Năm ngày trước.
Trời đêm mờ mịt không một gợn sao, ngoài mấy tiếng cú kêu thưa thớt, cả kinh thành chìm trong tĩnh lặng tuyệt đối.
Ở phía thành nam, một người đàn ông dáng vẻ thô kệch vừa ư ử hát vừa nghiêng ngã đi trên đường cái, trên tay còn cầm hờ một vò rượu nho nhỏ. Gã ta vừa cười một mình vừa đưa tay sờ sờ lên chỗ mặt được một cô nương thanh lâu lúc nãy hôn vào.
Gã mò mẫm một cánh cổng, nhận ra đây chính là nhà mình. Liền vung chân đá một cái “rầm”, cất giọng lè nhè gọi: “Vợ, vợ đâu, con bà nó, mau mau ra đây hầu hạ ông mới đi nhậu về!” Gã chờ một chút nhưng không nghe thấy tiếng trả lời, bèn mở miệng gọi thêm lần nữa.
Đáp lại gã chỉ là bóng đêm đen kịt.
Gã đã hết kiên nhẫn, liền sấn tới phía gian nhà giữa, giọng quát càng ngày càng sang sảng: “Điếc rồi à? Đồ đàn bà hư thân thối tha, thấy chồng về mà còn không biết liệu hồn đón tiếp? A, con bà nó, đồ đàn bà…”
Gã vừa định mắng tiếp, trước mặt đột ngột xẹt qua một luồng sáng. Hờ…
Thế nhưng sau đó không gian tối đen phẳng lặng như cũ, gã dụi dụi mắt xong lại cảm thấy có lẽ mình quá say nên mới nhìn ra ảo giác. Nghĩ xong, gã nghiến răng nhìn vào trong nhà, lẩm bẩm: “Sáng mai, cứ chờ sáng mai xem, ông cho cô sống không được chết không xong…”
Một giọng cười khẽ đột ngột vang lên.
Gã đàn ông giật mình, trầm giọng hỏi: “Ai? Ai đó?”
Không ai đáp lại gã, sau đó tiếng cười giòn tan lại vang lên, lúc xa lúc gần.
Lúc này gã không còn tỏ ra hung dữ, bầu rượu trên tay cũng quăng sang một góc, hai bàn tay chắp vào nhau liên tục vái bốn phía: “Thần tiên ma quỷ ở đâu, xin mau đi đi, xin mau đi đi…”
Gã vừa vái được một lúc đã cảm nhận mùi hương khói bay lại, một giọng nữ thê lương vang lên: “Đi đêm có ngày gặp ma… mi không biết sao…”
Cơn say của gã đàn ông lúc này đột ngột tan biến hết. Gã quỳ sụp xuống giữa sân, đôi mắt trợn trừng, khóe miệng không ngừng run rẩy. Gã nhìn dáo dác vào màn đêm, đôi hàm răng phát ra tiếng “lập cập”, “lập cập”.
Sau đó, gã thấy một cái bóng trắng tóc dài đang ngồi trên bờ tường nhà mình. Gã đàn ông còn không kịp nhìn kỹ, chỉ biết hô lên một tiếng, thân hình cường tráng đổ sụp xuống đất bất động.
Cái bóng trên tường thấy gã đã chết ngất thì nhẹ nhàng bay xuống, vạt áo trắng xoay bồng bềnh trong đêm. Cái bóng này, thật ra là thiếu nữ này, tên Tạ Thanh Ngọc. Tạ Thanh Ngọc bước chậm tới chỗ người đàn ông đang nằm dài trên đất, giơ chân đá đá gã hai cái rồi mới hài lòng xoay lưng ra cổng. Phía bên ngoài, một thiếu niên áo đen gầy nhom đang lẳng lặng đứng đó như một phần của bóng đêm, trên tay còn ôm một xấp vải đen. Thanh Ngọc vừa ra ngoài, cậu thiếu niên liền nhanh nhẹn phủ áo choàng đen cho cô, giọng thì thầm pha chút hào hứng: “Tiểu thư, lần này thuận lợi quá.”
Thanh Ngọc khịt mũi: “Nếu không phải vì thương cảm cho vợ tên ấy, tiểu thư của cậu làm sao chấp nhận làm ăn lỗ vốn thế này?” Lãng Tử gật gật đầu lia lịa. Thanh Ngọc nói tiếp: “Không còn sớm nữa, mau mau đến chỗ cha cậu lấy thêm đơn hàng về đây. Tiểu thư phải về nghỉ ngơi trước.” Lãng Tử “dạ” một tiếng, tung người biến mất trong màn đêm.
Thanh Ngọc cũng nhún người phi thân theo một hướng khác. Cô vừa vận lực nhảy trên mái nhà vừa khe khẽ hát một điệu nhạc không tiết tấu. Đây là thời điểm Thanh Ngọc thích nhất trong ngày: cảm giác đuổi bắt với làn gió đêm mát lạnh khiến cô mê mẩn, những lúc ấy làn da mịn màng được mơn trớn thật tuyệt.
Thanh Ngọc về đến cửa phòng, đã thấy tỳ nữ Khả Ngân mũm mĩm ngồi ngủ gà ngủ gật trước cửa. Cô “e hèm” một tiếng, Khả Ngân đã như con lật đật đứng thẳng dậy, bận rộn xoay qua xoay lại. Tới lúc trang phục ngủ của Thanh Ngọc đã chỉnh tề, Khả Ngân kia liền một cước đá cô vào chăn, quay lưng tìm kiếm cái giường nhỏ êm ái của mình…
Thanh Ngọc đã trải qua một đêm lao động vất vả, không thèm chấp cú đá kia, ngủ say như chết…
Giữa trưa, Thanh Ngọc mò mẫm bò khỏi giường, tỳ nữ Khả Ngân và tiểu đồng Lãng Tử đã nghiêm túc đứng hầu trước cửa. Thực ra không gọi là nghiêm túc lắm, vì hai người bọn họ say mê đang tán chuyện.
Khả Ngân: “Này này, cái gã bợm rượu tối qua bị nhát ma ấy. Sáng nay trong thành nam đã đồn ầm lên chuyện gã đi thanh lâu quá nhiều nên bị oán nữ trong thanh lâu đuổi theo. Haha, thật là đáng đời mà.”
Lãng Tử: “Chị không biết đâu, đứng cách xa gã một dặm đã ngửi thấy mùi rượu, mồ hôi cùng hương liệu nồng nặc trộn vào nhau. Tới lúc gã ngất xong, mẹ ơi, còn có thêm mùi “dấm đài”… Thối muốn chết!” Giọng nói mang vẻ bị đả kích sâu sắc.
Khả Ngân chặc lưỡi: “Thế mà tiểu thư cũng tiếp cận được… tiểu thư thật chuyên nghiệp nha…”
Thanh Ngọc đẩy cửa, đầu tóc bù xù, uể oải nói: “Tối qua bổn tiểu thư bị nghẹt mũi, không ngửi thấy gì hết…”
Cô chỉ chỉ mấy tán cây nở hoa trăng trắng ở xa xa, hắc xì một cái rồi mới nghẹn ngào nói: “Hay là tối nay nghỉ làm một đêm, đốn hết mấy cây hoa sữa kia đi…”
Khả Ngân cùng Lãng Tử đều trầm mặt lắc đầu, đồng thanh đáp: “Tiểu thư, không được!”
Thanh Ngọc cắn cắn ngón tay, tự trách bản thân trước đây sao lại hứa sẽ chia lợi nhuận cho hai kẻ dã man này làm gì…
Tạ Thanh Ngọc trước năm bảy tuổi mới chính là Tạ Thanh Ngọc hàng thật giá thật: đầu óc trì tệ, không nói không cười lại suốt ngày si ngốc. Tạ thượng thư mất vợ trong dịch bệnh, lúc trẻ gặp khó khăn chồng chất trên quan trường, lại thêm đau khổ trên đường con cái khiến ông trở thành người đàn ông bất hạnh nhất thế gian. Thế nhưng “đùng” một ngày, Tạ Thanh Ngọc gọi “cha”, lại còn mỉm cười với ông, khiến Tạ thượng thư cảm thấy thật ra mình vẫn còn là một người đàn ông may mắn.
Nói về việc tại sao Tạ Thanh Ngọc đột ngột không si ngốc nữa, phải nói về quá trình chết đi của một linh hồn bất hạnh ở hiện đại…
Cái linh hồn đó vốn là một thiếu nữ vừa tròn hai bốn, vào một ngày đẹp trời vì cứu một thằng nhóc qua đường không cẩn thận nên bị xe tông. Sau khi phát hiện mình đã đi đời nhà ma, linh hồn đáng thương được một luồng sáng dẫn dắt, dẫn dắt một đường về thân thể bảy tuổi của Tạ Thanh Ngọc này…
Tạ Thanh Ngọc thề, trước lúc tỉnh dậy đã nghe mấy tiếng thì thầm tựa tựa như: “Chết bà rồi, dẫn nhầm hồn…”
Cũng may, Tạ Thanh Ngọc kiếp trước là một thiếu nữ vừa hoạt bát vừa tốt bụng vừa thông minh, đã kịp thời nhận thức tình trạng hiện tại của bản thân, từ đó theo đuổi chân lý “sống vì vui, vui để sống”.
Mấy vị thái y được Tạ thượng thư mời tới đều không hiểu nguyên do tại sao một đứa bé bị đần độn lại trở nên bình thường, có khoảng thời gian còn dắt díu nhau đến phủ thượng thư xin nghiên cứu, nghiên cứu. Tạ Thanh Ngọc mấy lần toát mồ hôi hột trước ánh mắt tìm tòi của họ, khuôn mặt lại bắt đầu dại ra…
Sau đó, Tạ thượng thư bèn đuổi hết mấy thái y tò mò, ngồi trước cửa phòng con gái quệt nước mắt. Con gái ông dường như khỏi bệnh đần độn, thế nhưng chỉ khỏi được một nửa mà thôi. Con gái của ông, con gái quý như vàng của ông, huhu…
Hai năm sau, cũng vào một lần Tạ thượng thư đang lẳng lặng ngồi trong góc nhà khóc thầm, ông tình cờ trông thấy cái bóng nho nhỏ của Tạ Thanh Ngọc đang lén lén lút lút dẫn theo tỳ nữ mới thu nhận là Khả Ngân… chui lỗ chó ra ngoài. Tạ thượng thư không hiểu đầu đuôi, thế nhưng là người cha có tình thương mãnh liệt đối với con gái, ông vội vàng dẫn theo mấy người hầu chạy chạy theo ở quãng xa phía sau…
Tạ Thanh Ngọc cùng Khả Ngân hồn nhiên không hay biết mình bị theo dõi, nhảy chân sáo bước vào một quán trà yên tĩnh trong hẻm nhỏ. Chưởng quầy là một người trung niên ốm nhom, râu xồm xoàm, sau lưng lúc nào cũng kè kè một thằng bé gầy như cây tăm, đôi mắt ươn ướt đầy vẻ hoảng sợ.
Tạ thượng thư trong lòng gào thét. Con gái ông, con gái ông làm sao mà lại biết đến chỗ này???
Nếu Tạ thượng thư không phải là Tạ thượng thư mà là Trương thượng thư, Lý thượng thư đầu óc mụ mị trong lý tưởng của gia tộc, ông sẽ hết sức tức giận vì Thanh Ngọc dám lén lút giao lưu với loại người phức tạp này. Thế nhưng Tạ thượng thư của chúng ta sinh ra đã có thân hình tròn trĩnh, phúc hậu, cha mẹ chết sớm, cộng với lòng thương con mãnh liệt đã ăn sâu vào máu, nên suy nghĩ hiện ra trong đầu ông lúc đó lại là: “Ít ra con bé cũng có bạn bè, thật tốt.”
Dĩ nhiên nếu ông biết Tạ Thanh Ngọc lúc ấy gọi người trung niên ốm nhom ấy một tiếng “sư phụ”, ông sẽ không hé mắt cho qua như vậy. Thế nhưng vì cả đời sau này ông cũng không biết, thế nên chi tiết này được cho qua.
Lúc ấy Tạ thượng thư tính toán, Thanh Ngọc thường dành thời gian ngơ ngẩn một buổi sáng, đi chơi bên ngoài nửa buổi chiều, nửa buổi chiều còn lại có thể đi tản bộ trong vườn hoa với ông. Buổi tối, Thanh Ngọc ăn cùng ông xong rồi mới tiếp tục ngơ ngẩn, như vậy thời gian dành cho người cha là ông cũng đã rất nhiều rồi.
Tạ thượng thư tuy sống trong thời đại phong kiến nhưng tư tưởng khá là thông thoáng. Về vấn đề này, Thanh Ngọc cũng cảm thấy may mắn lắm thay. Có điều, dù thoáng đến đâu thì Tạ thượng thư cũng là một người cha có trách nhiệm. Vì vậy vào cái ngày Thanh Ngọc tròn mười lăm tuổi, ông cầm một cành cây mỏng manh tạm xem là cây roi, đứng ở trước phòng cô, vừa quệt nước mắt vừa nói: “Con gái ngoan, nghe lời ta, giữ danh tiết, đừng ra ngoài chơi bời nữa được không? Nếu con cứ ở ngoài đường, sau này làm sao lấy chồng đây hở con?”
Tạ Thanh Ngọc giữ nguyên tư thế mở cửa, trợn mắt nhìn cha già vừa khóc lóc vừa vung vẩy cây que mềm oặt trước mặt. Tỳ nữ Khả Ngân ở sau lưng cô khuôn mặt thay đổi đặc sắc, lão gia hôm nay lại diễn tuồng gì đây?
Tạ thượng thư khóc một trận say sưa đến non trưa mới rời đi. Thanh Ngọc hiểu là mình bị cấm cửa rồi.
Thế nhưng, vì như đã kể, Tạ thượng thư bỏ lỡ một vài diễn biến trong quá trình lớn lên của Tạ Thanh Ngọc. Do đó, ông không biết rằng một cây roi mềm oặt thật ra không ngăn cản nổi cô nàng này làm chuyện động trời.
Lại nói về người đàn ông ốm nhom ở quán trà, lúc Tạ Thanh Ngọc gặp ông ta năm tám tuổi, ông ta đang chống nạnh gào thét với đứa con trai đáng thương của mình như thế này: “Muốn làm sát thủ? Muốn nối nghiệp ta? Khinh công dốt như vậy thì đuổi giết được người sao?” Đứa con trai gầy trơ xương của ông ta uất ức nhìn lại bằng đôi mắt ngập nước, cánh môi mấp máy nói không nên lời.
Đại khái lúc ấy Tạ Thanh Ngọc muốn làm anh hùng nhỏ cứu tiểu mỹ nhân, liền mở miệng nói: “Chú gì ơi, chi bằng chú truyền dạy khinh công cho thiên tài võ học là cháu, con của chú cũng sẽ có người cùng học tập, chẳng phải vẹn cả đôi đường sao?” Người đàn ông ốm nhom sửng sốt quay sang nhìn con oắt chưa cao tới thắt lưng mình, gật gù nói: “Ừm, đúng thật là thiên tài võ học, đến đứng sát bên mà ta chẳng phát hiện ra tí nào.”
Thanh Ngọc trợn mắt, nói bừa mà cũng có kẻ cho là thật sao?
Sau đó mới biết, hai cha con kia lần lượt tên là Lãng Khách, Lãng Tử, ặc, tuy hơi sai vần nhưng rất đúng chất giang hồ. Sau đó Lãng Khách thật sự nhận Thanh Ngọc làm đệ tử, thành thật truyền dạy khinh công. Lúc Thanh Ngọc tròn sang mười lăm rồi bị cấm tự tiện ra ngoài, Lãng Tử tự đến làm tiểu đồng cho cô. Cậu bé chỉ nhỏ hơn Thanh Ngọc hai tuổi nhưng vì bị suy dinh dưỡng từ nhỏ nên vóc dáng không hề to lớn, khiến cho cha già kính yêu của cô cũng nhắm một mắt mở một mắt cho qua.
Lãng Khách tuy từng là sát thủ nhưng cũng chỉ nhận mấy vụ làm ăn nhỏ, chưa từng giết người thật sự. Trong tay ông ta có một ít vốn liếng, cộng với số tiền tiêu vặt mà Thanh Ngọc tích góp được, chưa kể cái miệng dẻo như mật ong của cô, tất cả gộp lại thành công mua được một quán trà trong hẻm nhỏ. Về chuyện Lãng Khách vì sao chịu đổi ý từ thành lập hội sát thủ sang thành lập quán trà, Thanh Ngọc cũng vô phương nhớ ra.
Lúc này, tại chính cái quán trà mà chúng ta vừa nhắc tới, quang cảnh đã thay đổi hoàn toàn so với lúc bị Tạ thượng thư bắt gặp vào chín năm trước. Quán trà hiện tại được mở rộng, xây cao ba tầng, bày trí trang nhã, độc đáo. Vị chưởng quầy ốm nhom trước kia bây giờ đã được đắp thêm không ít thịt, trang phục cũng cải thiện thành áo gấm thượng hạng sáng ngời. Riêng chỉ có khuôn mặt là trung thành với trường phái “râu xồm xoàm”, khiến không ít tâm hồn yếu ớt khi nhìn vào có chút e dè.
Tầng ba của quán trà là nơi dành cho khách lắm tiền nhất, mỗi bàn đều được ngăn cách bằng bình phong. Tại một vị trí đắt đỏ cạnh cửa sổ, một người thanh niên cao gầy chống tay lên cằm, uể oải nhìn xuống đường phố phía dưới.
Người ở bàn sau chiếc bình phong trước mặt anh ta nói: “Cái gã bợm rượu ấy hở? Haha, cũng là một trong số ít trường hợp thôi. Cứ bỏ ngân phiếu cùng thỉnh cầu, a, có cả lý do thỉnh cầu của cậu vào trong một chiếc hộp, rồi để trong U Miếu ở sau lưng quán trà này, ma quỷ nhất định đọc được.” Đáp lời anh ta là một tiếng rì rầm, đại khái: “Viết ra lý do thỉnh cầu để làm gì?” Người kia liền thần bí nói: “A, thế cậu nghe nói ma quỷ hiện hồn cũng chọn người sao? Nếu cậu là người lương thiện chưa từng hại ai, vậy thì ma quỷ cũng không phí công tới tìm rồi…”
Từ bình phong phía sau lưng người thanh niên, một giọng nói già nua có chút ngà say vang lên: “Thằng oắt con khốn kiếp, nó nghĩ mình là ai? Hừ… tưởng lên đến chức thừa tướng là giỏi lắm sao?” Một giọng trẻ hơn tỏ ý khuyên can: “Trương đại nhân, ông say rồi… tai vách mạch rừng…” Trương đại nhân kia dường như chưa hả giận, giọng cao thêm một chút: “Sợ cái khỉ gì? Hắn cũng đâu có nghe được!” Một giọng nịnh nọt vội chen vô: “A, phải rồi, chẳng phải dạo gần đây kinh thành có nhiều vụ ma quỷ hù dọa đó sao? Nếu hắn mà bị dọa một trận thì thế nào nhỉ?” Trương đại nhân lá gan to bằng trời lúc này tự tin bộc lộ quan điểm của mình: “Ma quỷ? Các vị tin là có ma quỷ thật sao? Chẳng qua là chiêu trò kiếm tiền cả thôi.” Giọng nịnh nọt theo đó mà tỏ ra kinh ngạc: “A, chuyện như vậy mà Trương đại nhân cũng biết? Nghe nói có người nhìn thấy một ma nữ cực kỳ xinh đẹp, nếu nàng ấy đến tìm Trịnh Hoài Sơn lại đến phiên hắn lời nha…”
Một tiếng cười khả ố vang lên, người thanh niên ngồi bên cửa sổ cũng đột ngột đứng dậy, vòng qua bình phong mà tiến về phía cầu thang. Vừa đi anh ta vừa lẩm bẩm: “Không phải chứ, trong triều toàn nghe họ nói nhảm, đến ngày nghỉ lỗ tai cũng không được yên.”
Một người trung niên vừa đi vệ sinh ở dưới lầu đúng lúc này bước lên, đi về hướng chiếc bình phong đang vọng ra mấy tiếng cười khả ố. Ông ta vừa ngồi xuống chỗ của mình liền nói: “Trùng hợp quá, lúc nãy hình như vừa thấy Trịnh thừa tướng đang đi xuống cầu thang…”
Những người còn lại: …
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...