Chiêu Hồn

Đó là một ngày tràn ngập ánh mặt trời hiếm hoi, tuyết trên mái hiên và ngói đã bị nắng làm tan đi nhiều, nước tuyết nhỏ giọt dọc theo mái hiên và hành lang, thong thả nghe tiếng mưa rơi.
 
Từ Hạc Tuyết ngồi bên cửa sổ, hắn chống một tay lên đầu gối, yên lặng nhìn sổ sách trên bàn, trước khi đưa quyển sổ riêng này của Đỗ Tông cho Tưởng Tiên Minh, hắn phải sao chép một bản.
 
Trên đó có giao dịch tiền bạc của mười lăm năm qua, vài người giấu tên trong đó đã thêm vài dòng rõ ràng.
Bản chuyển ngữ bạn đang đọc thuộc về Luvevaland. Nếu bạn đọc ở trang khác chứng tỏ đó là trang không có sự đồng ý của LuvEva land fanpage. Mong bạn hãy đọc ở trang chính chủ để đọc được bản đầy đủ nhất cũng như ủng hộ nhóm dịch có động lực hoàn nhiều bộ hơn nhé.
 
Nước trà trên bếp lò sôi trào phát ra tiếng “vù vù”, ngón tay Từ Hạc Tuyết lạnh lẽo, đủ để tiêu tan nhiệt độ trên bình gốm, mặt hắn không có biểu cảm gì, chỉ rót đầy một tách trà, nhấp một ngụm.
 
Vẫn không có vị gì.
 
Hắn chỉ có thể ngửi thấy mùi thơm nhẹ bằng khứu giác vẫn chưa biến mất.
 
Hắn ngước mắt lên, tấm màn tua rua che khuất bóng nữ tử đang ngủ yên bình trên giường, thật ra nàng có thói quen dậy rất sớm, nhưng hôm nay lại là một ngoại lệ.
 
Chỉ vì tối qua lúc ra khỏi phủ Thái úy, nàng tạm thời nảy ra ý kéo hắn đến phủ của Tưởng Tiên Minh dò thám tình hình, nhưng cũng chính vì thế mà nàng bị nhiễm phong hàn. 
 
Tưởng Tiên Minh là một quan thanh liêm có tiếng, nhà cửa cũng bần hàn cũ kỹ, thậm chí còn không thoải mái rộng rãi bằng phủ đệ của một vị quan ngũ phẩm như Đỗ Tông.
 
“Ta nghĩ kỹ rồi, hay là chúng ta cùng đi đi.”
 
Bản chuyển ngữ bạn đang đọc thuộc về Luvevaland. Nếu bạn đọc ở trang khác chứng tỏ đó là trang không có sự đồng ý của LuvEva land fanpage. Mong bạn hãy đọc ở trang chính chủ để đọc được bản đầy đủ nhất cũng như ủng hộ nhóm dịch có động lực hoàn nhiều bộ hơn nhé.
Nghê Tố còn lo đoạn khoảng cách này sẽ cản trở hắn, nàng chỉ vào đường viền phía trên mái hiên của thư phòng: “Ta có thể đợi huynh ở đó.”
 
Từ Hạc Tuyết gật đầu, một tay ôm eo nàng, giẫm lên ngọn cây nhảy lên, nhẹ nhàng đáp xuống mái nhà đối diện.
 
Mãi đến nửa đêm, Tưởng Tiên Minh vẫn cúi đầu ngồi ở bàn làm việc trong thư phòng, Từ Hạc Tuyết liếc nhìn những viên gạch màu xanh lam dưới chân, hắn đỡ Nghê Tố để nàng đứng yên, rồi mới cúi người nhấc nhẹ một viên ngói xanh ra.
 
Trong thư phòng, Tưởng Tiên Minh vẫn nói chuyện với lão quản gia đã theo y nhiều năm. 
 
“Đại nhân, chỗ sổ sách này cũng chẳng biết là ai ném cho ngài, đây rõ ràng là một củ khoai lang nóng bỏng tay mà, hôm đó còn suýt chút nữa bị người ta chặn trong phố giải trí…” Lão quản gia tận tình khuyên bảo: “Theo lão nô thấy, bọn họ biết quan gia chỉ nghe ngài khuyên nhủ nên mới ném mấy cái chuyện mè hỏng thóc thối* này cho ngài, bây giờ Đỗ đại nhân còn không biết còn sống hay đã chết, ngài điều tra quyển sổ cũ này thì có ý nghĩa gì chứ?”
 
*Chỉ những chuyện cũ rích cũ mèm, từ tận đời nảo đời nao.
 
“Chuyện hôm đó ở phố giải trí nào có phải là nhắm đến ta, rõ ràng là có người bất mãn với Miêu Thái úy thượng tấu chủ chiến, cố ý ngáng đường ông ấy.”
 
Tưởng Tiên Minh cười khẩy: “Tuy trước giờ ta và cái ông võ phu Miêu Thái úy thô lỗ đó không hợp nhau, nhưng ông ấy thượng tấu quả thực không hề sai, Đại Tề chúng ta cũng đâu thể cho người Hồ tiền để sống sót được, cho dù chúng ta muốn, người Hồ lòng tham không đáy, từng này sao có thể làm chúng hài lòng?”
 
“Mà Đỗ Tông này, ông ta mất tích thì không thể xem sổ sách cũ của ông ta hả? Mười lăm năm, bên dưới có mười mấy quan viên không màng mưa gió đến đưa tiền cho ông ta. Còn ông ta thì sao, lại đi thượng tấu mười mấy người không biết tên đưa tiền đó, số tiền này không cần nghĩ nhiều, chắc chắn là mồ hôi nước mắt của dân! Đã là mồ hôi nước mắt của dân, sao ta có thể dễ dàng bỏ qua lũ sâu mọt đó được?”
 
Tưởng Tiên Minh nhìn sổ sách trên bàn dài: “Hiện giờ chính sách mới do Mạnh tướng công phát triển cũng chỉ đưa ra được chính sách [tăng bổng lộc để giữ liêm khiết], nhưng ta thấy tăng bổng lộc này hoàn toàn không có tác dụng để giữ liêm khiết, chỉ càng khiến lòng tham của con người càng sâu đậm hơn thôi, kết cục người khổ vẫn là dân chúng.”
 
“Theo ý của ngài, lần này Mạnh tướng công… sợ rồi?” Lão quản gia không phải chỉ biết quản lý chuyện vặt vãnh trong nhà, năm đó ông ấy cũng theo Tưởng Tiên Minh đến Ung Châu Tri Châu nhậm chức, hiểu biết nhiều hơn, tất nhiên cũng có thể nói vài câu về những chuyện này: “Mười bốn mười lăm năm rồi, chẳng lẽ Mạnh tướng công ở huyện Văn lâu nên không dám thể hiện lòng hăng hái của năm đó nữa? Nhưng nói đến chuyện năm đó, Mạnh tướng công tốt xấu gì cũng là bị giáng chức đến huyện Văn, là người thê thảm nhất, còn cả Trương tướng công, kiếp người lưu đày mười mấy năm… nghe nói trên người còn xăm cả chữ lưu đày, thê tử và nhi tử đã chết trên đường lưu đày, bây giờ quay về cũng chỉ có một mình ông ấy.”
 

Bàn tay cầm viên gạch xanh của Từ Hạc Tuyết run lên.
 
Những ngày trở về dương thế, hắn chưa từng nghe thấy chuyện liên quan đến Mạnh Vân Hiến và thầy Trương Kính, hắn biết sau khi hắn chết, thầy từ văn thần Đại Tề có chức vị cao nhất bị giáng xuống tình cảnh như rơi xuống đáy vực, lưu lạc đến mức phải lên đường lưu đày.
 
Xăm chữ, đeo xích, trở thành tội thần, bị vùi dập nhiều năm, mất vợ mất con.
 
Những chuyện này, hắn đều biết hết.
 
Nhưng nghe mỗi câu phát ra từ miệng y, trong lòng hắn luôn có cảm giác bị nỗi đau đớn dày vò. 
 
“Trương tướng công chịu tội lưu đày này, không chỉ vì thất bại của chính sách mới năm đó, mà còn vì ông ta là…” Dù đang ở trong nhà của mình, đối mặt với người hầu già trung thành nhất của mình, Tưởng Tiên Minh cũng rất khó nói ra một ẩn tình khác khiến Trương Kính bị lưu đày, kỳ thực là vì quan gia giận cá chém thớt.
 
Trương Kính là thầy của Từ Hạc Tuyết.
 
Vừa hay Thái sư Ngô Đại đã dâng lên quan gia một bộ [Tân Lịch Thi Tập] do một số tài tử nổi danh trong dân gian sưu tầm và biên soạn, trong tổng cộng ba mươi mốt bài thơ nổi tiếng sưu tầm được, có hai bài thơ của Trương Kính và học trò của ông ta là Từ Hạc Tuyết đối đáp với nhau bất ngờ được liệt vào.
 
Năm đầu tiên Từ Hạc Tuyết đạt cấp tiến sĩ, Trương Kính đã dùng tên tuổi của mình, viết một bài thơ tên là [Tử Dạ].
 
[Băng Hồn Tuyết Phách] là lời nhắn nhủ của Trương Kính dành cho Từ Hạc Tuyết.
 
Từng câu chữ trong bài thơ đều chứa đựng niềm hy vọng tha thiết và sự tán thưởng vô bờ bến của người thầy đối với học trò mà mình yêu quý, trên thực tế Trương Kính người này chưa bao giờ khen ngợi học trò của mình một cách công khai như vậy.
 
Bài thơ đó đã được Trương Kính viết ngay lập tức khi nghe tin Từ Hạc Tuyết thi đậu, đáng lẽ không ai biết về điều đó, nhưng một học trò khác của ông ta là Hạ Đồng trong lúc thu dọn sắp xếp các bài thơ của ông ta để khắc bản đã cho cả bài thơ đó vào, bởi vậy mà bài thơ mới được truyền bá trên khắp phố phường.
 
Những bài thơ của ông ta đã được lan truyền trong một thời gian.
 
Từ Hạc Tuyết cũng viết một bài [Trúc Tâm] để đáp lại lời khen của thầy, nguyện lấy trúc làm tâm, thử sự mềm dẻo của nó, hiểu biết đi cùng thực hành, đền đáp thầy và bạn, đền đáp quốc gia.
 
Song, ai ngờ màn đối đáp bằng thơ nổi tiếng của thầy và trò, năm năm sau lại trở thành mấu chốt khiến Trương Kính bị lưu đày.
 
Sao có thể dùng [Băng Hồn Tuyết Phách] để hình dung một tội thần phản quốc, phải chịu lăng trì mà chết? Quan gia nổi giận, hạ sắc lệnh tiêu hủy cuốn [Tân Lịch Thi Tập], còn nghiêm lệnh nếu ai còn biên soạn khắc bản hai bài thơ này sẽ bị đánh ba mươi gậy.
 
Đây chính là [Tân lịch thi án] trứ danh.
 
Sau [Tân lịch thi án], Trương Kính không còn là Tể phụ của Đại Tề nữa.
 
Tưởng Tiên Minh thở dài một tiếng: “Mạnh tướng công là người như thế nào, ta cũng không nhìn thấu được, ông ta giấu quá kín. Còn vị Trương tướng công vì nước vì dân kia, cho dù chịu tội lưu đày bằng đường bộ nhưng cũng vẫn khiến văn nhân khắp thiên hạ ngưỡng mộ, thật ra lúc đầu khi ông ta về kinh nói ra câu đó cũng không phải có ý làm khó, chỉ là nếu ta không hỏi rõ ràng, nếu không để ông ta cắt đứt chuyện cũ trước mặt mọi người, chỉ e là trong lòng quan gia sẽ còn suy nghĩ nhiều. Ông ta quay về cũng không dễ dàng, tất nhiên sẽ không tự gây ra một vụ [Tân lịch thi án] nào nữa.”
 
“Tháng trước ta vào cung để tìm đọc [Bách Quan Lịch Niên Chính Tích Khảo] nhưng không được, về sau mới biết là bị người ở Chính sự đường lấy đi rồi, có vẻ như là Trương tướng công cần, ta thấy Trương tướng công có lòng sửa đổi lại trị*.”
 
*Lại trị chỉ tác phong và uy tín của quan thời xưa.
 
Một tay Tưởng Tiên Minh vuốt cái cằm đã trọc lốc: “Nếu đúng là như vậy, ta kiểm tra sổ cũ của Đỗ Tông, cũng coi như mượn gió đông phủ.”

 
Từ Hạc Tuyết ở trên mái hiên nghe thấy Tưởng Tiên Minh nói, hắn lập tức phản ứng nhận mong muốn của người này là gì, hắn lập tức quay đầu, hạ thấp giọng nói với Nghê Tố bên cạnh: “Muội ở đây chờ ta, nếu thấy sợ thì ngồi xổm xuống, đừng có nhìn xuống dưới.”
 
Nghê Tố còn chưa phản ứng kịp đã thấy hắn cầm đèn đứng dậy, sau đó bóng người hóa thành một làn sương dài tản mác khắp trong sân.
 
“Ai?”
 
Lão quản gia nghe tiếng động, bất chợt ngước mắt lên, lại bất ngờ nhìn thấy một bóng đen phản chiếu trên màn cửa sổ, ông ấy lập tức bị dọa giật mình, lập tức muốn lao ra bên ngoài phòng.
 
Nào ngờ cánh cửa vừa bị hắn mở ra đã nghe thấy một loạt tiếng xoạt xoạt, chuôi kiếm lập tức đâm vào đầu gối của lão quản gia, lão quản gia lảo đảo lùi lại ngã xuống đất, cánh cửa mới mở được một nửa bị đóng “ầm” một tiếng từ bên ngoài.
 
Tưởng Tiên Minh lập tức đứng dậy, y đi tới đỡ lão quản gia đứng dậy, y nhìn chằm chằm bóng người phản chiếu trên màn cửa sổ, trầm giọng nói: “Ngươi là kẻ nào?!”
 
“Ta đã đem sổ sách giao cho Ngự sử đại nhân, tất nhiên cũng muốn nghe thử xem thử rốt cuộc ngài điều tra được cái gì.”
 
Từ Hạc Tuyết cầm cây đèn trong tay, nghiêng người đứng bên cửa sổ.
 
“Là ngươi?”
 
Trên mặt Tưởng Tiên Minh lộ ra vẻ kinh ngạc.
 
Bấy giờ lão quản gia mới bừng tỉnh, người này chính là người thần bí không thấy bóng dáng dùng sổ sách đập lên đầu đại nhân nhà ông ấy.
 
“Tưởng Ngự sử đã biết hai người Trương Mạnh tướng công mới về kinh không lâu, việc thi hành chính sách mới gặp cản trở khắp nơi, lúc này ngài muốn mượn gió đông phủ, liệu có quá ngây thơ không?”
 
Từ Hạc Tuyết đè thấp giọng hơn một chút.
 
Tưởng Tiên Minh ngừng lại một chút, tất nhiên y cũng nghĩ đến mức độ nặng nhẹ trong đó, nhưng y nhìn cái bóng đó, lạnh lùng nói: “Các hạ cảm thấy đã đưa sổ sách cho nhầm người ư?”
 
“Ta chỉ cảm thấy Tưởng Ngự sử chắc là có cách tốt hơn.”
 
“Thí dụ như?”
 
“Trên sổ sách của Đỗ Tông có ghi chép lại có một pho tượng bạch mã đạp phi yến, bào thai ngọc trắng, thân dài năm xích, nếu ta nhớ không nhầm, vật này là báu vật của cổ quốc Tây Vực, mất tích trên đường đến dâng tặng vào năm Chính Nguyên thứ nhất.”
 
Người kia vừa dứt lời, gần như trong nháy mắt Tưởng Tiên Minh lập tức có chút ấn tượng, y xoay người lập tức lật vài trang sổ sách kế toán, quả nhiên tìm được thứ này trong đó, y lập tức ngẩng đầu lên: “Các hạ rốt cuộc là ai?”
 
Từ Hạc Tuyết không trả lời y mà chỉ nói: “Rõ ràng vật đó chính là gió đông, Tưởng Ngự sử việc gì phải bỏ gần tìm xa.”
 
Thật ra Tưởng Tiên Minh không có nhiều ấn tượng với những thứ vàng ngọc này, bởi vậy y cũng không biết ngựa giẫm lên chim én bay trong sổ sách có nguồn gốc từ đâu, quý giá đến mức nào, sau khi được người này nhắc nhở, y quả thực là đã hiểu ra. 
 

“Ngày đó ở phố giải trí, Tưởng Ngự sử đã đi gặp ai?”
 
Đột nhiên Tưởng Tiên Minh lại nghe thấy câu hỏi của người ngoài cửa, y lập tức cảnh giác: “Làm sao ngươi biết được? Ngươi vẫn luôn theo dõi ta?”
 
Người ngoài cửa sổ không trả lời.
 
Tưởng Tiên Minh đợi một lúc, nhưng lại chỉ nghe thấy tiếng cười lạnh rất nhẹ.
 
“Chẳng lẽ.”
 
Trong lòng Tưởng Tiên Minh tràn ngập suy nghĩ, trên mặt y để lộ vẻ ngạc nhiên: “Vậy ngày đó người ở trong phố giải trí nhận ra người Hồ đó chính là ngươi?”
 
Thật ra Từ Hạc Tuyết chưa từng tận mắt nhìn thấy Tưởng Tiên Minh trong phố giải trí, nhưng lúc này hắn lại rất bình tĩnh dẫn dắt suy nghĩ của Tưởng Tiên Minh đến đây, dụ dỗ y nói rõ đầu đuôi: “Người đợi Miêu Thái úy mắc bẫy ở phố giải trí đó cũng chưa chắc đã nhận ra ngài, Tưởng Ngự sử cũng không cần việc gì cũng phải tự mình làm.”
 
Tưởng Tiên Minh nửa tin nửa ngờ, y hỏi ngược lại để thăm dò: “Trước khi các hạ đưa quyển sổ sách này cho ta, có phải đã xem qua trước?” 
 
“Sổ sách mười lăm năm, tổng cộng năm nghìn ba trăm sáu mươi vạn quan tiền.”
 
Từ Hạc Tuyết bình tĩnh nói.
 
Tưởng Tiên Minh yên lặng, những con số này đều chính xác, nên người đưa sổ sách này cho y đêm đó thật sự là người này? Y cân nhắc một lúc rồi nói: “Cho dù ngươi đã xem qua, có lẽ ngươi cũng biết về tiền trang Mãn Dụ. Hôm đó ta cũng không hề cố ý đi đến phố giải trí tìm người, mà là trên đường đến tiền trang Mãn Dụ đúng lúc gặp đường chưởng quỹ đó đi về phía phố giải trí, ta muốn biết ông ta đi gặp ai nên cũng không nghĩ nhiều mới lặng lẽ đi theo.”
 
Chưởng quỹ của tiền trang Mãn Dụ thường không ở trong kinh, người làm ở lại trong kinh cũng ít người biết nội tình, Tưởng Tiên Minh vốn muốn đi thăm dò ý tứ của chưởng quỹ mới về kinh đó.
 
“Vụ án này còn chưa rõ ràng, không thể công khai đến tiền trang rút dây động rừng, nhưng sau khi được các hạ nhắc nhở, bây giờ ta chỉ cần điều tra ra bạch mã đạp phi yến là ở đâu, ít nhất có thể biết được một trong những người bên trên Đỗ Tông có người này, muốn biết thêm về những người khác chắc hẳn cũng không còn quá khó.”
 
Tiền bạc của Đỗ Tông lưu chuyển đều ở tiền trang Mãn Du, nhưng vật quý giá như pho tượng bạch mã đạp phi yến, chắc hẳn người trong tiền trang cũng chưa từng được tiếp xúc, bởi vậy cũng không sợ sẽ kinh động đến bọn họ.
 
Tưởng Tiên Minh có quyền tấu lên trên vì nghe thấy tin đồn phong thanh mà không cần phải có bằng chứng xác thực, xem ra bây giờ có thể phát huy tác dụng rồi.
 
Từ Hạc Tuyết không nói gì, mục đích của hắn đã đạt được, hắn quay người định rời đi, nhưng lại nghe thấy giọng nói của Tưởng Tiên Minh từ trong phòng truyền ra: “Xin hỏi các hạ, vì sao muốn giao sổ sách này cho ta? Vì sao không đưa đến phủ Quang Ninh?”
 
Từ Hạc Tuyết nghe vậy thì quay đầu, ánh sáng từ cây đèn phản chiếu đôi mắt đờ đẫn của hắn, hắn lặng lẽ quan sát hình bóng mơ hồ bên trong màn cửa sổ.
 
Năm nay là năm mới, là Cảnh Nguyên năm thứ hai mươi.
 
Chính Nguyên năm thứ tư, chủ nhân của căn phòng này là một người trẻ tuổi mới hơn hai mươi tuổi, đọc sách thánh hiền, lập chí đền nợ nước, mang theo cơ thể yếu ớt đến biên thành Ung Châu hỗn loạn đang có chiến sự nhậm chức Tri châu.
 
Trước Tưởng Tiên Minh đã có ba cái đầu của Tri châu bị người Hồ treo lên tường thành.
 
Điều đầu tiên y làm sau khi vào thành trở thành Tri châu đó là hoàn thành tâm nguyện của dân chúng biên thành sống sót sau nhiều chiến sự vô cùng thê thảm, đó là xử lý tội thần phản quốc.
 
Sắc lệnh từ quan gia chỉ thẳng tội chết, còn Tưởng Tiên Minh đã làm theo ý dân, giám sát lăng trì.
 
Thật ra Từ Hạc Tuyết không hề biết người này trước kia trông như thế nào, bởi vì lúc đó trên đài hành hình, hai mắt hắn bị đao kiếm của người Hồ làm bị thương, không thể nhìn thấy rõ.
 
Hắn chỉ có thể nghe giọng người đó, mạnh mẽ, căm giận.
 
“Người đời đều biết.”
 

Giọng của Từ Hạc Tuyết rất bình tĩnh: “Tưởng Ngự sử ngài là người không muốn phụ lòng dân nhất, bọn họ là cơ quan ngôn luận của ngài.”
 
“Chỉ vậy mà thôi.”
 
Nghê Tố chịu gió lạnh trên nóc phòng ở Tưởng phủ, lúc quay về thấy hơi khó chịu.
 
Nước trà trên bếp lò lại sôi, vài tiếng ho nhẹ của nữ tử truyền từ sau tấm mành, Từ Hạc Tuyết lập tức định thần, hắn chống một tay lên bàn, khó khăn đứng dậy, rót một bát trà nóng rồi đi vào trong phòng.
 
“Có phải ta ngủ rất lâu rồi không?” Giọng mũi Nghê Tố có chút nặng nề, nàng nhấp một ngụm trà hắn đưa cho, cổ họng khô khốc cũng dễ chịu hơn.
 
“Không lâu lắm.”
 
Từ Hạc Tuyết lắc đầu.
 
Hắn nhận lấy tách trà nàng đưa, đặt xuống chiếc ghế đẩu bên cạnh.
 
Nghê Tố dụi mi mắt, nàng vẫn không ngừng quan sát hắn, tuy rằng phần lớn thời gian hắn đều không biểu lộ ra ngoài, nhưng niềm vui khi cùng hắn chơi đập bóng tuyết đêm qua mà nàng cảm nhận được đã bị những suy nghĩ sâu xa của hắn xóa sạch.
 
“Lúc ta ngủ thiếp đi, huynh ngồi ở đó đã nghĩ gì thế?”
 
Nàng cố gắng chạm vào nỗi lòng của hắn.
 
Từ Hạc Tuyết hơi ngưng lại, hắn định thần lại, bất ngờ chạm phải hai mắt nàng.
 
Nàng trông có vẻ ốm yếu, nhưng lại nằm ở mép giường, nghiêm túc quan tâm hắn.
 
Đêm qua sau khi trở về, Từ Hạc Tuyết lại nhớ tới một số chuyện trong quá khứ, nhớ tới thầy vẫn luôn nghiêm mặt, không biểu lộ cảm xúc cũng không tức giận.
 
Nhưng dù thầy có như thế thì ngay đêm biết được hắn đỗ tiến sĩ, thầy vui mừng đến không thể ngủ được, thậm chí còn viết một bài thơ tên là [Tử Dạ], không tiếc lời khen ngợi hắn.
 
Trước đó, Từ Hạc Tuyết chưa từng biết trong lòng thầy, hóa ra lại coi trọng hắn như vậy.
 
Từ Hạc Tuyết trả lời [Trúc tâm] để tỏ bày lòng mình.
 
Khi đó, hắn thực sự nghĩ rằng mình có thể cùng làm quan trong triều với thầy, được làm một văn quan lớn của Đại Tề trong sự kỳ vọng của thầy, được làm một người lấy trúc làm tâm.
 
Ký ức càng rõ ràng, Từ Hạc Tuyết càng khó lòng nào chịu đựng nổi.
 
Thầy đã trở thành một người lẻ loi cô độc rồi, hắn muốn thầy được sống tốt, ít nhất nửa đời sau cũng không vì bất cứ chuyện gì mà bị vùi dập phải lang thang đầu đường xó chợ, làm bạn với bệnh tật.
 
Hắn tuyệt đối không thể để Tưởng Tiên Minh vì điều tra chuyện của Đỗ Tông mà khiến thầy bị liên lụy.
 
Con đường này hắn phải tự mình đi.
 
Từ Hạc Tuyết đối mặt với ánh mắt quan tâm của cô nương, rất lâu sau đó mới trầm giọng nói: 
 
“Nhớ đến một cố nhân.”

 


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui