9.
Lãnh sự quán đã lấy lại diện mạo thường nhật, những bó hoa trang trí biến mất, đám chân nến bằng pha lê được cất dọn và mấy cánh cửa mở vào căn phòng tiếp tân giờ đóng im lìm.
Sau khi kiểm tra giấy tờ tùy thân của họ, một anh lính mặc quân phục chỉnh tề dẫn Alice và Daldry lên tầng hai của tòa nhà được xây dựng theo phong cách tân cổ điển. Họ băng qua một hành lang dài rồi đứng đợi cho tới khi một cô thư ký tới đón đi.
Họ bước vào phòng làm việc của ngài tổng lãnh sự; ông có dáng người khắc khổ nhưng giọng nói lại niềm nở.
- Vậy là, thưa cô Pendelbury, cô là bạn của Quý Ngài.
Alice quay sang phía Daldry.
- Không phải tôi, anh thì thầm vào tai cô, lần này là muốn nói đến ngài đại sứ cơ.
- Vâng, Alice ấp úng nói với tổng lãnh sự.
- Hẳn cô phải thân thiết với họ lắm thì phu nhân đại sứ mới yêu cầu tôi cho cô một cuộc hẹn trong thời gian ngắn đến vậy. Vậy tôi có thể giúp gì cho cô đây?
Alice trình bày lời thỉnh cầu của mình, ngài tổng lãnh sự vừa nghe vừa ký tắt vào một tập hồ sơ đặt trên bàn.
- Thưa cô, cứ cho là bố mẹ cô đa xin được cấp thị thực thì họ sẽ tới tìm chính quyền Ottoman thời đó chứ không tới chỗ chúng tôi. Mặc dù trước khi Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập, lãnh sự quán của chúng ta được coi như sứ quán, nhưng tôi cũng không thấy có lý do gì mà hồ sơ của bố mẹ cô lại được xử lý tại đây. Có lẽ chỉ có bộ Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ mới lưu giữ giấy tờ mà cô muốn tìm. Và nếu có giả sử rằng loại tài liệu ấy tồn tại được qua cách mạng cũng như hai cuộc chiến tranh thì tôi cũng không chắc họ lại đồng ý tiến hành tìm kiếm loại giấy tờ chán ngắt ấy.
- Trừ khi, Daldry nói, lãnh sự quán có lời thỉnh cầu đặc biệt với những cơ quan đó, đồng thời nhấn mạnh rằng đây là yêu cầu của một người bạn rất thân với vợ ngài đại sứ Anh. Ngài sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng đôi khi mong muốn làm hài lòng một nước đồng minh đồng thời là đối tác kinh tế có thể dời cả núi. Tôi biết mình đang nói gì, bản thân tôi cũng có ông chú ruột cố vấn cho bộ trưởng Ngoại giao, mà nếu tôi không nhầm thì lãnh sự của ngài cũng trực thuộc bộ ấy. Đó là người đàn ông tuyệt vời, ông đã dành cho tôi một tình thương vô bờ bến kể từ khi anh trai ông, tức là người bố quá cố của tôi, đột ngột qua đời. Người chú mà hẳn tôi sẽ không quên kể với ông sự giúp đỡ quý báu ngài dành cho chúng tôi, đồng thời còn nhấn mạnh về hiệu quả công việc của các ngài. Tôi quên mất khi mình đang định nói gì rồi, Daldry nói, vẻ ngẫm nghĩ. Tóm lại, điều tôi muốn nói…
- Tôi nghĩ tôi đã hiểu ý định của ông, ông Daldry. Tôi sẽ liên hệ với các bên có liên quan, tôi sẽ cố gắng hết sức để họ cung cấp thông tin cho các vị. Tuy nhiên, các vị cũng đừng quá lạc quan, tôi không chắc chỉ là một lá đơn xin cấp thị thực mà lại được lưu trữ lâu đến vậy. Vậy là, cô Pendelbury, cô đã nói rằng chuyến đi giả thuyết của bố mẹ cô tới Istanbul năm 1909-1910 à?
- Chính xác thế, Alice đáp, ngượng đỏ mặt vì sự liều lĩnh của Daldry.
- Các vị hãy tận dụng những ngày còn ở đây, thành phố này tuyệt vời lắm; nếu nhận được kết quả gì, tôi sẽ nhắn tới khách sạn cho các vị, ngài tổng lãnh sự hứa hẹn trong lúc dẫn các vị khách ra cửa văn phòng.
Alice cảm ơn sự ân cần của ông.
- Tôi đoán rằng chú của ông, cũng là em trai của bố ông, cũng mang họ Daldry? ngài tổng lãnh sự vừa bắt tay vừa hỏi.
- Không hẳn thế, Daldry liều lĩnh đáp. Ngài hãy hình dung rằng vì là nghệ sĩ nên tôi đã chọn mang họ mẹ vì tôi thấy nó độc đáo hơn. Chú tôi mang họ Finch, như người cha quá cố của tôi.
Rời khỏi lãnh sự quán, Alice và Daldry quay trở lại khách sạn cùng uống tách trà mà ngài tổng lãnh sự đã không mời họ.
- Daldry có đúng là họ của mẹ anh không? Alice hỏi khi đã ngồi ở quầy bar.
- Hoàn toàn không, và cũng chẳng có ai mang họ Finch trong gia đình tôi. Ngược lại, lúc nào cô cũng có thể tìm thấy một viên chức mang họ đó ở cùng một bộ hoặc cơ quan hành chính. Đó là một cái họ vô cùng phổ biến.
- Anh đúng là chẳng biết sợ gì cả!
- Lẽ ra cô nên khen tôi mới phải, chẳng phải là chúng ta đã lèo lái được vụ việc một cách mau lẹ hơn còn gì?
* * *
Gió Tây Bắc đã nổi lên trong đêm; cơn gió thổi từ bán đảo Balkan mang theo cả những bông tuyết, cuối cùng cũng chấm dứt cái không khí dễ chịu của mùa đông năm ấy.
Khi Alice thức giấc, khắp các vỉa hè trên phố đã mang sắc trắng y như mấy tấm rèm bằng vải pecca vẫn phủ kín cửa sổ phòng cô và các mái nhà Istanbul giờ đây chẳng khác gì các mái nhà ở Luân Đôn. Cơn bão vẫn thổi mạnh cầm chân người trong nhà, người ta gần như không còn trông thấy eo Bosphore nữa. Sau khi ăn sáng ở nhà hàng của khách sạn, Alice lên phòng ngồi vào bàn làm việc, nơi đã thành thói quen, mỗi tối cô đều viết một bức thư.
Anton,
Những ngày cuối cùng của tháng Giêng. Đông đã tới và hôm nay chúng em đã được hưởn những giờ phút thư thái đầu tiên. Hôm qua em đã gặp ngài tổng lãnh sự Anh, ông ấy nhen nhóm trong em tia hy vọng về cơ may biết được liệu bố mẹ em từng đến đây hay chưa. Em phải thú thật với anh là mình vẫn không ngừng tự vấn về ý nghĩa của cuộc tìm kiếm này. Em thường hay tự hỏi liệu thực sự có phải chính những lời tiên tri của bà thầy bói, chính giấc mơ tìm ra một loại nước hoa mới đã khiến em rời xa Luân Đôn, hay chính là anh. Em đặt bút viết cho anh trong buổi sáng Istanbul này bởi vì em nhớ anh. Tại sao em giấu anh mối thiện cảm đặc biệt vẫn dành cho anh? Có lẽ bởi em sợ cho tình bạn giữa chúng ta. Từ khi bố mẹ em qua đời, anh là sợi dây duy nhất nối kết em với phần đời này. Em sẽ không khi nào quên những lá thư nhận được từ anh mỗi sáng thứ Ba suốt những ngày đằng đẵng em ẩn trốn trên đảo Wight.
Em hằng muốn anh lại tiếp tục viết cho em, muốn được đọc những dòng tin về anh, được biết những tháng ngày của anh trôi qua thế nào. Còn em, hầu như ngày nào em ở đây cũng tràn ngập niềm vui. Daldry là một đứa trẻ hư đốn nhưng lại là một quý ông thực thụ. Và rồi thành phố thì tuyệt đẹp, cuộc sống chứa đựng bao điều lý thú, còn người dân lại rất hào hiệp. Ở khu chợ lớn, em đã tìm được một thứ sẽ khiến anh thích mê, em không tiết lộ thêm đâu, xin thề lần này em sẽ giữ được bí mật. Khi nào em trở về, chúng mình sẽ cùng thả bước dọc bờ sông Thames và anh sẽ chơi cho em…
Alice nhấc bút, nhay nhay quản bút rồi gạch xóa những từ cuối cùng cho đến khi không còn đọc nổi nữa.
… chúng mình sẽ cùng thả bước trên kè sông Thames và anh sẽ kể cho em nghe những gì xảy đến với mình khi em xa Luân Đôn đến thế này.
Đừng nghĩ rằng em đi chỉ để làm khách du lịch, công việc của em vẫn tiến triển, hay nói đúng hơn là em đang nung nấu những dự định mới. Ngay khi thởi tiết thuận lợi hơn, em sẽ tới khu chợ bán các loại gia vị. Đêm qua em đã quyết định sẽ tạo ra những mùi hương mới để xức cho không gian nội thất. Đừng vội nhạo em, đó không phải ý tưởng của em, em có được nó là nhờ người thợ em đã kể với anh trong thư trước. Hôm qua, trong lúc ngủ, em lại nghĩ tới bố mẹ mình, và mỗi kỷ niệm đều gắn liền với một mùi hương. Ý em không muốn nói tới mùi nước hoa của bố hay mẹ em, mà là những thứ mùi khác. Anh hãy nhắm mắt lại rồi nhớ lại những mùi hương thời thơ ấu ấy, mùi chiếc cặp da của anh, mùi phấn trắng, thậm chí cả mùi tấm bảnh đen khi thầy giáo bắt anh đứng úp mặt vào đó, mùi sô cô la sữa mẹ pha cho anh trong bếp. Còn ở nhà em, mỗi khi mẹ em nấu ăn là lại thơm phức mùi quế, hầu như món tráng miệng nào mẹ cũng nêm thứ gia vị ấy. Trong ký ức về những mùa đông của em dội về mùi những cành củi bố em lượm được ở rừng rồi đốt trong lò sưởi; còn trong ký ức về những ngày xuân là mùi đóa hồng dại mà bố hái tặng mẹ vẫn tỏa hương trong phòng khách. Mẹ vẫn luôn nói với em: “Làm sao con có thể cảm nhận được tất cả những thứ ấy?” Bà không bao giờ hiểu được rằng em đánh dấu mỗi khoảnh khắc trong đời mình bằng mùi hương đặc biệt ấy, rằng chúng là ngôn ngữ của em, là cách em lĩnh hội thế giới quanh mình. Và em vây dồn những mùi hương của mỗi giây phút trôi qua, giống như những người khác ngất ngây khi nhìn ánh ngày đổi sắc. Em phân ra hàng chục loại nốt mùi, nốt mùi nước mưa đầm đìa trên lá rồi hòa với đám rêu trên thân cây và tan biến ngay khi mặt trời khiến ùi rừng nồng đặc thêm, nốt mùi đám cỏ khô khi hè tới, nốt nùi rơm rạ trong những kho thóc nơi chúng ta vẫn tới trốn tìm, kể cả nốt mùi thứ phân chuồng anh vẫn hay đẩy em giẫm phải… và nốt mùi đóa hoa tử đinh hương anh tặng cho em khi em tròn mười sáu.
Em có thể nhắc lại anh nghe biết bao kỷ niệm thời niên thiếu cũng như đã khi chúng mình đã lớn đồng thời gọi tên những mùi hương đã đọng lại trong tâm trí em. Anton, anh có biết rằng bàn tay anh có mùi giống như mùi hạt tiêu, một thứ mùi hòa trộn giữa mùa đông, mùi xà phòng và thuốc lá không?
Giữ gìn sức khỏe nhé Anton, em hy vọng là anh cũng nhớ em chút ít.
Tuần sau em sẽ lại viết thư cho anh.
Hôn anh.
Alice
* * *
Hôm sau bão, mưa không ngớt nên tuyết tan hết. Những ngày sau đó, Can đưa Alice và Daldry tới khám phá những công trình khác của thành phố. Họ đến thăm cung Topkapi, đền thờ Süleymaniye, lăng mộ của Soliman và Roxelane, dạo chơi hàng giờ đồng hồ trên những con phố nhộn nhịp quanh cầu Galata, lượn khắp những lối đi của khu chợ Ai Cập. Ở chợ gia vị, Alice dừng lại trước mỗi sạp hàng, ngửi thử các loại bột, các loại thuốc sắc làm từ hoa khô, các loại nước hoa đựng trong lọ thủy tinh. Daldry ngất ngây thực sự, lần đầu tiên là trước những tác phẩm gốm tuyệt đẹp của thành Iznik trong đền thờ Rüstem Pasa, rồi lần thứ hai là trước những bức tranh tường trong nhà thờ cổ Saint-Sauveur. Trong lúc dạo quanh những con hẻm ở một khu phố cổ nơi các ngôi nhà bằng gỗ chống chọi lại được nhiều trận hỏa hoạn lớn, Alice bỗng cảm thấy khó ở và muốn lánh ra xa. Cô để Daldry trèo lên tháp Génoise, ngọn tháp cô từng thăm thú lúc không có anh. Nhưng khắc đẹp nhất hẳn phải là khi Can dẫn cô vào lối đi toàn hoa và khu chợ có mái che nơi cô muốn ở lì cả ngày tại đó. Họ ăn trưa tại một trong nhiều quán rượu ngoài trời ở góc phố. Thứ Năm họ làm một vòng quanh khu Dolmanbahçe, thứ Sáu đi quanh khu Eyüp, nằm sâu trong vịnh sừng vàng. Sau khi chiêm ngưỡng làng một người bạn đồng hành của Đấng Tiên Tri, họ trèo thang lên tận khu nghĩa trang rồi thống nhất nghỉ một chút tại quán cà phê Pierre Loti. Từ ô cửa sổ trong căn nhà cũ kỹ nơi nhà văn Pierre Loti từng tới nghỉ ngơi, người ta có thể nhận thấy phía trên phiến đá của những nắm mộ từ thời Ottoman là quang cảnh chân trời hùng vĩ mà hai bờ eo Bosphore mở ra.
Buổi tối ấy, Alice thổ lộ với Daldry rằng có lẽ đã đến lúc nghĩ tới chuyện trở về Luân Đôn.
- Cô năn nỉ tôi sao?
- Anh Daldry thân mến ơi, chúng ta tới đây không đúng mùa rồi. Lẽ ra chúng ta nên đợi khi hoa lá đâm chồi nảy lộc mới thực hiện chuyến đi này. Vả lại nếu tôi muốn một ngày nào đó có thể hoàn lại cho anh mọi chi phí anh phải bỏ ra thì tốt nhất tôi nên quay lại bàn làm việc. Nhờ anh, tôi đã có một chuyến đi tuyệt vời và khi trở về trong đầu tôi tràn ngập những ý tưởng mới, nhưng giờ đến lúc tôi phải hiện thực hóa chúng.
- Không phải các loại nước hoa cô đưa chúng ta tới đây, cô biết rõ mà.
- Tôi không biết điều gì dẫn mình tới đây nữa, Daldry. Lời tiên tri của một bà thầy bói? Những cơn ác mộng của tôi? Hay những lời nài nỉ của anh và cơ hội chạy trốn khỏi cuộc đời mình mà anh tặng cho tôi? Tôi những muốn tin rằng bố mẹ mình đã từng tới Istanbul; cảm giác đi theo bước chân họ đưa tôi tới gần với họ hơn, nhưng chúng ta chẳng nhận được tin tức gì từ lãnh sự quán cả. Tôi phải lớn lên thôi, Daldry, ngay cả khi tôi đang dùng hết sức kháng cự lại điều tất yếu ấy, và anh cũng cần phải thế.
- Tôi không đồng ý đâu. Tôi công nhận là có thể chúng ta đã đánh giá quá cao hướng tìm kiếm của lãnh sự quán, nhưng hãy nghĩ đến cuộc đời mà bà thầy bói hứa hẹn với cô, tới người đàn ông đang đợi cô phía cuối con đường. Còn tôi, tôi hứa là sẽ đưa cô tới chỗ anh ta, hoặc ít nhất là đến với mắc xích thứ hai trong chuỗi. Tôi là người trọng danh dự và tôi luôn giữ lời hứa. Không có chuyện đầu hàng hoàn cảnh đâu. Chúng ta hoàn toàn không lãng phí thời gian, ngược lại là khác. Cô đã được những ý tưởng mới và nhiều ý tưởng khác sẽ còn đến với cô, tôi chắc chắn thế. Và rồi, sớm hay muộn cuối cùng ta cũng sẽ gặp được người đàn ông thứ hai, anh ta sẽ dẫn ta đến với người thứ ba và cứ thế…
- Daldry, chúng ta nên thực tế, tôi không yêu cầu anh trở về ngay ngày mai, nhưng ít nhất cũng nên bắt đầu nghĩ tới chuyện đó.
- Tôi đã nghĩ cả rồi, nhưng vì cô yêu cầu nên tôi lại sẽ nghĩ nữa.
Cuộc đối thoại giữa họ chấm dứt khi Can tới nơi. Đã đến lúc quay lại khách sạn, trong tối ấy anh chàng hướng dẫn viên sẽ dẫn họ tới nhà hát xem múa ba lê.
Rồi ngày qua ngày, hết nhà thờ Công giáo đến nhà thờ Do Thái, hết nhà thờ Do Thái đến đền thờ, hết nghĩa trang cổ im lìm đến những con hẻm nhộn nhịp, hết phòng trà đến nhà hàng nơi họ dùng bữa mỗi tối, và nơi lần lượt từng người chia sẻ từng chút câu chuyện đời mình, tiết lộ đôi điều về quá khứ, Daldry và Can đã giảng hòa với nhau. Giữa họ giờ là sự thông đồng, xung quanh cái dự án ma mãnh mà người này là tác giả còn người kia từ giờ là tòng phạm.
Thứ Hai sau đó, người gác cổng khách sạn gọi hỏi Alice khi cô vừa trở về sau một ngày bận rộn. Gần trưa một sĩ quan liên lạc của lãnh sự quán đã mang tới cho cô bức điện báo.
Cô chộp lấy bức điện báo rồi nhìn Daldry đang sốt ruột.
- Nào, cô mở ra đi, anh nài,
- Không phải ở đây, chúng ta tới quầy bar đi.
Họ ngồi vào một chỗ tận cuối phòng rồi Daldry ra hiệu xua người hầu bàn đang tiến lại nghe họ gọi đó.
- Thế nào? anh nói, lòng nóng như lửa đốt.
Alice mở niêm phong bức điện, đọc vài dòng chữ trong đó rồi đặt tờ giấy xuống mặt bàn.
Daldry hết nhìn cô hàng xóm lại đến nhìn bức điện.
- Nếu tôi đọc nội dung bức điện mà không được cô cho phép thì thật khiếm nhã, nhưng nếu cô bắt tôi đợi thêm một giây nữa thì thật độc ác.
- Mấy giờ rồi? Alice hỏi.
- Năm giờ, Daldry bực tức đáp, sao nào?
- Vì ngài tổng lãnh sự sắp tới đây.
- Ngài tổng lãnh sự tới đây?
- Ông ấy nói thế trong bức điện, có lẽ ông ấy có thông tin cần cho tôi biết.
- Vậy thì, trong trường hợp này, Daldry nói, vì ông ấy hẹn cô nên tôi chỉ còn cách để cô lại đây.
Daldry làm ra vẻ sắp đứng dậy nhưng Alice đặt tay lên cánh tay anh mời anh ngồi lại; và cô không cần phải cố nài.
Ngài tổng lãnh sự đã ở sảnh khách sạn, ông trông thấy Alice nên đi tới chỗ cô.
- Cô nhận được điện của tôi vừa kịp lúc nhỉ, ông vừa cởi áo khoác vừa nói.
Ông đưa áo cùng mũ cho người hầu bàn rồi ngồi xuống một chiếc ghế bành kê giữa chỗ cô Alice và Daldry.
- Ngài uống chút gì nhé, Daldry hỏi.
Tổng lãnh sự nhìn đồng hồ đeo tay rồi vui lòng yêu cầu một ly bourbon.
- Nửa tiếng nữa tôi có cuộc hẹn ở ngay gần đây. Lãnh sự quán chẳng xa xôi gì và vì tôi có tin mới cho cô nên tôi tự nhủ sẽ đơn giản hơn nếu đích thân tới đây báo với cô.
- Tôi rất biết ơn, thưa ngài, Alice nói.
- Đúng như tôi đã nghĩ, tôi chẳng nhận được bất cứ thông tin nào từ những người bạn Thổ Nhĩ Kỳ của chúng ta. Các vị đừng nghĩ rằng họ không có thiện ý muốn giúp, hôm kia một người quen làm việc tại Sublime Potte, tương đương với bộ Ngoại giao của nước ta, gọi cho tôi khẳng định là đã tìm đủ mọi cách có thể, nhưng một lá đơn xin được vào lãnh thổ từ thời Đế quốc Ottoman… Thậm chí anh ta còn ngờ rằng một thứ giấy tờ như thế chưa bao giờ được lưu trữ nữa.
- Vậy là rơi vào ngõ cụt, Daldry kết luận.
- Không hẳn là như vậy, tổng lãnh sự đáp. Tôi đã tình cờ yêu cầu một trong những nhân viên của bộ phận tình báo để ý đến vụ việc của cô. Đó là một trợ tá trẻ tuổi nhưng làm việc hiệu quả hiếm thấy, và anh ta đã vừa chứng minh điều đó. Anh ta cho rằng nếu may mắn, dĩ nhiên là với chúng ta thôi, bố hoặc mẹ cô đã để lạc mất hộ chiếu trong quãn thời gian lưu lại đây hoặc cũng có thể bị trộm. Hiện nay Istabul chẳng phải là một chón náu mình an toàn nhưng hồi đầu thế kỷ thành phố còn lộn xộn hơn nhiều. Tóm lại, nếu chuyện đó xảy ra, đương nhiên là bố mẹ cô phải báo cáo với đại sứ quán sở tại, mà trước cách mạng thì nó nằm tại chính trụ sở của lãnh sự quán ngày nay.
- Thế họ có bị mất hộ chiếu không? Daldry hỏi, nóng lòng hơn bao giờ hết.
- Cũng không, ngài tổng lãnh sự vừa nói vừa lắc lắc ly rượu làm mấy viên đá khẽ kêu leng keng. Bù lại, trong thời gian ở đây họ đã tới lãnh sự quán và thế mới nên chuyện! Không hẳn bố mẹ cô tới Istanbul trong khoảng năm 1909, 1910 như cô giả định, mà họ ở đây từ cuối năm 1913. Khi ấy bố cô theo học dược lý và vừa hoàn thành nghiên cứu về loại cây thuốc có ở châu Á. Bố mẹ cô may mắn được ở trong một căn hộ thuộc khu Beyoğlu. Không xa đây lắm.
- Làm thế nào ngài biết được tất cả những điều ấy? Daldry chen ngang.
- Tôi không cần phải nhắc lại với các vị thế giới này bất ổn thế nào vào năm 1914, cũng như quyết định tai hại của Đế quốc Ottoman đưa ra tháng Mười một cùng năm đó, họ muốn gia nhập phe liên minh Trung tâm, tức là gồm cả Đức. Vì đều mang quốc tịch Anh, bố mẹ cô tự khắc nằm trong hàng ngũ mà Đế quốc khi đó coi là kẻ thù của mình. Thấy trước được những nguy cơ mà hai vợ chồng có thể gặp phải, bố cô nghĩ tới chuyện ra trình diện đại sứ quán nước mình tại Istanbul, đồng thời cũng nuôi hy vọng được hồi hương. Vậy đấy, đi du lịch vào thời chiến rõ ràng là lắm nguy hiểm. Họ còn phải kiên nhẫn đợi một thời gian dài rồi mới được trở lại Anh. Nhưng cũng chính điều này giúp chúng ta lần ra dấu vết họ, họ nằm dưới sự bảo vệ của đại sứ quán để có thể tới lãnh sự quán tại trụ sở sứ quán bất cứ lúc nào nếu như tình hình thực sự nguy hiểm. Các vị biết đấy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì sứ quán vẫn là phần lãnh thổ bất khả xâm phạm.
Trong lúc nghe ngài tổng lãnh sự nói, Alice tái xanh, mặt cô nhợt nhạt tới mức rốt cuộc cũng khiến Daldry phải lo lắng.
- Cô không sao chứ? anh vừa hỏi vừa nắm lấy tay cô.
- Cô cần tôi cho gọi bác sĩ không? ngài tổng làm quá thêm.
- Không, tôi không sao, Alice ấp úng, ngài làm ơn nói tiếp đi.
- Mùa xuân năm 1916, sứ quán Anh đã sắp xếp cho họ khoảng một trăm kiều dân hồi hương bằng cách bí mật đưa họ lên một con tàu chở hàng mang cờ hiệu Tây Ban Nha. Nước này khi đó trung lập, con tàu vượt qua được eo Dardanelles và tới Gibraltar mà không gặp trở ngại gì. Từ đây, chúng tôi mất dấu bố mẹ cô, nhưng sự hiện diện của cô chứng tỏ rằng họ đã trở về được đất mẹ, an toàn tuyệt đối. Vậy đấy, thưa cô, kể từ sau đó thì cô biết rõ hơn tôi…
- Có chuyện gì thế Alice, Daldry hỏi, sao cô có vẻ hoảng hốt vậy?
- Không thể thế được, Alice lắp bắp.
Hai bàn tay cô bắt đầu run lên.
- Thưa cô, ngài tổng lãnh sự tiếp tục với giọng dường như đã nổi nóng, tôi mong cô hãy tin vào độ chính xác của những thông tin tôi vừa tiết lộ…
- Khi ấy tôi đã ra đời rồi, Alice nói, dĩ nhiên tôi phải ở cùng họ.
Ngài tổng lãnh sự nhìn Alice, vẻ đầy thận trọng.
- Nếu cô đã nói vậy thì đúng rồi nhưng chuyện này khiến tôi ngạc nhiên quá, chúng tôi không thấy có thông tin nào về cô trong sổ sách cũng như các báo cáo mà chúng tôi tham khảo. Có thể bố cô không khai báo về cô với sứ quán.
- Bố cô ấy tới sứ quán để mình và vợ được bảo vệ mà lại quên không khai báo về sự hiện diện của cô con gái duy nhất ư? Điều ấy còn khiến tôi ngạc nhiên hơn, Daldry chen ngang. Thưa ngài lãnh sự, ngài có chắc chắn là trẻ em cũng được ghi vào sổ sách của các ngài không?
- Thế ông coi chúng tôi là loại gì vậy, ông Daldry? Chúng ta là một đất nước văn minh. Dĩ nhiên là trẻ em được ghi tên cùng bố mẹ chúng.
- Vậy thì, Daldry vừa nói vừa quay sang Alice, có thể bố cô đã cố tình bỏ sót không khai báo cô vì sợ người ta cho rằng với một đứa trẻ còn nhỏ như thế thì một chuyến hồi hương là quá mạo hiểm.
- Chắc chắn không phải thế, ngài tổng lãnh sự phản đối kịch liệt. Phụ nữ và trẻ em trước tiên! Tôi có bằng chứng cho thấy rằng trong số những gia đình chuyển lên tàu chở hàng Tây Ban Nha ấy có cả trẻ em và chúng được ưu tiên.
- Vậy thì trong trường hợp ấy, chúng ta không nên lãng phí thời gian bằng cách lo lắng về những nguyên do hẳn nhiên là không đáng. Ngài tổng lãnh sự, tôi không biết cảm ơn ngài thế nào, những thông tin ngài vừa cung cấp vượt xa điều chúng tôi trông đợi…
- Và tôi không hề nhớ gì sao? Alice thì thầm cắt ngang lời Daldry, không một kỷ niệm nào sao?
- Tôi không muốn tò mò và lại càng không muốn khiếm nhã, nhưng khi ấy cô bao nhiêu tuổi, thưa cô Pendelbury?
- Tôi tròn buốn tuổi ngày 25 tháng Ba năm 1975.
- Vậy là năm tuổi vào đầu xuân 1916. Tôi có dành bao tình cảm cho bố mẹ mình cũng vô ích mà thôi, tôi sẽ biết ơn họ suốt đời vì họ đã dạy dỗ và yêu thương tôi nhưng tôi sẽ chẳng nhớ nổi bất cứ điều gì về thời mình còn nhỏ như cô, tổng lãnh sự nói rồi vỗ nhẹ tay Alice. Vậy thôi, tôi hy vọng đã hoàn thành nhiệm vụ và thỏa mãn yêu cầu của cô. Nếu tôi còn có thể giúp cô bất cứ việc gì thì đừng ngần ngại tới chỗ tôi, cô biết lãnh sự quán chúng ta nằm ở đâu rồi đấy. Giờ tôi phải tạm biệt các vị thôi, tôi trễ hẹn mất.
- Ngài nhớ địa chỉ của họ không?
- Tôi đoán chắc các vị sẽ hỏi câu đó nên đã ghi vào một mẩu giấy. Đợi chút, ngài tổng lãnh sự vừa nói vừa lục tìm trong áo vest, đây rồi… Chỗ họ từng sống rất gần đây, trên phố cổ Péra rộng lớn, giờ được đổi thành Isklital, chính xác hơn là tại tầng ba cư xá Roumélie, ngay cạnh con đường toàn hoa nổi tiếng.
Ngài tổng lãnh sự hôn tay Alice rồi đứng lên.
- Làm ơn, ông nói với Daldry, đưa tôi ra cửa khách sạn được không, tôi có điều này muốn nói với ông, không có gì quan trọng đâu.
Daldry đứng dậy bước theo ngài tổng lãnh sự đang mặc lại áo măng tô. Họ băng qua đại sảnh, ngài tổng lãnh sự dừng bước trước quầy lễ tân rồi hướng sang Daldry.
- Trong thời gian tìm kiếm thông tin cho cô bạn ông, vì tò mò nên tôi cũng đã tìm luôn người mang họ Finch nào đó làm việc ở bộ Ngoại giao.
- Thế sao?
- Đúng vậy… và nhân viên duy nhất mang họ Finch là một thực tập sinh ở bộ phận thư tín, dù thế nào thì anh ta cũng không thể là bác ông được, phải vậy không?
- Quả thực tôi cũng không nghĩ vậy, Daldry vừa nói vừa săm soi mũi giày.
- Tôi cũng thấy thế. Chúc ông có quãng thời gian lưu lại Istanbul thật dễ chịu, ông Finch-Daldry, ngài tổng lãnh sự nói rồi bước vào vòng quay của cánh cửa.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...