi người bọn họ, tất cả bọn họ, đều có vẻ sành điệu hơn cô cả ngàn lần thế?
(3) Santa Barbara: một hạt của thành phố California, điểm đến du lịch nổi tiếng.
“Lấy hơi đi,” Nola nói thầm vào tai cô.
“Tớ mà còn hồi hộp thế này thì không thể tưởng tượng được Julian cảm thấy thế nào nữa.”
“Đi thôi, hãy kiếm đồ uống cho bọn mình đã,” Nola hất mái tóc vàng qua vai và chìa một tay cho Brooke, nhưng trước khi họ băng qua đám đông Brooke đã nghe thấy một giọng quen quen.

“Đỏ, trắng, hay loại mạnh hơn?” Trent vừa hỏi vừa xuất hiện một cách thần bí bên cạnh họ. Anh là người duy nhất mặc lê ở đó và trông có vẻ không được thoải mái lắm. Chắc hẳn sau nhiều tuần thì đây là lần đầu tiên anh ra khỏi bệnh viện.
“Này đằng ấy ơi!” Brooke vừa nói vừa vòng tay ôm cổ anh. “Anh còn nhớ Nola đấy chứ?”
Trent nhoẻn cười. “Tất nhiên là tôi còn nhớ.” Anh quay về phía Nola và hôn lên má cô. Trong giọng điệu của anh có chút gì như ngụ ý ‘Tất nhiên tôi nhớ là tôi đã gặp cô, vì tối hôm đó ngẫu nhiên cô đã về nhà với bạn tôi và cậu ấy rất ấn tượng cả vì sự sốt sắng lẫn tính sáng tạo của cô trong phòng ngủ.’ Nhưng Trent là người quá dè dặt để có thể đùa cợt về chuyện ấy, thậm chí là sau chừng ấy năm vẫn vậy.
Còn Nola thì không thế. “Thế Liam ra sao rồi? Chúa ơi, anh chàng ấy vui đấy,” nói rồi cô cười toe toét. “Ờ, cực vui ấy chứ.”
Trent và Nola trao đổi một cái nhìn đầy ngụ ý và bật cười.
Brooke giơ tay lên. “Vậy thì tốt rồi. Trent này, chúc mừng lễ đính hôn nhé. Khi nào thì chúng tôi được gặp cô ấy đây?” Cô không đủ can đảm gọi tên Fern vì không tin mình sẽ nói cái tên ấy mà không phá lên cười. Tên với tuổi gì mà lại là Fern (4) cơ chứ.
(4) Fern: cây dương xỉ.
“Xét tình hình là chúng tôi hầu như không bao giờ có mặt tại bệnh viện cùng một lúc, có lẽ sẽ phải chờ đến tận đám cưới.”
Nhân viên phục vụ quầy bar tiến đến chỗ Trent, lúc này anh đang quay mặt về phía hai cô gái.
“Xin cho loại đỏ,” hai cô đồng thanh nói, và cả ba quan sát người phục vụ rót rượu từ chai vang cabernet California. Trent chuyển ỗi cô một ly và tợp hai hơi chớp nhoáng là cạn ngay ly của mình.
Với vẻ mặt bẽn lẽn, anh quay về phía Brooke, “Tôi không mấy khi ra ngoài.”
Nola cáo lỗi đi một vòng quanh phòng.
Brooke mỉm cười với Trent. “Nào, hãy kể về cô ấy cho tôi đi. Đám cưới sẽ tổ chức ở đâu thế?”
“À, Fern quê ở Tennessee và gia đình cô ấy rất đông, vì vậy chắc chúng tôi sẽ tổ chức hôn lễ ở chỗ cha mẹ cô ấy. Vào tháng Hai tới, tôi nghĩ thế.”
“Chà, tiến triển tốt đây. Hay quá, tin này thật tuyệt.”
“Ừ thì, cách duy nhất để chúng tôi có thể ở cùng một nơi với nhau là cưới nhau mà.”
“Thế cả hai bạn định sẽ tiếp tục chuyên khoa tiêu hóa đấy chứ?”
“Ừ, dự định là thế. Tôi quan tâm đến lĩnh vực thí nghiệm và nội soi hơn - ngày nay họ đang tạo ra những thứ công nghệ cao đến mức khó tin - nhưng Fern học chuyên khoa người thiên về bệnh viêm ruột và ổ bụng.” Trent ngừng một lát và có vẻ đang suy ngẫm về điều đó trước khi nở một nụ cười tươi. “Cô ấy tuyệt lắm. Tôi nghĩ thể nào cô cũng thích cô ấy.”
“Này cậu!” Julian vừa chào vừa vỗ vào lưng Trent. “Tất nhiên chúng tôi sẽ thích cô ấy chứ. Cô ấy sẽ là vợ cậu mà. Kỳ cục làm sao?” Julian nghiêng người sang hôn lên môi Brooke. Môi anh có vị ngon lành như sô cô la bạc hà, và chỉ cần nhìn anh là cô thấy an tâm rồi.
Trent cười lớn. “Còn chưa kỳ cục bằng việc anh họ của tôi vốn rất lùn về mặt xã giao mà cũng lấy vợ được năm năm trời rồi cơ đấy, nhưng duyên số mà.”

Ba người vừa mới cụng ly - Julian chỉ dùng nước - và đang sắp sửa đào xới chủ đề toàn diện về Fern thì một trong những gã bảnh trai nhất mà Brooke từng nhìn thấy đột ngột xuất hiện bên cạnh cô. Gã cao hơn cô phải đến mười lăm phân là ít, và chiều cao này làm Brooke lập tức cảm thấy mình yếu ớt và nhỏ bé một cách rất nữ tính. Cô đã ước ao vô vàn lần rằng Julian có được chiều cao như người đàn ông bí ẩn này nhưng rồi phải gạt ý nghĩ ấy ra khỏi đầu cô; Julian hẳn cũng mong ước Brooke có thân hình đẹp như Nola, vậy cô còn đòi hỏi cái nỗi gì? Gã đó quàng một tay qua lưng cô và siết chặt vai trái của cô, sát đến nỗi cô có thể ngửi thấy mùi nước hoa của gã. Nam tính, tinh tế, và đắt tiền. Brooke đỏ mặt.
“Hẳn cô là bà xã của anh ấy rồi,” gã vừa nói vừa cúi xuống hôn lên trán cô, một cử chỉ vừa thân mật lại vừa xã giao một cách lạ lùng. Giọng gã không sâu như Brooke những tưởng một người có chiều cao và rõ là sung mãn như gã ắt phải có.
“Leo, tôi muốn giới thiệu Brooke với anh,” Julian nói. “Brooke, đây là Leo, nhà quản lý mới.”
Đúng lúc đó một cô gái người châu Á bước qua, Brooke và Julian quan sát Leo nháy mắt với cô ta. Nola ở chỗ quái nào không biết? Cô phải nhanh chóng và thường xuyên cảnh báo cho Nola rằng Leo là “hiện vật cấm sờ” mới được. Sẽ chẳng dễ dàng gì - Leo chính xác là típ người cô nàng thích. Chiếc sơ mi màu hồng của gã mở thêm một cúc so với hầu hết những người đàn ông khác dám mở, nó làm nổi bật nước da rám nắng đẹp đẽ - sẫm màu vừa phải mà không có dấu vết tắm nắng nhân tạo hoặc dùng bình xịt. Gã vận quần âu ống côn cạp trễ. Ăn mặc như thế thì lẽ ra mái tóc của gã phải được chải mượt gọn về đằng sau bằng loại gôm keo đặc, nhưng gã khéo léo để những lọn tóc sẫm màu của mình bồng bềnh ngay phía trên cặp mắt. Khiếm khuyết duy nhất mà cô soi ra được chỉ là một vết sẹo cắt ngang phía lông mày bên phải làm thành một đường phân cách sói bóng, nhưng thực tế lại là lợi thế cho gã, nó xóa đi bất kỳ dấu vết nào của sự chải chuốt hoặc sự hoàn hảo đầy nữ tính. Toàn bộ cơ thể gã chẳng có lấy một gam mỡ thừa.
“Hân hạnh được gặp anh, Leo.” Brooke nói. “Tôi đã được nghe rất nhiều về anh.”
Gã chẳng tỏ vẻ gì là nghe thấy cô nói. “Được rồi, nghe này,” gã quay qua nói với Julian. “Người ta vừa nói với tôi là anh được sắp xếp biểu diễn tiết mục cuối. Một người vừa diễn xong rồi, còn một nữa, rồi đến anh.” Leo chăm chăm nhìn qua vai Julian trong lúc gã nói.
“Đó có phải là tin tốt không?” Brooke lịch sự hỏi. Julian từng nói với cô rằng tất cả các ca sĩ khác được đưa vào chương trình biểu diễn tối đó đều chưa từng tham gia vào bất kỳ cuộc thi tài thực sự nào cả. Một là nhóm nhạc R&B mà ai cũng nghĩ rằng hát giống Boyz II Men đương thời, và người nữa là một nữ ca sĩ đồng quê xăm trổ đầy mình mặc những chiếc đầm ren rườm rà và tết tóc bím.
Cô nhìn sang Leo và một lần nữa lại thấy cái nhìn của gã mông lung tận đâu đâu. Brooke dõi theo hướng đó và thấy gã đang nhìn chằm chặp vào chính Nola. Hoặc, nói đúng hơn là, chằm chặp vào cặp mông dưới chiếc jupe bó căng của Nola. Cô ghi nhớ trong đầu phải cảnh báo Nola nguy cơ bị tẩy chay hoặc còn tệ hại hơn nếu cô nàng lại gần gã ở bất kỳ đâu.
Leo hắng giọng rồi làm một ngụm whisky. “Em kia đã xong rồi, mà em cũng được lắm. Không phải loại làm người ta thích cuồng lên, nhưng gây hứng thú một cách êm dịu. Tôi cho rằng…”
Gã bị những giọng hợp xướng cắt ngang nửa chừng. Thực ra không có sân khấu hẳn hoi, nhưng có một khoảng trống trước chiếc dương cầm, nơi bốn chàng Mỹ gốc Phi trạc ngoài hai mươi đang đứng, mỗi người đều hướng vào chiếc micro ở giữa. Trong giây lát nghe như dàn hợp xướng a capella rất hay của sinh viên đại học, nhưng sau đó ba chàng trai trẻ lùi xuống phía sau để lại ca sĩ chính một mình ngân nga hát về tuổi thơ của anh ta ở Haiti. Đám đông gật đầu và đung đưa tán thưởng.
“Này, em yêu.” Julian đi vòng qua nhóm đến sau lưng cô. Anh hôn vào gáy cô và cô suýt nữa thì rên lên thành tiếng. Anh đã mặc trang phục diễn, không thay đổi thậm chí là sau ngần ấy năm: áo phông cộc tay màu trắng, quần Levi’s và một chiếc mũ len đan. Bộ trang phục không thể nào đời thường hơn được nữa, nhưng đối với Brooke nó biểu hiện cho sự gợi cảm hết mức. Chiếc mũ là dấu ấn của Julian, vật mà anh mang gần với nghĩa “tạo phong cách” nhất, nhưng chỉ duy Brooke mớó có ý nghĩa nhiều hơn thế. Mới năm ngoái đây Julian rầu rĩ khi phát hiện ra một đốm hói nhỏ xíu xiu trong quá trình rụng tóc. Brooke cố gắng trấn an anh rằng đốm hói đó khó lòng nhận thấy, nhưng Julian chẳng muốn nghe chút nào cả. Mà nói thật ra thì, có lẽ nó đã loang rộng hơn một chút so với lần đầu tiên anh phát hiện ra, mặc dù cô không muốn thừa nhận điều đó.
Không ai nhìn thấy những lọn tóc quăn sẫm màu gợi cảm thò ra dưới chiếc mũ lại có thể đoán rằng Julian đang cố gắng che giấu điều gì bên dưới đó cả, và đối với Brooke thì nó chỉ tăng thêm sức hấp dẫn của Julian, làm cho anh có vẻ dễ xúc cảm và con người hơn. Cô thầm thích thú khi cô là người duy nhất nhìn thấy Julian lúc anh không đội mũ, khi ở nhà anh yên tâm cởi mũ ra, lúc lắc những lọn tóc xoăn của anh với riêng cô mà thôi. Vài năm trước nếu có ai bảo Brooke rằng cô sẽ thấy cái chứng hói đầu ngày càng tăng của anh chồng ba mươi hai tuổi là một trong những nét hấp dẫn nhất của anh thì chắc cô phải phá lên cười vì không thể tin được điều đó, nhưng đó chính là điều đã xảy ra.
“Anh thấy thế nào? Anh có hồi hộp không?” Brooke hỏi và tìm kiếm trên mặt anh một dấu hiệu cho thấy mức tự tin của anh. Anh đã suy sụp suốt cả tuần - hầu như không ăn, hoàn toàn không ngủ, thậm chí chiều hôm đó anh còn nôn mửa nữa - nhưng khi Brooke cố gắng chuyện trò với anh về điều đó thì anh rụt đầu vào mai rùa. Cô muốn đi cùng anh đến nơi biểu diễn tối hôm đó, nhưng Julian khăng khăng bảo cô đi với Nola. Anh nói anh cần bàn với Leo một số chuyện, phải đến đó sớm, đảm bảo rằng mọi thứ được chuẩn bị đầy đủ. Hẳn phải có điều gì đó tác động tốt, bởi vì trông anh đã thư thái hơn một chút.
“Anh sẵn sàng rồi,” anh vừa nói vừa gật đầu cả quyết. “Anh cảm thấy thoải mái.”
Brooke hôn lên má anh, cô biết rằng anh đang vô cùng căng thẳng nhưng cô tự hào vì anh đã trụ được. “Trông anh tuyệt lắm. Có vẻ như anh đã sẵn sàng rồi. Tối nay thế nào anh cũng sẽ tỏa sáng.”
“Em nghĩ thế thật chứ?” Anh uống một ngụm soda, và Brooke nhận thấy các đốt ngón tay anh trắng bệch. Cô biết anh thèm một thứ gì mạnh hơn thế đến chết lên được, nhưng anh không bao giờ uống bia rượu trước giờ biểu diễn.
“Em biết thế. Khi anh ngồi cạnh đàn dương cầm, tất cả những gì anh nghĩ đến là âm nhạc. Tối nay đâu có khác gì những tối anh diễn ở quán bar Nick. Khán giả luôn luôn yêu thích anh, anh yêu ạ. Anh hãy nhớ điều đó. Hãy cứ là chính mình, rồi cả ở đây nữa họ cũng sẽ yêu thích anh cho xem.”
“Hãy nghe lời bà xã cậu,” Leo nói, gã vừa quay trở lại sau khi tán gẫu vài câu với đám người phía sau. “Hãy quên rằng cậu đang ở đâu và tại sao cậu đến đây, cứ làm việc của mình thôi. Hiểu chứ?”
Julian gật đầu và nôn nóng giậm giậm chân. “Rõ rồi.”

Leo ra hiệu về khu vực hậu phòng. “Hãy chuẩn bị chỉnh trang cho cậu nào.”
Brooke nhón chân hôn lên môi Julian. Cô siết tay anh và nói, “Em sẽ ở đúng chỗ này suốt thời gian biểu diễn, nhưng anh hãy quên tất cả bọn em đi. Cứ nhắm mắt lại và chơi cho hết mình anh nhé.”
Anh hướng cái nhìn đầy vẻ biết ơn về phía cô nhưng không thể thốt lên lời nào. Leo dẫn anh đi, và cô chưa kịp uống hết ly rượu thì một người ở Ban Phát triển Tài năng đã xướng tên Julian trên micro.
Brooke lại nhìn quanh tìm Nola và thấy cô đang chuyện trò với một nhóm người đằng trước quầy bar. Cô nàng biết tất cả mọi người. Mừng vì có Trent bên cạnh, Brooke để mặc anh dẫn cô đến một băng ghế nhỏ trong bộ đi văng góc nơi anh ra dấu cho cô ngồi xuống. Cô ghé ngồi xuống một đầu đi văng bọc nhung và bồn chồn túm tóc lại. Cô lục trong túi tìm dây buộc tóc nhưng không thấy.
“Đây,” cô gái châu Á xinh đẹp mà Leo nháy mắt lúc trước nói. Cô ta kéo một sợi dây thun nâu ra khỏi cổ tay đưa cho Brooke. “Tôi còn cả triệu cái.”
Brooke ngập ngừng giây lát, không biết phải làm gì, và cô gái nhoẻn cười. “Thật mà, có gì đâu. Chẳng gì khó chịu hơn là vén tóc cho khỏi xòa xuống mặt mình. Mặc dù, nếu tôi có mái tóc như chị thì tôi chẳng bao giờ buộc túm lại.”
“Cảm ơn cô,” Brooke nói rồi nhận lấy sợi thun và lập tức buộc túm tóc thành kiểu đuôi ngựa. Cô vừa định nói thêm, có thể là câu gì đó tự hạ thấp mình kiểu như cô sẽ không chúc ai có một mái tóc đỏ như mình đâu, thì đúng lúc đó Julian ngồi xuống bên chiếc đàn dương cầm, và cô nghe tiếng anh nói, hơi run một chút, cảm ơn mọi người đã đến.
Cô gái uống một hớp từ chai bia đang cầm và hỏi, “Trước đây chị đã bao giờ nghe anh ấy hát chưa?”
Brooke chỉ biết gật đầu và cầu mong cô gái đó ngưng nói. Cô không muốn bỏ lỡ một giây nào, vả lại đầu óc cô còn đang bận băn khoăn không biết có ai khác nhận thấy thoáng run run trong giọng Julian không.
“Vì nếu chưa thì đảm bảo chị sắp phải ngạc nhiên đấy. Anh ấy là ca sĩ gợi cảm nhất mà tôi từng thấy.”
Câu đó thu hút sự chú ý của cô. “Sao cơ?” cô quay lại phía cô gái, hỏi.
“Julian Alter ấy,” cô gái vừa nói vừa vẫy tay về phía chiếc dương cầm. “Tôi đã vài lần nghe anh ấy hát ở những địa điểm khác nhau trong thành phố. Anh ấy có vài sô diễn thường xuyên. Và tôi cam đoan với chị điều này, anh ấy hát hay đến lạ lùng. Làm John Mayer chỉ như kẻ nghiệp dư.”
Julian bắt đầu chơi bản “For the Lost” (Cho người đã khuất), một bài hát đầy xúc cảm về một cậu bé mất anh, và cô cảm thấy Trent liếc nhìn về hướng cô - trong gian phòng này, ngoài cô ra ắt hẳn anh là người duy nhất biết điều gì thực sự thôi thúc Julian sáng tác bài đó. Julian hiện là đứa con duy nhất, nhưng Brooke biết anh thường nghĩ đến người anh trai đã chết vì SIDS (4) trước khi Julian được sinh ra. Tận đến bây giờ, gia đình Alter vẫn chưa bao giờ đề cập đến James, nhưng Julian đã trải qua một thời kỳ băn khoăn, đôi lúc đến mức ám ảnh, rằng nếu còn sống thì lúc này James sẽ là người như thế nào, và cuộc đời anh lẽ ra đến mức nào nếu có một người anh trai.
(4) SIDS (Sudden infant death syndrome): hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh.
Đôi tay anh lướt trên những phím dương cầm, tạo ra những nốt âm vang đầu tiên sẽ tiến triển thành một cao trào mạnh mẽ, nhưng Brooke không thể tập trung vào bất kỳ điều gì ngoài cô gái bên cạnh mình. Cô vừa muốn ôm lấy lại vừa muốn bạt tai cô ta. Cô thấy lo lắng khi nghe cô gái quá đỗi quyến rũ này say sưa nói về sự gợi cảm của Julian - dù họ đã chung sống với nhau bao lâu nay nhưng cô vẫn chưa thể quen với khía cạnh ấy - nhưng cũng hiếm khi được nghe một quan điểm hoàn toàn thành thực và nguyên sơ như thế.
“Cô nghĩ thế à?” Brooke hỏi lại, đột nhiên cô mong tha mong thiết rằng cô gái kia sẽ đồng ý.
“Ồ, chắc chắn là thế rồi. Tôi đã cố bảo sếp tôi, hàng chục lần ấy chứ, nhưng Sony vớ được anh ấy trước.” Sự chú ý của cô gái đối với Brooke bắt đầu giảm dần khi giọng của Julian vang cao, và lúc anh nghiêng nghiêng đầu hất lên đoạn điệp khúc tình cảm và da diết buồn thương thì cô gái dán chặt mắt vào anh mà không để ý đến ai khác. Brooke tự hỏi trong làn sương mù mịt của sự tôn thờ đó cô ta có nhận thấy chiếc nhẫn cưới trên tay Julian không.
Brooke quay lại xem và cô hết sức kiềm chế để khỏi hát theo. Cô thuộc từng lời trong bài hát.
Nghe đồn Texas miền đất hứa
Ta lớn lên từụi đường
Tay sứt sẹo và trái tim rạn vỡ
Tuyệt mù vô vọng chẳng tình thương.
Anh là giấc mơ của mẹ, cát bụi lại về cát bụi thôi

Ôi anh trai em, thời gian cuốn anh trôi khuất xa vời
Như hai đường thẳng song song không bao giờ gặp
Hát cho người đã khuất, cho người đã khuất.
Người mẹ ngồi trong căn phòng, đơn độc
Đơn độc trong ngôi nhà như bia mộ lặng câm
Trên vương miện, người cha kiểm từng viên ngọc
Nỗi đau mất mát được đong đếm bằng tiền bạc.
Anh là giấc mơ của cha, cát bụi lại về cát bụi thôi
Ơi anh trai em, thời gian cuốn anh trôi khuất xa vời
Như hai đường thẳng song song không bao giờ gặp
Hát cho người đã khuất, cho người đã khuất.
Trong giấc mơ em, những tiếng vọng từ sau cánh cửa
Chúng bảo em: anh sẽ chẳng trở về
Anh sẽ không tin: trái tim em sao câm lặng thế
Chất chứa u hoài xen lẫn niềm tủi hổ.
Anh là giấc mơ của đứa em trai, cát bụi lại về cát bụi thôi
Ơi anh trai em, thời gian cuốn anh trôi khuất xa vời
Như hai đường thẳng song song không bao giờ gặp.
Hát cho người đã khuất, cho người đã khuất.
Anh kết thúc bài hát trong tiếng vỗ tay vang dội - những tràng vỗ tay chân thực và nhiệt thành - và chuyển sang bài hát thứ hai một cách tự nhiên. Anh đã vào guồng, và không còn một dấu vết nào của sự lo lắng nữa. Chỉ có ánh mồ hôi quen thuộc lấp lánh ở hai cánh tay anh và nếp nhăn hằn trên trán vì tập trung cao độ trong lúc cất lên những lời ca mà anh đã bỏ ra nhiều tháng ròng, có khi là nhiều năm ròng, để trau chuốt. Bài hát thứ hai loáng một cái đã hết, rồi đến bài thứ ba, và trước khi cô kịp nhận thấy điều gì đang xảy ra thì đám đông đã hoan hô cuồng nhiệt và đòi hát lại. Julian trông sung sướng và hơi bối rối - anh hẳn đã nhận được chỉ thị hát ba bài với thời lượng dưới mười hai phút - nhưng rồi có lẽ anh đã được ai đó ở hậu trường bật đèn xanh, vì anh đang mỉm cười, gật đầu và nhẹ nhàng chuyển nhịp sang một trong những bài hát vui tươi hơn. Đám đông rộ lên tán thưởng.
Lúc anh đẩy chiếc ghế ngồi chơi đàn ra sau và nhã nhặn cúi chào, không khí trong phòng đã thay đổi hẳn. Vượt lên trên tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay và huýt sáo vang dội là cái cảm giác kích thích vì được tham dự vào một điều gì đó thật lớn lao. Bị vây quanh tứ phía bởi những người hâm mộ chồng cô, Brooke đứng lên khi Leo tiến lại gần. Gã gọi tên cộc lốc để chào cô gái cho dây buộc tóc - Umi - nhưng cô này lập tức trợn mắt lên và bỏ đi. Trước khi Brooke kịp hiểu ra, Leo nắm lấy tay cô hơi quá chặt và nghiêng sát lại gần đến nỗi trong một giây ngắn ngủi cô đã ngờ rằng gã sắp hôn cô.
“Chuẩn bị sẵn sàng nhé, Brooke. Hãy chuẩn bị sẵn sàng ột cuộc đua cực kỳ náo nhiệt đi. Tối nay mới chỉ là khởi điểm thôi, rồi sau đó sẽ là cuồng loạn.”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận