Bây giờ chúng đang đi lên một con dốc nghiêng. Xa tít bên trên, Charlie có thể thấy vầng trăng và, dẫu bị té ạch đụi mấy lần xuống nền gạch trơn trợt, mặt trăng tưới lên chúng một niềm hy vọng tươi mới và, phớt lờ quần áo ướt sũng và tay chân trầy trụa, chúng hăng hái bò lên, cho tới khi từng đứa một, lăn tòm vô một bãi cây nhỏ bên cạnh triền sông. Một làn gió mạnh đã thổi bạt mây khỏi bầu trời, để lại vạn vật tắm đẫm trong ánh trăng.
“Chúng ta tới rồi!” Charlie hét to, lăn xuống bờ dốc.
Bọn kia lăn theo. Asa thậm chí còn cười rúc rích. Trông bộ dạng anh ta thật quái với mái tóc đỏ thòi lòi dưới mũ nồi, và áo khoác dài tráng kín bùn.
Giờ chúng đã tới đây, đủ cả ba đứa, run lập cập vì ướt và lạnh, và Charlie muốn chắc chắn Asa đến được chiếc xe thùng của ông Bartholomew. Chúng chạy dọc theo dải đất cho tới khi cây cầu hiện ra trong tầm mắt, và đó kìa, thấy nhô lên khỏi bức tường đá, là một chiếc xe thùng màu trắng.
“Asa,” Charlie chỉ cây cầu, “Thấy chiếc xe thùng màu trắng đó không? Mẹ anh ở trong đó, đang chờ anh đó.”
Nó chưa dứt lời, cả bọn bỗng cảm thấy mặt đất rung chuyển. Có tiếng rập cà rập từ xa dội đến tai chúng; lúc tiếng động lớn dần lên thì một con ngựa trắng phi xuống bờ dốc cạnh cây cầu. Trên lưng ngựa một hiệp sĩ mũ giáp bạc và áo chùng nhung trông xam xám dưới ánh trăng, tuy nhiên Charlie biết áo chùng phải là màu đỏ rực. Chúng thấy ánh thép nhóa lên khi hiệp sĩ tuốt gươm ra và lao vun vút tới chỗ bọn chúng.
Trong khoảng khắc đó, Charlie chỉ nghĩ một điều là bấy nay mình luôn đúng. Hiệp Sĩ Đỏ đó không phải là bạn. Ông ta đã được trao cho thanh gươm bất khả chiến bại mà ông ta luôn rắp tâm sử dụng để chống lại bọn chúng.
Chúng quay đầu chạy, nhưng biết chạy đi đâu bây giờ, do bởi ở đầu phía ấy, một con ngựa khác cũng đang phi hùng hục về phía chúng. Mặt đất rùng rình vì tiếng vó ngựa nện xuống triền sông. Chùm lông chim xám thẳng đơ trên đầu ngựa, và hiệp sĩ ngồi trên lưng con ngựa này lăm lăm một cây thương dài màu nhờn nhợt.
“Trông họ như đá,” Billy kêu re ré.
“Họ là đá,” Charlie thét ầm.
Bị kẹt giữa Hiệp Sĩ Đỏ và hiệp sĩ xám, dòng sông xem ra là nơi duy nhất để tẩu thoát. Charlie đứng sựng, run rẩy trên triền đất ngập ánh trăng, không thể cục cựa, trong khi Asa và Billy đã bò thụp xuống, giật giật áo chùng của Charlie và gào thét cái gì đó không hiểu được. Và rồi, khi cả hai con ngựa lao vào chúng đến nơi, thỉ Hiệp Sĩ Đỏ thét vang “NẰM XUỐNG!”
Charlie nhào xuống đất ngay trước lúc ngựa và người cưỡi lướt qua phía trên nó. Một luồng khí phụt ra từ tấm áo choàng bay phần phật là ấm tới xương nó, khiến nó thôi run tức thì.
Cây thương của hiệp sĩ đá xỉa thẳng vô ngực Hiệp Sĩ Đỏ nhưng, vào khoảng khắc cuối cùng, con ngựa trắng thình lình ngoặc hướng, nhanh hơn tia chớp, Hiệp Sĩ Đỏ phập thanh gươm của mình xuống. Một nhóe sáng đốt cháy theo chiều dài cây thương. Con ngựa đá khiếp vía quay đầu trên tiền sông. Cây thương bị kéo căng ra hết cỡ, rồi bất chợt bay chíu về phía lưng của Hiệp Sĩ Đỏ.
Charlie nghe thấy một tiếng kịch khi ngọn thương đâm trúng mục tiêu. Nhưng Hiệp Sĩ Đỏ không hề loạng choạng trên lưng ngựa. Cây thương nảy bật khỏi tấm áo choàng đỏ của ông, con ngựa trắng nhảy dựng qua bên và Hiệp Sĩ Đỏ chém mạnh cây thương bằng thanh gươm của mình, nhát nữa, nhát nữa, lại nhát nữa.
Một tiếng rắc long trời, và cây thương gãy làm đôi, một đoạn rớt thịch xuống đất. Hiệp sĩ đá thúc ngựa mình húc thẳng vào sườn con ngựa trắng; một tiếng hí đau đớn vang động thinh không khi con ngựa trắng lùi lại, nhưng trong lúc nó chuyển động thì lưỡi gươm của Hiệp Sĩ Đỏ đã phang trúng mũ giáp của hiệp sĩ đá. Đầu hắn đứt lìa, nhưng toàn thân hắn vẫn hoạt động, điên cuồng lia cây thương cụt. Thanh gươm lại xả xuống lần nữa, chẻ hiệp sĩ đá ra làm đôi, chặt cánh tay hắn và chém bay đoạn thương còn lại. Những mẩu đá rơi lịch thịch xuống đất; con ngựa đá lảo đảo vài cái rồi lăn tỏm xuống sông.
Ba thằng bé lồm cồm đứng dậy, vẫn run, mặc dù quần áo chúng đã khô lại, và chúng không còn cảm thấy lạnh nữa. Chúng ngước nhìn chối chết vào Hiệp Sĩ Đỏ và con ngựa của ngài, giờ đứng bất động dưới ánh trăng. Nếu không nhờ hơi bốc ra từ con ngựa trắng, thì cứ tưởng họ đã hóa thành bức tượng.
“Lúc này tôi có thể tự lo cho mình được rồi.” Asa nở nụ cười quai quái trên mặt. “Tốt hơn hai cậu hãy trở về trường đi.”
“Anh có chắc không?” Charlie hỏi.
“Chắc chứ,” Asa nói, khi con ngựa trắng hướng về phía chúng.
Tụi con trai dạt qua bên để con ngựa cùng người cưỡi đi qua. Charlie nghe thấy tiếng da cọ quậy, tiếng áo giáp kêu lách cách, và tiếng thở hì hụi của con ngựa. Hiệp Sĩ Đỏ ngồi thẳng trên yên, thanh gươm của ngài đã được tra vô vỏ, treo lủng lẳng nơi thắt lưng, tấm áo choàng đỏ nằm im che lấy lưng ngài. Ngài dừng lại một thoáng và nhìn xuống bọn chúng. Mũ giáp che khuất mặt ngài, chi còn tia phản chiếu của đôi mắt là thấy được.
Khi con ngựa dấn tiếp, Asa bước đi bên cạnh nó. Charlie và Billy nhìn thân hình cao lêu nghêu của Asa trong chiếc áo choàng dài, và Charlie lầm bầm, “Giờ anh ấy an toàn rồi.”
“Một người an toàn nhất trần đời,” Billy thêm.
Khi chúng leo lên trở lại cửa hầm, Charlie nghĩ mình trông thấy hai bóng người đứng dưới bãi cây: một cao lớn và một bé xíu.
Cuộc hành trình trở lại trường dễ hơn và nhanh hơn bởi vì đường hầm giờ đã sạch trơn nước.
“Luôn nhanh hơn khi ta biết mình đang chờ cái gì,” Charlie nói, khi hích người leo lên chiếc thang sắt, ra khỏi cái hố kinh hoàng. Thế nhưng chúng không hề chờ đợi để thấy điều mà chúng thấy khi ló lên căn phòng dưới lòng nhà hát.
Lúc nãy Charlie không hề trông thấy Manfred ở đâu trong nhà hát, đơn giản là vì hắn núp đằng sau hàng ghế đầu tiên ở khán phòng. Hắn nghe thấy tiếng cửa sập hạ xuống và chờ đợi, cười khẩy một mình, tưởng tượng cảnh Charlie và Billy tự dẫn xác xuống cái hố hắn nhốt thằng người thú. Hắn đặc biệt khoái chí thưởng thức bức tranh hắn tự vẽ trong đầu, khi nghĩ đến dòng nước lụt dìm chết người của Dagbert tuôn vô đường hầm.
Asa sẽ chết đuối, Manfred nói một mình, ta sẽ mất con thú hữu dụng, nhưng không còn cách nào khác. Với việc Billy Raven bị xóa sổ, thì ai thèm quan tâm Lyell Bone có tìm được bản di chúc của Maybell Raven hay không. Còn về Charlie Bone, thằng đó càng biến nhanh chừng nào tốt chừng nấy.
Nhưng Charlie luôn có cách thoát khỏi hiểm nghèo, nên Manfred muốn đảm bảo chắc chắn lần này Charlie đừng hòng sống sót. Rời khỏi chỗ núp, hắn leo lên sân khấu. Trong túi quần hắn có sẵn chiếc chìa khóa để mở ổ khóa cũ trên cửa sập. Hắn sắp sửa bấm ổ khóa lại thì bất chợt cơn tò mò xâm chiếm lấy hắn.
Manfred nâng cửa sập lên và đi xuống phòng phục trang. Dường như nó trống trơn. Tung tẩy ổ khóa trong tay và huýt sáo một mình, Manfred ló đầu qua một trong những cây cột và nheo mắt ngó vô màn đêm. Không có gì. Và rồi, từ xa, hắn nghe thấy tiếng hét kinh hồn của Billy lúc trượt chân ngã xuống đường hầm.
Manfred mỉm cười mãn nguyện. Hắn quay lưng đi và sững sờ chết điếng, mặt đối mặt với Lysander Sage.
“Mày làm gì ở đây?” Manfred quát đùng đùng.
“Đưa ổ khóa cho tôi,” Lysander ra lệnh.
“Đừng hòng tao đưa mày cái gì,” Manfred nhạo báng. “Cút khỏi đây trước khi tao gọi lão Weedon.”
“Tôi chắc chắn là lão Weedon đang chạy lòng vòng thành phố đếm xe thùng màu trắng và tự hỏi cái nào cần theo dõi. Giờ thì, đưa tôi cái ổ khóa đó.”
“Tới mà lấy coi!”
“Được.” Giang hai tay ra, Lysander quay mòng mòng căn phòng, len lõi qua những cái rương bằng da và những giỏ bằng liễu gai. Những bức tường âm vang tiếng ngâm nga bí ẩn và, trong khi Manfred từ từ lùi lại cầu thang, tiếng trống bắt đầu hòa nhịp với giọng của Lysander. Những hình nhân tái xám bắt đầu tràn lấp không gian đen ngòm giữa các cây cột, rồi từ từ mỗi hình nhân ma quái biến thành một người đàn ông cao lớn, da đen. Nhưng cánh tay màu nâu của họ đều đeo vòng vàng, thân hình họ trùm trong áo thụng trắng, ai ai cũng cầm một ngọn giáo dài.
“Ảo ảnh,” Manfred lầm bầm.
“Anh biết thừa là không phải,” Lysander nói. “Họ là tổ tiên của tôi và họ hữu hình như bất kỳ sinh vật nào trong thành phố này.”
Một trong những chiến binh luồn ra sau Manfred, khóa chặt đường tới những bậc thang của hắn.
“Đưa ổ khóa cho tôi,” Lysander chìa bàn tay ra.
Manfred lắc đầu tê liệt. Nắm chặt ổ khóa, hắn bỏ hướng tới cầu thang và nhắm tới lối đi giữa những tủ và rương.
“Thế thì hãy nhận lãnh hậu quả.” Lysander hú lên một tràng dài và những chiến binh đen dồn về phía trước. Khi họ vây sát Manfred, hắn thét lên một tiếng khiếp đảm, đồng thời quăng bừa ổ khóa cho Lysander, rồi vội vàng mở nắp một cái hòm đan bằng liễu gai lên và nhảy tọt vô trong, đóng nắp lại trên đầu.
Lysander bước tới cái hòm và bấm ổ khóa lại. Sau đó, rút chìa khóa ra, anh ngồi trên nóc hòm và đợi.
Sửng sốt trước ánh sáng rực rỡ rọi về phía mình, Charlie và Billy chù chừ trước khi bước qua hàng cột. Và chúng thấy Lysander, bao quanh là những tổ tiên tâm linh cao lớn của anh.
“Cái…” Charlie lắp bắp.
“Suỵt!” Lysander chỉ cái hòm bên dưới mình. Không mở khóa ra, anh đứng dậy và đưa tụi nhỏ lên cầu thang.
Trước khi đóng cửa sập lại, anh khẽ gọi những tổ tiên tâm linh, và mặt anh nở ra một nụ cười tươi rói.
“Chuyện gì thế?” Charlie hỏi.
“Manfred đang định khóa các em lại,” Lysander bảo. “Nhưng anh đã khóa nhốt hắn rồi. Tổ tiên của anh sẽ canh giữ hắn cho tới bình mình.”
Billy nem nép ngó gương mặt điềm nhiên của Lysander. “Nhưng anh ta sẽ tức giận… sẽ… sẽ…”
“Hắn sẽ không làm gì đâu,” Lysander trấn an thằng bé. “Em tưởng hắn muốn lu loa cho tất cả mọi người biết mình đã bị nhốt trong một chiếc hòm và không ngăn được các em trở lại sao? Tin anh đi, hắn quá kiêu ngạo để làm điều đó. Giờ, cho anh biết coi, các em có thành công không?”
“Rất thành công,” Charlie đáp.
Khi chúng kiễng chân về những phòng ngủ chung của mình, Billy thì thào bằng giọng buồn ngủ. “Sander, em đã thấy Hiệp Sĩ Đỏ và một con ngựa trắng. Và em nghĩ đó là hoàng hậu mà lão Ezekiel đã vô tình làm sống lại.”
“Vậy chắc có lẽ Hiệp Sĩ Đỏ là nhà vua đó,” Lysander bảo.
“Cũng có thể,” Charlie nói.
Ở đầu kia thành phố, trên đường lái xe trở về nhà sau một điệp vụ tối quan trọng, chú Brown đếm thấy có không dưới mười bảy chiếc xe thùng móp méo màu trắng đậu ở những vị trí khác nhau trong thành phố. Chú ghi lại từng vị trí vào sổ tay của mình. “Có gì đó đang xảy ra,” chú lầm bầm. “Trừ phi… đúng rồi. Ảo ảnh.” Chú liền xé bỏ tờ giấy đó đi.
Vừa lúc đó, chiếc xe thùng duy nhất chú không thấy đã phóng ra khỏi thành phố.
Charlie Nhận Được Một Tấm Bưu Ảnh
Vào sáng thứ Ba, có một tâm trạng tò mò bao trùm khắp học viện Bloor. Thậm chí cả bọn trẻ không dính líu gì đến cuộc đào thoát của Asa cũng cảm nhận về một sự thay đổi trong bầu không khí.
Dagbert Endless nằm mẹp trên giường, mặt chi chít những vết cào. Chốc chốc lại rên rỉ về gió máy. Nắm tay nó áp chặt vào má, nhất định không cho ai thấy mình đang cầm cái gì, mặc dù, thỉnh thoảng giữa những ngón tay nó, lại để lộ ra những tia sáng vàng.
“Cứ mặc kệ nó,” bà giám thị bảo. “Nó đang bị ác mộng đấy mà.”
Thế là Dagbert được phép nằm lại giường, một điều chưa từng có đối với đứa trẻ nào trong học viện Bloor
Trong phòng riêng của hắn ở chái phía Tây, Manfred Bloor cũng nằm bẹp dí trên giường. Úp mặt vô tường, lảm nhảm về những chiến binh ma quái.
Lão Ezekiel đích thân lăn xe tới cửa phòng Manfred và gõ. Không có tiếng trả lời. Thấy cửa khóa, lão Ezekiel giật giật tay nắm cửa. “Mày có thành công không?” lão gọi. “Sứ mạng có hoàn thành? Asa đi đời? Charlie đi tong và oắt Billy tiêu ma?”
“Đi đi,” Manfred gầm gừ.
“Thế thì thất bại rồi,” ông cố nội hắn thở dài rồi thiểu não lăn xe đi.
Món trứng được phục vụ trong căng-tin xanh da trời. Charlie không bao giờ nhớ mình đã được chiêu đãi như thế này trong bữa sáng ở trường. Nó đứng ở cuối hàng, cố mở đôi mắt líu díu ra, ngáp rõ to.
Bà bếp trưởng trao phần ăn được thêm ê hề cho Charlie khi nó tiến tới quầy. “Ta đã ù ra ngoài mua trứng đó,” bà nói. “Tại sao bọn trẻ các con không xứng đáng một bữa sáng thịnh soạn cho khác đi?”
“Bà bếp trưởng, trông bà không còn lo lắng nữa,” Charlie nhận xét.
“Ta biết mình không đơn độc.” Bà nhoẻn với nó một nụ cười bí mật, sau đó lôi một vật ra khỏi tạp dề. “Ta tình cờ gặp ngoại Maisie sáng nay. Thật hên ơi là hên. Bà ấy nhờ ta mang cái này cho con.” Bà bếp trưởng nhoài qua quầy và trao cho Charlie một tấm bưu ảnh.
Mặt sau có một con tem nước ngoài và nét chữ viết tay của ba nó. Sau vài dòng về chuyến đi và thời tiết thì tới câu: “Một ngày nào đó ba mẹ sẽ đưa con đi cùng, Charlie, rồi con sẽ tận mắt thấy những sinh vật lộng lẫy đó.”
Ở mặt trước tấm bưu ảnh, hình một cái đuôi cá voi lưng gù choán lấp bầu trời trên mặt biển mênh mông, lấp la lấp lánh.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại . .com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Hết Tập 6
To Be Continous…….
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – Nhàn Nhã– auduong_yy
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...