Buổi sáng ngày thứ tư cũng vẫn là một buổi sáng không khí mùa xuân tràn trề sức sống. Những cánh én đã quay về từ phương nam đang ngậm những viên bùn màu đỏ từ đầm lầy về làm tổ trên các mái hiên nhà. Ngày ấy, thưa ông, ông dậy rất sớm và có chú tâm ăn mặc chải chuốt khác hơn so với thường ngày. Chân ông mang đôi giày vải đế màu trắng, một đôi vớ cũng màu trắng kéo đến tận bắp chân; một chiếc quần đen ống chẽn, trên người khoác một chiếc áo choàng dài, cạo râu nhẵn thín, vất chiếc mũ hình quả dưa vẫn đội thường ngày để thay vào trên đầu mình chiếc mũ len màu cà phê. Nói tóm lại, trông ông chẳng khác nào một đại tiên sinh làm việc trong nha môn quan phủ. Thấy ông ăn mặc khác thường ngày, bà Tứ đưa cặp mắt hoài nghi nhìn ông dò xét, ông bảo hôm nay có một vị quan lớn trên huyện về khám bệnh, nghiêm khắc yêu cầu bà không được đến hiệu thuốc. Yêu cầu của ông là thừa, bởi lâu nay bà Tứ không hề dám đặt chân đến đó. Ông à, ông chưa kịp làm chuyện bậy bạ thì lòng ông đã trở nên hoảng loạn mất rồi! Ông ngồi phía sau quầy bốc thuốc bồn chồn chờ đợi. Ong mật đang quần đảo dưới nắng xuân làm thành những đường cong rất mềm mại. Ông không thể hình dung là bà ấy sẽ xuất hiện trước mặt ông với nét mặt tươi cười hay là sầu muộn, bỗng nhiên ông nhận ra rằng ông đã quên mất gương mặt bà ấy, những ấn tượng mà bà ấy để lại trong tâm trí ông vô cùng linh loạn mơ hồ. Ông có thể nhớ được đôi mắt ươn ướt, cái đầu nho nhỏ và vành môi màu đỏ sậm, nhưng để tổ hợp tất cả những cá thể ấy trở thành một khuôn mặt chỉnh thể thì ông đành chịu, tất cả đều mờ mờ ảo ảo ông bị nhấn chìm trong một dung dịch màu đỏ sậm, đó chính là màu của chiếc váy mà ngày ấy bà đã mặc, cái thứ màu đặc quánh chẳng khác nào bùn nhão màu đỏ sậm trên đầm lầy. Buổi sáng sớm, ông đã quên mất là mình cần phải nhai rễ cỏ tranh. ông cảm thấy hai hàm răng mình đang có một lớp gì đó rất bẩn, do vậy ông vơ vội một nhúm cỏ tranh nhét vào mồm nhai lấy nhai để. Gần trưa, bà ấy đã xuất hiện trong sân. Kiểu cách xuất hiện của bà ấy thiếu hẳn sắc thái lãng mạn. Ngay lập tức ông cảm thấy suốt cả buổi sáng chờ đợi chằng khác nào khỉ ngồi trên đống than của ông là hoàn toàn vô vị, thậm chí là rất buồn cười. Nghĩ thì như vậy, nhưng tim ông lại đập lên một cách điên cuồng va vào lồng ngực, nhúm cỏ tranh chưa kịp nát đã bị ông dồn xuống cổ họng và như một chiếc lò xo, ông đứng bật dậy, chiếc áo choàng dài vướng vào ấm trà trên bàn kéo nó rơi xuống đất vỡ tan thành trăm nghìn mảnh ông cũng chẳng thèm liếc mắt. Ông lật tấm ván ngăn cách giữa bên trong và bên ngoài quầy thuốc rồi như một đứa trẻ con, ông chạy ra cửa đón bà ấy. Bộ quần áo trên người bà vẫn như ngày ấy, mồ hôi dầm dề chảy trên mặt, đôi giày lấm láp bụi đường, trông dáng điệu biết bà ấy đang có điều gì gấp gáp và lo lắng. - Sao bây giờ cô mới đến? - Giọng của ông có vẻ hờn giận. - Trong nhà có chút việc, không thể tránh được, để cho tiên sinh chờ đợi quá lâu - Vẫn cái giọng như có lỗi ấy lí nhí. Ông đưa bà ấy vào bên trong quầy thuốc và bảo bà ngồi xuống chiếc ghế của mình, quýnh quáng định rót nước mời, lúc bấy giờ ông mới thấy những mảnh vỡ nằm lăn lóc trên sàn nhà. Bà ấy nói không khát. ông đứng đó với dáng điệu gò bó bồn chồn, hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp, chân tay thừa thãi không biết đặt vào đâu - Đây là cách biểu hiện những mâu thuẫn trong tâm tình rất thông thường của đàn ông trước khi xông thẳng vào một người đàn bà nào đó. Để cứu vãn tình thế, ông thò tay vào túi lấy một nhúm cỏ tranh bỏ vào miệng. Khi nhìn thấy ông đang nhai cỏ, bà ấy đưa đôi mắt hiếu kỳ nhìn ông. Nhờ có nhúm cỏ tranh nên đầu óc ông cũng đã tỉnh táo lại phần nào, cảm giác nóng ran đến độ phát run của ông đã tạm lui, chân tay cũng trở nên tự nhiên linh hoạt hơn. Bà ấy nói bệnh tình của bà ấy đã giảm đi rõ rệt, ông bảo chỉ cần uống vài thang thuốc nữa là hoàn toàn yên tâm. Ông từ tốn, thân thiết bắt mạch cho bà ấy. Ông nghe thấy nhịp tim của bà đập rất nhanh và rất mạnh, trên gương mặt bà ấy có một cái gì đó chỉ có ông mới có thể nhận ra, nhưng không thể hình dung một cách cụ thể khiến ông như say, như mê. Khi đưa gói thuốc cho bà ấy, ông thừa cơ nắm lấy chiếc cổ tay đang vươn về phía ông. Gói thuốc rơi xuống đất. Ông kéo bà ấy về phía mình, bà ấy không hề có chút phản kháng nào. Ông tổ ơi, đáng ra ông phải từ tốn hôn vào đôi môi đẹp như cánh hồng ấy, nhưng ông lại không làm thế. Ông quá vội vã. Bàn tay ông như mõm một con lợn đói sục vào bầu vú bà ấy, nếu như động tác của ông nhẹ nhàng êm ái một tí thì có lẽ ông đã thành công. Nhưng ông quá nặng tay, quá thô bạo đến nỗi có cảm giác ông muốn ngắt bầu vú ra khỏi cơ thể bà ấy. Bà ấy giãy giụa để thoát ra khỏi lòng ông, gương mặt đỏ bừng không biết-là do xấu hổ hay giận dữ, ông chỉ còn biết đứng sững sờ nhìn theo bóng hồng xách chiếc túi biến mất trên con đường đầy bụi đỏ. Ông tổ ơi, ông đã thất bại rồi. Ông thất thần ngồi bên chiếc quầy, lột chiếc mũ len trên đầu xuống vất lên trên quầy. Ong mật vẫn cứ bay đầy trời, hình như vẫn chưa có chuyện gì xảy ra cả, lại hình như tất cả đều đã diễn ra; mùi bùn tỏa lên từ đầm lầy lại xộc vào mũi vào cổ họng ông; con đường gần và đồng ruộng xa xa đều nhuộm một thứ ánh sáng vàng vọt. Ông biết bà ấy chẳng bao giờ quay lại nữa. Hai thang thuốc vẫn nằm lăn lóc dưới đất, khi đứng lên ông đã trông thấy chúng và tiện chân đá một cú, lớp giấy gói thuốc bị xé toạc, rễ cỏ vỏ cây văng tứ tung. Một thang vẫn còn nguyên hình dạng, ông lại càng tức tối đá thêm cú nữa, nó bay vèo đến tận góc phòng và nằm im ở đó, nơi đó có một cái hang chuột. Một con chuột đang ló đầu ra khỏi hang nhìn láo liên thám thính, gặp phải thang thuốc bay vèo tới, nó đưa mũi hít hít rồi chạy biến vào trong hang. - Nói bậy! - ông Tứ quát lên - Nói bậy! Làm gì có hang chuột và con chuột nào. Ta đá vào gói thuốc hai cú, không phải một cú. Cả hai gói thuốc đều rách toạc. Ta tiếp tục đá gói thuốc ấy vào phía bên dưới quầy thuốc chứ không phải đá vào góc tường! - Ông tổ Tứ ơi? Đừng nổi nóng. ông hãy nghe cháu tiếp tục kể đây! - ... Sau đó mười mấy ngày, cho dù ông căm hận và tiếc nuối nhưng ông không thể quên được bà ấy. Mỗi lần nghe tiếng bước chân ngoài sân là tim ông lại đập rộn lên. Ông ngủ không ngon giấc, mặc dù mười mấy ngày ấy ông đều ngủ tại hiệu thuốc. Hình như ông đang chờ đợi một kỳ tích sẽ phát sinh, ban đêm ông thường gặp bà ấy trong giấc mơ, còn mơ thấy cả bà ấy cùng lên giường với ông, vẫy vùng thoải mái như cá gặp nước. Tinh thần ông lúc nào cũng hoảng hoảng hốt hốt, lại thường xuyên bị di tính. Để tự cứu lấy mình, ông uống rất nhiều thuốc viên vàng vàng hỗn hợp đến sáu vị thuốc, củ thục địa làm cho hai hàm răng ông trở nên vàng xỉn. Kỳ tích cuối cùng cũng đã xuất hiện, ông Tứ ơi, ông hãy nghe cho rõ nhé. Kỳ tích xuất hiện đúng vào đầu tháng năm, vào một buổi hoàng hôn - không, phải là sau khi ăn cơm tối xong một lát. Cái không khí nóng bức của ban ngày vẫn còn lưu lại trên mặt đất nóng hầm hập, gió mát thổi từ đầm lầy đến, sương đã bắt đầu giăng. Ông ngồi dưới gốc cây hòe, tay phe phẩy chiếc quạt bện bằng sợi cỏ bồ để xua những con muỗi đang vo ve chung quanh ông. Ông nghe thấy có tiếng ai đó đập nhẹ vào cánh cổng. Không giấu được vẻ phiền lòng,ông lên tiếng: - Ai đó? - Là tôi đây, thưa tiên sinh! - Một giọng đàn bà rất nhỏ và rất nhẹ. - Ông tổ ơi! Sau khi nghe thấy giọng nói của bà ấy, ông sướng muốn điên lên, ông bị kích động. Ngôn ngữ của cháu vô cùng hữu hạn và cộc cằn không thể biểu đạt hết những biểu hiện của ông lúc ấy. Ông không có cánh nhưng ông lại bay ra đến cổng. Ông gấp gáp và run rẩy đến nỗi không tìm ra được cái chốt khóa cánh cổng. Cuối cùng thì cánh cổng cũng được mở ra, như một ánh chớp, ông lao ra ngoài ôm bà ấy vào lòng. Hai cánh tay ông cơ hồ như muốn làm cho xương cốt bà ấy gãy vụn. Chỉ một cái ôm này thôi mà thời gian đã kéo dài đến độ hút tàn điếu thuốc ông mới dìu bà ấy đi vào nhà. Lúc ấy ông to cao hơn bây giờ nhiều, bà ấy lại nhỏ bé lung linh, ông ôm bà ấy chẳng khác nào ôm một con cừu non hiền lành và biết vâng lời. Ông đặt bà ấy lên giường, thắp chiếc đèn dầu lên. Bà ấy nằm bất động trên giường, chẳng khác một người đã chết, những giọt nước mắt trong veo trào ra khói khóe mắt và chảy dài theo thái dương. Lòng ông có chút trù trừ do dự, nhưng cuối cùng ông cũng không thể khuất phục được dục niệm đang trào dâng. Tay ông run run cởi những hạt cúc trên áo bà ấy, hai bầu vú như hai ngọn núi nhỏ đứng vổng lên trước mắt ông. Ông ngước đầu lên, còn bà ấy thì như một con cá chép quẫy mạnh, một tiếng rên nhỏ kèm theo một tiếng thở dài. Đèn tắt. Hai cánh tay điên cuồng của bà ấy chồm lên thít chặt lấy cổ ông, mùi hoa lan lẫn với mùi cầy hương phả ra từ miệng bà bao bọc lấy mặt ông và ông ngất ngây trong mùi vị tươi nguyên ấy. Ông nghe thấy bà lắp bắp như mê sảng: Tiên sinh... tiên sinh!... Thanh âm sao mà xa xăm, sao mà mông lung. Hình như ông đang chìm xuống đáy sâu của đầm lầy,chung quanh mình toàn là bùn đỏ, bên tai như có những tiếng lách tách rất quen thuộc của những chiếc bong bóng hơi nổ khi nổi lên trên mặt đầm lầy... Ông Tứ khịt khịt mũi. Tôi trông thấy ông đưa bàn tay nhăn nheo và to sụ lên chùi hai giọt nước mắt già nua đọng dưới vành mi. - ... Ông tổ ơi, ông động lòng rồi sao? Hồi tưởng quá khứ luôn luôn làm cho người ta cảm thấy buồn bã thê lương. Năm mươi năm đã qua, những gì phong lưu nhất của một đời người đã bị gió mưa làm cho hao gầy, tuổi xuân một đi không trở lại, con đường ẩn ẩn hiện hiện dưới lớp cỏ dày đang chìm trong sương mù dày đặc, thấp thoáng trong sương mù là một đóa hoa dại vươn lên cao khỏi lớp cỏ xanh rờn. Đó chính là con đường để ông đi đến đây vào lúc này. - ... Ông tổ Tứ ơi, ông đừng khóc, ông hãy tiếp tục nghe, nghe thật chăm chú những lời cháu nói nhé. Bữa nay cháu phải đem những gì âm ám - gạo mốc vừng nát - để kể ra hết. Đêm ấy, sau khi cơn mây mưa điên cuồng đi qua, lòng ông rối như tơ vò với bao nhiêu tâm tình phức tạp đan cài vào nhau. Hình như ông đã chiếm được một cái gì đó rất quý giá nhưng đồng thời lại có cảm giác mất đi một cái gì đó ngang bằng về giá trị. Lòng ông sản sinh một cảm giác hạnh phúc thê lương. Cháu quá văn chương phải không? Cháu quá tô vẽ phải không? Đêm ấy, ông dìu bà ấy đi qua chiếc cầu đá đung đưa, bước vào nhà bà ấy. Bố chồng bà ấy lâm bệnh nặng, bà ấy đến chỗ ông là muốn mời ông đến khám bệnh cho bố chồng, đương nhiên khi quyết định đặt chân vào hiệu thuốc, bà ấy không phải không tưởng tượng được những gì sẽ phải xảy ra, bà ấy đến là vì một công đôi việc, một mũi tên bắn trúng hai mục tiêu. Mười mấy ngày qua e rằng bà ấy không đêm nào chợp mắt, một thiếu phụ đang độ xuân tình thủ tiết thờ chồng đã lâu trong những đêm xuân tháng tư đã bị ông kích thích bản năng tình dục, trước sau gì cũng sẽ đến dâng thân xác cho ông thôi, hơn nữa ông - Tứ lão gia thời thanh niên lại là một nhân tài. Bố chồng bà ấy đang thở khò khè, bộ râu giống râu sơn dương trông rất ma quái. Ông bỗng nhiên nhận ra đôi mắt của lão già như hai con dao cực sắc đang cắt vào da thịt ông. Ông Tứ ơi, bây giờ cháu sẽ bắt đầu vạch trần một án giết người đầy tội ác đây! Một thầy thuốc đông y thông gian với một người con dâu, vật cản đường lớn nhất là lão bố chồng. Lão già này giống như một con chó già đã mất khả năng giao phối đang dùng đôi mắt đố kỵ để giám sát một con chó cái non tơ, do vậy mà vị thầy thuốc nọ đã lợi dụng cơ hội trị bệnh đề ra tay. Trong một thang thuốc, ông ta đã bí mật cho vào đó một ít... Một tiếng uỵch đột ngột vang lên. Ông Tứ - chín mươi tuổi ngã lăn ra đất. Tôi đỡ ông đứng dậy, ấn huyệt nhân trung, huyệt bách hội. vỗ vào má, đánh vào mông, xoa vào ngực, loay hoay một đỗi lâu, ông Tứ - toàn thân đang dựa hẳn vào vai tôi mới thở hắt ra một hơi, tỉnh lại. Vừa trông thấy mặt tôi, khuôn mặt nhăn nheo của ông bắt đầu co giật, nhắm mắt lại có vẻ sợ hãi, lắp bắp: - Đồ ma quỷ... đồ... tạp chủng... Mày đã ... thành tinh...sao? Sau đó, ông Tứ yêu cầu tôi đem ông đi giao cho công an để họ lôi ông ra đầu thôn phía nam bắn bỏ. Trông ông có vẻ rất chân thành, tôi cũng tin là ông chân thành, nhưng làm sao tôi lại bán đứng một trong những ông tổ của dòng họ nhà tôi? Nhân tình còn lớn hơn cả vương pháp nhiều! Để an ủi ông, tôi nói: Lão tổ tông ơi! ông đã chín mươi rồi, còn phải lãng phí một viên đạn sao? Ông cứ chờ lão già có bộ râu sơn dương ấy đến đòi mạng thôi! Chẳng qua là tôi buột mồm mà nói ra thôi nhưng lại linh nghiệm đến kinh người. Đến lúc này tôi vẫn còn ân hận. Đáng ra tôi không nên nói ra những lời lột da như thế với ông Tứ, tuy rằng trong cái gia tộc ăn cỏ tranh của chúng tôi không hề có sự phân biệt nam phụ lão ấu, ai cũng có quyền nói, cũng có quyền trêu đùa nhau. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi lâm chung, ông Tứ ngồi cả ngày dưới mặt trời, lưng tựa vào bức tường thấp quanh sân trầm tư suy nghĩ, ngay cả thói quen đi ra đồng đại tiện cũng bị ông vất bỏ. Trong những ngày ấy, châu chấu cũng đã lớn lên rất nhanh, dài độ một phân, trước khi chiếc máy bay đến, châu chấu như những làn sóng bay liệng khắp nơi. Dựa lưng vào tường, toàn thân ông Tứ bám đầy châu chấu nhưng ông cũng chẳng buồn quan tâm. Những người trong gia tộc đều đã nhận ra sự thay đổi kỳ lạ của vị tổ này nhưng không biết nguyên nhân vì đâu, đây là bí mật của tôi. Mẹ tôi bảo: Ông tổ Tứ không còn sống mấy ngày nữa đâu! Nghe mẹ nói, tôi cảm thấy tội trạng của mình càng nặng thêm. Ông Tứ ngồi tựa lưng vào tường, cảm nhận được châu chấu đang bò khắp người ông và nghĩ đến dịch châu chấu cách đó năm mươi năm. Tất cả đều hiện ra trước mắt, bao gồm cả việc ông viết đơn bỏ vợ, kể cả màu sắc của tờ giấy viết đơn. Đó là một tờ giấy Tuyên màu vàng nhạt. Ông Tứ đã dùng một kiểu chữ rất độc đáo của riêng ông, kiểu chữ ông vẫn thường viết khi kê đơn bốc thuốc để viết vài chục chữ trên tờ giấy Tuyên màu vàng. Lúc ấy đã cách ngày ông phát hiện châu chấu xuất thổ khoảng hơn một tháng, những ngày nóng bức của mùa hè đã lên đến đỉnh điểm, ngôi miếu Ba Lạp ở đầu thôn đông cơ bản đã hoàn thành, chỉ còn công đoạn cuối cùng là trang trí nội thất. Di tích ngôi miếu Ba Lạp hiện tại vẫn còn, sau năm mươi năm gió táp mưa sa, tường miếu đã đổ, ngói đã vỡ gần hết, trên mái phân chim đóng dày cả lớp, cỏ dại cũng đã mọc đầy trên mái. Ngôi miếu không lớn lắm, hình chữ nhật giống như những chiếc mũ các đạo sĩ vẫn đội trên đầu. Nếu ông Tứ leo lên đầu tường quanh sân nhà, ông vẫn có thể trông thấy ngôi miếu Ba Lạp xa xa. Viết xong lá đơn bỏ vợ, ông Tứ rời khỏi hiệu thuốc, men theo con đường cái lớn, đầu đội ánh sáng mặt trời, tai nghe tiếng rào rào như mưa xối từ ngoài đồng vọng lại - đó là âm thanh của hàng triệu con châu chấu đang gặm nhấm hoa màu cây cỏ ngoài đồng - đi đến công trường xây miếu. Tâm trạng của ông rất nặng nề, suy cho cùng cũng là một thời chồng vợ, cho dù bà ấy có nghìn vạn điều hư, nhưng lại có một điểm tốt, và điểm tốt này đang như một chiếc dùi chọc vào trái tim ông. Khi ông cầm bút viết đơn, trước mắt ông thấp thoáng gương mặt máu me bê bết của gã thợ hàn, trong lòng ông có một cảm giác lành lạnh. Sau đêm ấy, gã thợ hàn không hề xuất hiện trong làng nữa, nhưng khi ông Tứ đến thôn Sa Lưu Khẩu để thăm bệnh đã từng giáp mặt với gã trong một con ngõ nhỏ: Mặt mũi gã lầm lì dữ tợn, một con mắt dúm dó, mí mắt trùm lên hốc mắt. Con mắt còn lại sáng trưng như điện, trên trán vẫn còn mấy vết thương chưa kịp lành. Lúc ấy, ông Tứ lo lắng giữ chặt lấy dây cương, hai chân kẹp cứng vào hai bên mạng sườn con lừa. Ông có cảm giác gã thợ hàn độc nhãn kia đang phát ra những ánh mắt xanh lè và sắc nhọn như những mũi tên găm thẳng vào đầu ông. Nhưng gã chỉ nhìn ông rồi vội vã quay người biến mất sau một bức tường leo bám đầy những dây bầu dây bí. Ông Tứ dang hai tay ôm chặt lấy cổ con lừa, đôi mắt hoa lên khá lâu. Từ đó, một vết thương đã hình thành trong lòng ông, mỗi lần nghĩ đến gã thợ hàn và gương mặt đáng sợ của gã là vết thương ấy lại như bị kim chọc vào, nhức nhối không thể tả.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...