"Dừng! Hôm nay chỉ quay tới đây, dọn dẹp thôi!" Đạo diễn Vương Tử Dã hài lòng hô to.
Mấy diễn viên đóng giả tử thi thoáng cái ào ào đứng dậy, nhất thời làm chim chóc bay tán loạn một vùng.
Nữ hiệp che mặt tay cầm kiếm đang trong tư thế diễn, lúc này mới dừng lại mà cười khanh khách, hạ khăn che mặt, lộ ra khuôn mặt quyến rũ.
"Này này này, kéo chúng tôi xuống đi chứ!" Phía trên có tiếng người la to.
Đó là một mảnh rừng trúc, một cỗ thi thể bị đầu cây trúc vót nhọn đâm xuyên qua máu me chảy đầm đìa, còn có một gã bị hai cây trúc kẹp ở giữa không trung. Lúc này gã bị đầu cây trúc đâm qua đang quay đầu xuống dưới hét to, tên võ sĩ giả chết ở giữa hai cây trúc cũng đã trợn tròn mắt.
Người của tổ phim vội dùng dây thừng cẩn thận kéo bọn họ xuống đất.
"Tiểu Tịch à, lại đây, lại đây!"
Nghe Vương đạo diễn gọi, tên thích khách máu chảy đầm đìa cả nửa người chạy tới: "Vương đạo diễn."
Vương đạo diễn dừng bước, hỏi: "Tiểu Tịch, cái ta nhờ cậu đi mượn thế nào rồi?"
Tịch Bân cười nói: "Đạo diễn, tôi chính là phải dùng sức chín trâu hai hổ mà nói rã cả nước bọt, cuối cùng cũng làm cho Đạt Khách Lạt Ma * gật đầu, đã mượn được vật đó đến đây rồi.” ( Lạt Ma: Danh từ dùng để gọi các vị Cao tăng Tây Tạng.)
Vương đạo diễn mừng rỡ, vỗ vai hắn một cái thật mạnh: "Tốt lắm, ngày mai sẽ quay cảnh tế bái Hoàn Nhan A Cốt Đả (1), có cái cổ vật này là gần như chuẩn bị xong xuôi rồi, cậu sắp xếp đâu vào đấy cả rồi chứ?"
"Yên tâm đi Vương đạo diễn, không có sự cố gì cả, lát nữa tôi sẽ đi kiểm tra lại."
Vương đạo diễn hài lòng nói: "Tốt tốt tốt, thái độ làm việc rất nghiêm túc, chính những chi tiết nhỏ mới quyết định thành bại..."
"Vương...đạo...diễn" Hắn đang nói dở thì một tiếng gọi nũng nịu vang lên, nữ diễn viên chính đóng vai nữ hiệp Sanh Hàn tiểu thư lắc lắc cái eo ưỡn ẹo đi tới, nói: "Vương đạo diễn, hôm nay phải quay đi quay lại tới sáu lần, làm lưng người ta mỏi nhừ, tối nay anh phải mời người ta một bữa mới được đó."
"Ha ha, được được được, anh mời khách, anh mời khách!" Vương đạo diễn lập tức mặt mũi hớn hở: "Đi thôi, trước tẩy trang rồi tắm rửa đã, rồi anh sẽ mời em nếm thử đồ ăn Tây Tạng chính tông."
Sanh Hàn ném một cái nhìn quyến rũ về phía hắn, rồi thướt tha duyên dáng rời đi.
Vương Tử Dã cũng không cùng Tịch Bân nói chuyện tiếp, vội vàng nói: "Tiểu Tịch à, vậy làm phiền cậu, ta đi trước đây." Nói xong liền vội vã đuổi theo Chu đại mỹ nhân.
Tịch Bân trừng mắt nhìn theo cái eo thon nhỏ đang vặn vẹo của Sanh Hàn tiểu thư, khe khẽ thở dài, thèm muốn nói: "Ài, thật đáng tiếc, củ cải trắng trong vườn đều để cho heo ủi nát mà!"
Quan Ngư - tên diễn viên đóng vai thích khách còn lại - đi tới sau lưng hắn, hắc hắc cười nói: "Ai bảo người ta là đạo diễn cơ, mấy em xinh chả vội vội vàng vàng mà lao vào à? Ông anh là thư kí trường quay, đây là con đường ngắn nhất để làm đạo diễn đó, đến lúc được thăng cấp, ông anh cũng có thể hưởng thụ những thứ ấy mà."
Tịch Bân quay đầu lại, thấy là bạn tốt Quan Ngư, lúc này tâm trạng mới buông xuôi.
Hắn là thư ký trường quay, thuộc tổ đạo diễn, khổ nỗi thư ký trường quay ở tổ đạo diễn là chức vụ thấp nhất, đãi ngộ kém nhất, công việc lại vất vả nhất, chẳng qua làm thư ký tại trường quay đích thực là con đường ngắn nhất để làm đạo diễn, nếu mà làm được tốt, quay xong một bộ phim là có đủ tư cách làm phó đạo diễn rồi.
Còn Quan Ngư là người viết kịch bản, hai người giao tình rất tốt. Hiện giờ đang là thời kỳ khủng hoảng kinh tế, để tiết kiệm tài chính, lúc cần tìm hai diễn viên đóng vai thích khách, đạo diễn liền cho bọn họ làm diễn viên không chuyên luôn.
Tịch Bân vỗ vỗ vai hắn, cười nói: "Chú đi đứng thế nào mà không phát ra tiếng động gì thế hả? Định hù chết anh à. Sanh Hàn tiểu thư có đá lông nheo với chú cái nào không?"
Quan Ngư lắc lắc đầu, vẻ mặt đau khổ thở dài: "Bỏ đi, hiện tại nghề viết kịch bản không được ưa chuộng đâu."
Hai người vai kề vai đi tới trường quay số hai, Quan Ngư khổ tâm nói với hắn: "Hồi còn nhỏ, em đã đọc qua không ít tiểu thuyết, cuối cùng tổng kết ra được một kinh nghiệm: Muốn tán gái, phải có tài. Từ Tư Mã Tương Như câu dẫn được quả phụ xinh đẹp Trác Văn Quân (2), đến Trương Sinh câu dẫn Thôi Oanh Oanh (3), thời cận đại thì có Từ Chí Ma (4) vân vân, có ai không dùng tài năng làm nước cờ đầu?
Em chính là nhận ra được điều này, mới theo học khoa văn, ai biết được người tính không bằng trời tính, chờ em cày bừa xong rồi, thời đại cũng đã tiến bộ, "nhà văn" không gọi là "nhà văn", mà đều kêu là "tay viết" (tả thủ). Mấy em ngoan hiền đều mẹ nó tuyệt chủng hết cả, có tí xinh đẹp đều chạy theo mấy gã có tiền với quyền như tay đạo diễn đó, em đây chỉ là một "tay viết", cùng lắm chỉ lừa được mấy em "khủng long" trên mạng hâm mộ mà thôi."
Tịch Bân nghe xong cười ngặt nghẽo, hai người vừa đi vừa nói đã đến trường quay số hai. Đây là trường quay võ hiệp cổ trang lấy bối cảnh những năm cuối của triều đại Nam Tống, đạo diễn đang dàn dựng cảnh quay Tát mãn Vu sư * của nước Kim chủ trì tế bái Hoàn Nhan A Cốt Đả, cần phải có phong vị cổ xưa, mới phải nhờ Tịch Bân sang miếu Lạt Ma ở phụ cận mượn cái "Đại Luân Hồi bàn" (Bánh xe luân hồi).
(*Vu sư: Thầy cúng, thầy đồng. *Tát mãn (Shama): là một tôn giáo nguyên thủy của người Tây Bá Lợi Á (Siberia) hay còn gọi là tín ngưỡng “Vu”)
"Đại Luân Hồi bàn" là Phật môn pháp bảo, nghe nói Phật tổ dùng vật này để siêu độ cho những đệ tử chấp mê bất ngộ (mãi u mê không tỉnh ngộ), khiến họ phải trải qua bách thế thiên niên, sinh tử luân hồi (trăm đời ngàn năm, chịu sự luân hồi sinh tử), mãi cho tới khi tỉnh ngộ hoàn toàn. Đây là truyền thuyết, không cần phải đi sâu nghiên cứu, nhưng thứ này đích xác là có niên đại rất lâu đời, Tịch Bân sợ không cẩn thận làm hỏng nó, nên luôn dặn tổ làm phim phải treo cho thật chắc chắn.
Hai người đi vào trường quay, liền thấy một cái bánh xe luân hồi khổng lồ được ba sợi dây thép buộc vững vàng trên không.
Tịch Bân cười nói: "Chú em cũng tự nhận là mình có tài à? Anh xem qua kịch bản chú viết, thấy danh kỹ Lý Sư Sư (5) trở thành Từ Hàng Tĩnh Trai truyền nhân*, Tứ thái tử của nước Kim Hoàn Nhan Ngột Thuật lại thành cao thủ Âm Quỳ phái*, cái này không phải quá nhảm nhí hay sao?" (* Từ Hàng Tĩnh Trai, Âm Quỳ phái: Các môn phái thường xuất hiện trong các bộ truyện kiếm hiệp)
Quan Ngư quay người lại nhìn hắn bằng nửa con mắt, khinh thường nói: "Vô nghĩa, em thực ra rất muốn viết kịch bản nghiêm túc, nhưng viết xong ai sẽ đầu tư cho ông anh? Trong cái phim của Phạm Vĩ diễn kia kìa, một miếng nhựa hỏng cũng bán được tới 200 vạn bảng Anh, đầu tên phú ông đó có phải bị lừa đá hay không? Còn có bộ phim lịch sử nhìn thì hoành tráng mà làm thì rối tinh rối mù, hùng tài đại lược như Tào Tháo chỉ vì xem Tiểu Kiều biểu diễn trà đạo mà quên cả phát động ba quân*, có thể sao? Công chúng không phải vẫn say sưa mà xem đó thôi, em đã thông suốt rồi, thay vì anh bỏ công bỏ sức ra mà làm phim nghiêm túc, chẳng thà làm mấy cái tiết mục giải trí chọc cho người xem cười hi hi ha ha, hiện giờ làm quái có ai để ý đến tình tiết nội dung nữa?
(*Ám chỉ bộ phim Phi Thành Vật Nhiễu và Đại Chiến Xích Bích)
Thật sự là có tài nhưng không gặp thời, không thể được mỹ nữ yêu thương nhung nhớ, Quan đại tài tử bất bình than thở. Tịch Bân khoác lấy vai hắn, dâm đãng cười nói: "Được rồi, không nói mấy chuyện vô nghĩa đó nữa. Cơm hộp của tổ làm phim ăn chán chết, lát nữa anh em cũng ra ngoài ăn, thế nào? Rồi buổi tối gọi hai cô em đi thư giãn một chút..."
Quan Ngư vừa nghe liền hoạt bát hẳn lên, vội vàng hỏi: "Ông anh mời hả?"
"Đương nhiên."
"Vậy gọi thêm hai em nữa đi."
"Chú em có được không? Anh chú cũng không có ý khoe khoang, anh chú vốn ngày trước là cascadeur, thân thể cực kì rắn chắc, một đêm bảy "nháy" cũng không thành vấn đề, chứ nhìn như chú bây giờ cả ngày chỉ cắm đầu vào mấy thứ chữ nghĩa số má vô nghĩa đó, thì lực eo... hắc hắc... hắc hắc..."
Quan Ngư cũng lộ ra vẻ mặt dâm đãng tươi cười: "Em làm sao chứ, thật ra là không được nhiều lần như ông anh, em một đêm chỉ "làm" được có một lần, nhưng mà một lần, cũng là cả đêm luôn, ha ha ha..."
Hai gã dâm đãng nói tới nữ nhân liền mặt mày hớn hở, thi nhau "tự đánh trống tự thổi kèn", đến lão Thiên gia cũng nuốt không trôi. Chợt nghe trên đỉnh đầu "ken két" một tiếng, Tịch Bân theo bản năng ngửa đầu lên nhìn, không khỏi kêu lên một tiếng sợ hãi: "Mẹ ơi!"
Chỉ thấy cái "Đại Luân Hồi bàn" nặng trịch đã kéo đứt một sợi dây thép, đang lung lay dữ dội, lại "két két" hai tiếng nổi da gà, nặng nề mà rơi xuống dưới.
Tịch Bân tránh không kịp, cái "Đại Luân Hồi bàn" nặng nề đập thẳng vào trán hắn, nhất thời mặt bê bết máu rồi ngã ngửa về phía sau. Quan Ngư đi ngay phía sau hắn, cũng bị hắn đè cho ngã lăn quay ra đất, cũng may xung quanh còn có vài đồ vật lỉnh kỉnh nên không bị nó chèn lên người.
Tịch Bân đầu chảy đầy máu, bất tỉnh nhân sự, Quan Ngư vừa nhìn thấy liền hồn phi phách tán, một bên lớn tiếng kêu cứu, một bên liều mạng đẩy cái "Đại Luân Hồi bàn" "nhỏ bé" kia ra, cũng không biết tay chân luống cuống đẩy vào chỗ nào, "Đại Luân Hồi bàn" đột nhiên phát ra một chùm bạch quang chói mắt, khiến cho mi tâm hắn bị một trận đau buốt.
Chùm bạch quang chói mắt tràn ngập trường quay, chờ đến khi Quan Ngư định thần mở to mắt, chỉ thấy Tịch Bân đã ngưng thở, thân thể co quắp mềm oặt, tia sáng kì dị không hiểu từ đâu ra kia cũng đã biến mất, hắn không khỏi hét ầm lên: "Cứu mạng...!"
-------------------------------
Chú thích:
(1) Hoàn Nhan A Cốt Đả: là tên thật của Kim Thái Tổ. Kim Thái Tổ (金太祖) là một vị hoàng đế của nhà Kim trong lịch sử Trung Hoa. Ông nổi tiếng là người dũng cảm và đã tham gia nhiều cuộc chiến chống lại Bộ lạc Nữ Chân dưới sự chỉ huy của nhà Liêu. Ông là người lập nên nhà Kim. Hoàn Nha A Cốt Đả trị vì từ năm 1115-1123.
(2) Tương Như nghèo khổ khảy bài Phượng cầu hoàng mà lấy được lòng Trác Văn Quân phú quý và cưới nàng về làm vợ, sống cuộc sống nghèo khổ qua ngày.
Sau đó Hán Vũ Đế lên ngôi, Tương Như được làm Tư Mã. Thời gian Tương Như lên Trường An làm quan chừng đã 5, 6 năm, Trác Văn Quân nhiều lần gửi thư nhưng không được hồi đáp. Tư Mã Tương Như từ ngày phú quý quên tình vợ quê, muốn cưới người con gái ở Mậu Lăng làm thiếp. Tương Như bèn gửi cho Văn Quân lá thư chỉ ghi một dãy số: "一、二、三、四、五、六、七、八、� �� ��、十、百、千、萬". Trong dãy số đếm này thiếu chữ 億, chữ này còn có nghĩa là nhớ. Ý của Tư mã như thế đã rõ, ông không muốn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng nữa. Văn Quân hiểu được ý đó nên làm bài Bạch Đầu Ngâm gửi cho Tư Mã và kèm thêm phong thư Quyết Biệt.
Điều đáng nói là bài thơ của Văn Quân có thêm chữ ức (億), tức là vẫn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng xưa. Tương Như đọc xong cảm được tình nghĩa ấy nên mới thôi cưới thiếp, sau đó rước Văn Quân lên Trường An.
Tìm hiểu thêm ở đây: http://my.opera.com/ngucatu/blog/show.dml/1677045
(3) Vào năm Trinh Nguyên đời Đường có Trương Sinh là người tuấn tú, hòa nhã đến chơi chùa Phổ Cứu gặp lúc Thôi phu nhân và con gái là Thôi Oanh Oanh cùng đến xin trọ ít ngày để đi Trường An, Thôi Oanh Oanh và Trương Sinh đôi trai tài gái sắc gặp nhau và đi lại ân ái với nhau ở mái tây chùa. Ít lâu sau, Sinh đi Trường An dự thi rồi ở lại kinh và quyết tuyệt tình với Oanh Oanh, lấy cớ tài đức mình kém trong khi Oanh Oanh vẫn nhớ mong chàng, ý tình rất thắm thiết…
Tìm hiểu thêm ở đây:
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2...6%A1ng_k%C3%BD
(4) Từ Chí Ma: Từ Chí Ma 徐志摩 (Xu Chimo, 15/1/1897-19/11/1931) là bút hiệu của Chương Tự, người Hải Ninh, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Từ Chí Ma là thi nhân kiệt xuất của văn học Trung Quốc, là người đầu tiên khởi xướng lối thơ bạch thoại và mở đầu cho thơ cận đại Trung Quốc, ông dung hoà luật thơ Âu Mỹ với phong cách thơ Trung Quốc để tạo thành thể thơ trữ tình mới, ý cảnh thâm hậu, bút lực bình đạm mà sâu xa.
(5) Lý Sư Sư: Lý Sư Sư nguyên vốn là kỹ nữ ở lầu xanh của Vương Dần ở Biện Kinh…
Tìm hiểu thêm ở đây: Lý Sư Sư - Người Mê Hoặc Tống Huy Tông
http://phongthuy.worldgoo.com/forum-f18/topic-t50.htm
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...