Ba bà em của nội Bone thường được tiếp đón trong căn phòng tươm tất nằm bên hông hành lang, nhưng hôm nay, họ đang ở đây, ngồi quanh bàn nhà bếp, và xâm chiếm căn phòng vốn ấm cúng này bằng những bộ đồ đen sũng nước cùng những gương mặt quàu quạu của họ.
Những chiếc áo khoác đen của họ đã được vắt lên thành ghế, còn giỏ xách thì bị nhét bừa vô các ngăn kéo tủ. Trên bàn có một ổ bánh đang xơi dở một nửa, kem chảy nhoe nhoét, và căn phòng tỏa mùi bánh ngọt thiu cùng mùi lá oải hương thối.
Charlie cố làm ra vẻ xởi lởi.
“Con chào các bà,” nó nói một cách hớn hở. “Ngạc nhiên hết sức!”
“Tao thì ngạc nhiên vì sao mẹ mày lại để mày long nhong ngoài đường trễ như vầy,” bà cô Lucretia nói. “Nãy giờ mày ở đâu?”
“Mẹ con đâu?” Charlie hỏi lại.
“Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?” Bà Eustacia eo éo nhại nó.
Charlie nhìn ổ bánh ăn dở. Chẳng ai lấy cho nó một miếng.
“Mẹ mày đi chơi rồi,” nội Bone nói.
“Đi đâu ạ?”
“Trời đất ơi, bây giờ chúng mình lại phải lo về mẹ nữa à?” Bà cô Venetia, trẻ nhất mà tinh ma nhất, trêu ghẹo nó.
“Con không lo,” Charlie nổi cáu. “Con chỉ ngạc nhiên là mẹ con không có ở nhà thôi.”
“Mẹ mày đi xem kịch rồi,” nội Bone dài giọng. “Mẹ mày có hai vé miễn phí xem Những Cái Trống Thần. Mẹ mày muốn dắt mày theo, nhưng mày không có ở nhà, đúng chưa nào?”
“Mẹ không nói gì về chuyện vé với con cả,” Charlie nói. “Vé ở đâu ra vậy ạ?”
“Bọn ta đâu có biết tất cả mọi thứ về mẹ mày đâu, đúng không?” Bà cô Eustacia góp lời. “Bạn trai mẹ mày cho chứ từ đâu nữa.”
“Mẹ con không có bạn trai,” Charlie đáp.
“Làm sao con biết hả?” Bà cô Venetia nói, vỗ vỗ mái tóc cuộn trong quanh đầu như con rắn. “Cô ấy vẫn còn trẻ mà.”
“Mẹ con không cần bạn trai,” Charlie gằn giọng, “vì ba con vẫn còn sống.”
Một sự thinh lặng băng giá rơi tõm xuống nhà bếp. Cả bốn bà ngồi cứng đờ. Miệng họ mím chặt những đường chỉ tím tái.
Rồi nội Bone nói:
“Tại sao mày cứ bám lấy cái điều ngu ngốc ấy, hả? Ba mày chết rồi. Chúng ta đã làm đám ma đàng hoàng.”
“Nhưng không có xác,” Charlie bướng bỉnh. Nó vừa tính quay đi thì cả bốn bà cùng hét lớn”
“ĐỨNG LẠI!”
“Mày chưa nói cho chúng ta biết về Henry,” nội Bone bảo.
“Chẳng có gì để nói cả,” Charlie nói.
“Mày thật là ngang ngạnh,” bà giám thị Lucretia mắng. “Mày tưởng chúng tao không biết gì về Quả Cầu Xoắn Thời Gian à? Mày tưởng chúng tao chưa nghe chuyện lão Ezekiel Bloor đã lừa cho thằng oắt Henry, em họ của lão bị xoáy xuyên thời gian như thế nào à? Và giờ nó lại dừng lại ở Học viện, xui cho nó là trễ có vài năm thôi đấy.”
“Ha ha ha ha!” Bà cô Eustacia phá lên cười.
“Đó không phải là chuyện đùa,” Charlie nổi giận. “Sao bà lại đùa được?”
“Này!” Nội Bone quạc. “Thừa nhận là mày đã gặp nó đi!”
Charlie dậm chân một cái.
“Con sẽ không thừa nhận không cái gì hết.”
“Phải nói là ‘không thừa nhận cái gì hết” chứ,” bà cô Lucretia hét. “Ngữ pháp đâu, thằng kia! Mày sẽ không thừa nhận cái gì hả!”
“Ố ồ, rồi nó sẽ phải thừa nhận!” Nội Bone đứng nhướn cả người lên.
“Thằng kia đang ở đâu?” Bà ta rít lên. “Cuối cùng thì chúng ta sẽ tìm ra nó thôi, tao nói cho mày biết. Nhưng nếu nó không chườn mặt ra sớm, lão Ezekiel Bloor sẽ điên tiết lên mà đẩy nó đến kỷ Băng Hà thì đừng có trách đấy.”
“Còn lâu!” Charlie la lên. “Lão không thể làm được nếu không có Quả Cầu Xoắn Thời Gian.”
“Con không biết lão Ezekil Bloor có thể làm gì đâu,” bà cô Venetia thả giọng ngọt xớt, chết người của mình. “Có vài thứ kinh hãi lắm, không thể tả bằng lời. Sao con không nói cho chúng ta biết thằng nhãi Henry đó đang trốn ở đâu? Nó chẳng xứng đáng với sự trung thành của con đâu. Nó chỉ là thứ chướng tao gai mắt. Đổi lại, sao con không thể là một cậu bé ngoan nhỉ? Ta sẽ ghét ghê lắm nếu lão Ezekiel Bloor làm hại con, chó con à.”
Charlie chả biết trả lời thế nào trước những lời lẽ này. Bà cô Venetia luôn có làm cho nó mất cảnh giác bằng những lời mơn trớn. May thay, cánh cửa bật mở và Ông cậu Paton ngó vô.
“Cái gì ồn ào thế?” Ông cậu Paton hỏi. “Tôi chẳng suy nghĩ gì được cả.”
“Suy nghĩ mà đòi phải im lặng cơ đấy,” bà cô Eustacia cười khẩy.
“Đừng có ngu ngốc thế chứ,” Ông cậu Paton nói. “Làm ơn vận nhỏ âm lượng lại. Công việc của tôi đang tới giai đoạn quyết định. Tôi không sao tập trung được trong tiếng quàng quạc chói tai của đàn ngỗng cái như thế này đâu.”
“Chói tai?” Bà cô Lucretia thét chói tai.
Với giọng xem ra chừng mực hơn, nội Bone bảo:
“Chúng ta đang thẩm vấn Charlie về một điều tối quan trọng.”
“Hừ, tôi cũng cần nó làm giúp một việc tối quan trọng. Đi nào, Charlie!”
Charlie phóng nhào về phía Ông cậu với lòng vô cùng biết ơn, nhưng nội Bone vẫn không chịu chùng bước.
“Thằng ôn kia phải ở lại đây!” Nội Bone quát. “Cho tới khi chúng ta moi được sự thật.”
Ông cậu Paton thở dài. Ông hướng tầm mắt về chiếc bóng đèn treo phía trên bàn.
“Paton!” Nội Bone gào. “Cậu dám hả!”
“Tôi dám chứ,” Ông cậu Paton đáp.
Khoảnh khắc tiếp theo là một tiếng nổ nhỏ. Cả bốn bà vội chạy dạt ra khỏi bàn trong lúc một cơn mưa thuỷ tinh từ bóng đèn phụt ra và đáp xuống ổ bánh.
“Đi, Charlie,” Ông cậu Paton kêu.
Charlie lẹ làng theo sau Ông cậu ra khỏi nhà bếp, trong khi nội Bone và các bà cô, líu ríu như chim, nhảy đong đỏng, kiếm khăn ăn, nhổ miếng thuỷ tinh ra khỏi ổ bánh, và phải phủi quần áo.
“Cám ơn Ông cậu đã mang con ra khỏi đây, Ông cậu Paton à,” Charlie nói khi khép cửa phòng Ông cậu lại sau lưng.
“Không, không. Ta thật sự cần mày mà, Charlie,” Ông cậu Paton xem ra đang phấn khích vì điều gì đó.
“Ta đang thí nghiệm. Coi đây!”
Ông lấy một cuốn sách ở trên bàn, mở ra, và bắt đầu đọc. Vừa đọc, ông vừa đi tới công tắc điện gần cửa và bật bóng đèn treo ở giữa phòng lên.
Cứ nghĩ bóng đèn sẽ bể tan, Charlie vội cúi người xuống né. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả.
“Con tưởng Ông cậu tháo hết bóng đèn ra khỏi phòng rồi chứ,” Charlie nói.
“Ta đã tháo rồi, tháo rồi.” Ông cậu Paton lầm bầm, vẫn chúi mũi vô cuốn sách. “Nhưng ta vừa gắn một bóng lại xong.”
“Xong rồi sao ạ?” Charlie thắc mắc.
“Tắt đèn đi,” Ông cậu Paton bảo. “Ta không thể nói chuyện khi cùng lúc phải tập trung đọc sách.”
Trong lòng thắc mắc, Charlie tắt đèn đi. Phòng Ông cậu nó một lần nữa lại chìm trong ánh sáng lờ mờ từ chiếc đèn dầu nhỏ trên bàn.
“Thế naỳ, Charlie, mày có ngạc nhiên là bóng đèn không nổ không?” Ông cậu Paton hỏi.
“Dạ, thì cũng có,” Charlie nói. “Nhưng Ông cậu cũng có lúc không làm bể bóng đèn, đúng không ạ? Bóng sẽ không nổ khi Ông cậu, kiểu như thế nào nhỉ…, thư giãn.”
“Chính xác,” Ông cậu Paton thở ra khoan khoái. “Khi tâm trí ta bị tắt đi,” ông cười ha hả, “nếu mày bỏ quá cho lối chơi chữ đó. Khi ý nghĩ của ta ở nơi khác, kiểu như hồi nãy ấy, thì ta sẽ ít gây tai nạn nổ bóng điện hơn. Cho nên… ta quyết định rằng, nếu ta đọc sách thật mê mải khi có một cái bóng đèn điện ở đó, thì có thể nó sẽ không bể.”
“Ra vậy,” Charlie vỡ lẽ. “Thú vị thật, Ông cậu Paton.”
“Con hơn cả thú vị nữa, nhóc. Nó có công dụng đàng hoàng. Quả là phép nhiệm màu. “Ông cậu Paton hí hửng với chiến thắng. “Ta có thể ra đường vào ban ngày nếu cứ đọc sách. Ta có thể đi qua những ô cửa bày hàng sáng đèn. Ta có thể đi gần đèn giao thông mà không làm nổ chúng. Thậm chí, ta còn có thể vô được tiệm cà phê nữa… nếu ta vừa đi vừa đọc sách.”
Charlie hình dung ra ngay những trở ngại trong kế hoạch của Ông cậu. Sẽ rất nguy hiểm cho Ông cậu khi ông lang thang qua những đường phố mà không ngó lối đi.
“Cũng nguy lắm,” nó nói. “Ông cậu có thể bị xe tông.”
“Thế cho nên mới cần đến mày, Charlie. Nếu mày đi cùng với ta, mày sẽ trông chừng giùm cho ta. Ta nghĩ ngày mai chúng ta sẽ đi dạo về hướng nhà thờ, chỉ để kiểm tra lý thuyết của ta.”
“Con đoán ý Ông cậu là về hướng tiệm sách của cô Ingledew,” Charlie nói.
Mặt Ông cậu bỗng đỏ ửng lên, nhất là hai mang tai. Ông cậu bật ho một tiếng nhỏ và bảo:
“Ta không thể cưỡng lại được. Cô Ingledew cứ vương vấn mãi trong ý nghĩ của ta. Ta cảm thấy nếu cô ấy thấy ta đi bộ giữa ban ngày, thì cô ấy sẽ không nghĩ ta là thằng khùng nữa.”
“Cô ấy không nghĩ Ông cậu khùng đâu, chỉ vì cô ấy đang phải bỏ hết sức vô việc làm mẹ cho Emma thôi.”
Ông cậu Paton thở dài thườn thượt, lắc đầu.
“Không đâu, Charlie. Cô ấy sợ ta, và ai mà trách cô ấy được chứ.”
“Rồi, ngày mai chúng ta sẽ tới tiệm của cô Ingledew,” Charlie nói, một chút đắn đo đã được xóa khỏi tâm trí nó.
“Cảm ơn, Charlie!”
Vừa lúc đó, chuông điện thoại trong hành lang reng.
“Không biết có phải gọi con không,” Charlie lầm bầm.
“Ra coi đi,” Ông cậu Paton bảo, “mày cứ tin chắc là mấy bà chị của ta sẽ không chuyển bất kỳ lời nhắn nào cho mày đâu.”
Charlie chạy ra chiếu nghỉ và nhìn xuống hành lang. Vừa lúc nó trông thấy nội Bone cầm ống nghe và hét:
“Nó không có ở đây!”
Rồi bà dằn mạnh ống điện thoại xuống.
“Gọi con phải không?” Charlie hỏi.
Nội Bone ngước lên nhìn nó.
“Đương nhiên là không! Mày nghĩ mày là ai kia chứ?”
“Con sống ở đây,” Charlie nói. “Và đó có thể là bạn con muốn nói chuyện với con.”
“Hừ!” Nội Bone gầm gừ.
Các bà cô nhà Yewbeam từ trong bếp ùa ra. Họ vẫn còn vuốt vuốt áo khoác và sửa sửa mái tóc.
“Có một nhúm này,” bà cô Venetia la lên, nắm lấy một lọn tóc xám của bà cô Eustacia.
Bà cô Eustacia thét lên:
“Lấy ra! Lấy ra!”
Thật không may, bà cô Lucretia ngước lên và bắt gặp Charlie đang cười.
“Bỏ cái điệu cười ấy ra khỏi mặt mày đi,” bà ta hăm he. “Bọn ta chưa xong với mày đâu đấy.”
Ba bà cô lũ lượt đi qua cửa trước, nhưng rồi lại đứng dồn cục ở mấy bậc cấp, thì thầm to nhỏ với nội Bone.
Điện thoại lại reng, lần này Charlie xuống cầu thang và nhấc máy lên, trước khi nội Bone kịp giằng lấy.
“Alô. Cậu đó hả, Charlie?” Đó là Gabriel.
“Dạ,” Charlie thận trọng đáp.
“Có ai đó nói giọng hằn học, bảo rằng cậu không có nhà, nhưng tôi không tin.”
“Bà nội em đấy,” Charlie nói.
Nội Bone đóng cửa trước lại và đứng dòm Charlie lom lom.
“Bà ấy có ở đó không?” Gabriel hỏi.
“Có,” Charlie nói, quay lưng lại nội Bone.
“Nghe này, Charlie. Tôi có nhặt được cái này ở lối đi ngay bên ngoài nhà tôi. Đúng ra là mấy món cơ. Tôi nghĩ cậu nên tới coi đi.”
“Tụi mình gặp nhau ở đâu?” Charlie hỏi.
“Chiều mai mẹ tôi sẽ tới quán Cà Phê Thú Kiểng để giao hàng,” Gabriel đáp. “Gặp tôi ở đó nhe.”
Charlie chưa từng nghe nói đến quán Cà Phê Thú Kiểng.
“Quán đó ở đâu vậy?”
“Hẻm Con Ếch,” Gabriel đáp. “Nằm giữa Hẻm Bùn và Đường Đầm Nước. Ngay sau nhà thờ lớn.”
Quả là một tin hay ho.
“Em sẽ đi cùng với Ông cậu Paton của em,” Charlie nói. “Em đưa Ông cậu vô quán được không?”
“Được. Ông cậu làm bể kính ấy phải không? Ông ấy thật tuyệt vời.”
“Đúng rồi.”
“Tuyệt. Tôi đi đây. Gặp lại cậu vào ngày mai nhé, khoảng ba giờ. Úi da. Chuột cắn tôi. Tạm biệt!”
Có một tiếng “soạt “ lớn. Hình như Gabriel đánh rớt ống nghe.
Charlie ngó quanh thì nội Bone đã đi rồi. Nó ghé vô nhà bếp. Bà không có ở đó, nên Charlie tự lấy cho mình một ít đồ ăn nhanh và ngồi xuống. Chiếc bàn đã được dọn sạch mảnh thủy tinh, nhưng có vật gì đó đang nằm ở chỗ hồi nãy đặt ổ bánh nướng: một bức hình nhỏ, lật úp. Charlie đoán chắc chắn bức hình nằm đó là có chủ đích. Vốn biết rõ mấy bà cô, nó tin đấy là một cái bẫy. Nhưng là loại bẫy nào nhỉ? Nó tập trung vô đồ ăn, ráng không nhìn vô bức ảnh.
Và rồi nó lại thắc mắc liệu đó có phải là cái bẫy thật không. Dần dần, ánh mắt của Charlie bị kéo vô miếng kim loại đen xỉn ở mặt sau bức hình. Trông nó cũ mèm – khung gỗ nứt nẻ và chi chít những lỗ mọt, đinh ốc rỉ sét và dây treo bị đứt.
Charlie hít mạnh một hơi và lật khung hình lên. Nó thấy một bức tranh nhỏ vẽ một căn phòng. Nhưng mà loại phòng gì? Nó không thể nhịn được, xem xét kỹ các chi tiết.
Ở bên phải bức tranh, một người đàn ông cao, mặc áo chùng đen đang nhìn cái đầu lâu nằm dưới chân mình. Bộ râu quai nón đen rì của ông ta lốm đốm những sợi bạc. Ông đội một chiếc mũ chỏm đen, giống như mũi của giám mục, trùm lên mái tóc ánh bạc. Một chiếc bàn trải khăn đỏ đứng trong hốc tường, phía sau người đàn ông. Trên bàn bày la liệt những sách, tô, lông vũ, những đống thảo mộc, sừng thú, và các loại vũ khí sáng loáng. Phủ đầy những bức tường đá trần trụi là các biểu tượng kỳ lạ, và người đàn ông trong tranh đang vẽ một thứ khác: một ngôi sao năm cánh.
Charlie thấy mình cứ dòm chòng chọc vô cái đầu lâu. Nó cố dứt mắt ra nhưng không được. Thế rồi nó bắt đầu nghe được những âm thanh: một giọng như tụng kinh trầm thấp bằng một ngôn ngữ lạ; tiếng phấn lạo xạo vẽ lên tường: tiếng chiếc áo chùng cứng sột soạt. Rồi, bất thình lình, người đàn ông ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vô mắt Charlie!
Charlie há hốc miệng, vội ụp bức tranh xuống. Ngoài đường, có tiếng cửa xe hơi đóng sầm lại. Nó nghe thấy tiếng mẹ nó. Tiếng một người đàn ông nói và mẹ nó cười phá lên. Mẹ rất hiếm khi cười! Người đàn ông đó vừa nói gì, và ông ta là ai?
Khi mẹ nó bước vô nhà bếp, Charlie như vẫn còn thấy đôi mắt vàng của người đàn ông mặt áo chùng đen, đang gắn chặt vô nó bằng ánh nhìn ngạo nghễ.
“Charlie, con có làm sao không?” Mẹ Charlie hỏi. “Trông con xanh quá.”
“À… con…”
Charlie sờ sờ mặt sau bức tranh. Nó không sao giải thích được cái gì đã xảy ra với mình, cho nên nó hỏi:
“Mẹ vừa đi đâu về vậy?” Giọng nó đầy vẻ cật vấn mà nó không sao kìm nén được.
“Mẹ vừa mới đi xem kịch Những cái trống thần. Mẹ muốn đưa con đi cùng bọn này, nhưng con không có ở nhà. Sao thế Charlie?”
“Bọn này?” Charlie hỏi, nghe còn dằn dỗi hơn. “Ai là bọn này?”
“Chú Bob Davies và mẹ,” mẹ Charlie mỉm cười khích lệ. “Chú ấy có ba vé và đáng lẽ con cũng đi cùng mà. Mẹ không thấy con ở nhà, nhưng mẹ không thể vì thế mà làm chú ấy thất vọng, đúng không?”
“Chú Bob Davies là ai?” Charlie hỏi, tự thấy ghét cái giọng rít lên của mình.
“Charlie, con làm sao vậy?” Mẹ nó kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống bên cạnh.
“Chú Bob Davies chỉ là một người bạn, một người dễ mến và muốn đưa mẹ con mình đi xem kịch. Sao con lại cộc cằn vậy?”
Charlie xấu hổ.
“Con xin lỗi mẹ. Con… gặp chuyện, mới lúc nãy. Mấy bà cô để lại các kia kìa.”
Nó hất đầu về phía bức tranh, thậm chí còn không muốn chạm vô.
Mẹ nó cầm bức tranh lên, đọc những biểu tượng loằng ngoằng ở cuối tấm hình.
“Thầy phù thuỷ.”
Lúc nãy Charlie không để ý là bức tranh có đề tựa.
“Con nghĩ đó là một cái bẫy,” nó lẩm bẩm.
“Bẫy gì, Charlie?”
“Con không biết,” nó cẩn thận úp bức tranh lại.
“Thế này vậy,” mẹ nó vỗ vỗ vai. “Mẹ chạy ù lên lầu, thay quần áo rồi hai mẹ con mình uống một tách trà thật ngon trước khi con đi ngủ nhé?”
“Vâng,” Charlie đáp, tự hỏi liệu một tách trà thì có thể xóa được ký ức về con mắt của thầy phù thuỷ kia không.
Nó chú ý đến ánh sáng lấp lánh từ những khoen xê-quin trên váy mẹ nó khi mẹ nó cởi nút áo khoác ra.
“Mẹ ơi, ba con có thể chưa…”
Mẹ nó quay lại:
“Có thể chưa cái gì con?”
“Có thể chưa chết,” Charlie lặng lẽ đáp.
“Ôi, Charlie, lạy Chúa. Dĩ nhiên là ba con chết rồi.”
Mẹ nó hôn phớt lên má nó một cái và vội vã đi. Xem ra mẹ không u phiền như thường lệ mỗi khi nghĩ đến ba nó. Điều này khiến Charlie đâm lo.
Mẹ Charlie vừa đi được vài giây thì Ông cậu Paton thò đầu vô, lấp ló ở cửa. Ông cầm một ngọn nến đang cháy.
“Ta đói bụng,” ông nói. “Ta tắt đèn đi mày không phiền chứ, Charlie?”
Charlie lắc đầu. Bóng đèn trên đầu nó vụt tắt và Ông cậu Paton bước tới tủ lạnh. Ông lấy ra một dĩa thịt nguội với cà chua. Ông đặt chiếc dĩa và nến xuống bàn. Vừa tính ngồi xuống thì ông trông thấy bức tranh lật úp.
“Hy vọng nó không phải là thứ ta nghĩ,” Ông cậu Paton thì thầm.
“Ông cậu nghĩ nó là cái gì?” Charlie nói, chột dạ trước vẻ nghiêm nghị của Ông cậu.
“Ta rất sợ nó là…” ông lật bức tranh lên và thở dài. “Đúng rồi, ta biết ngay mà. Ta tin là mấy bà chị ta đã để nó ở đây.”
“Đó là một người trong gia đình?” Charlie hỏi.
“Đúng thế. Tên hắn là Skarpo,” Ông cậu Paton nói. “Và hắn là một phù thủy rất hùng mạnh.”
“Ông cậu Paton, phép thuật… của… của… con,” Charlie ngập ngừng. “Con tưởng nó chỉ có tác dụng với hình chụp thôi chứ.”
Ông cậu Paton ngó Charlie:
“Có nghĩ là mày đã nghe thấy…?” Ông chỉ vào thầy phù thủy. “Người đàn ông này nói gì vậy?”
“Không rõ lắm,” Charlie bối rối. “Con chỉ nghe…”
“Charlie!” Ông cậu Paton vội úp bức tranh vẽ xuống bàn, thật mạnh. “Con không đi vô đấy chứ?”
“Đi vô?” Charlie hoang mang. “Ý Ông cậu là vô cái gì? Con đang nhìn bức tranh thì… thì ông ta quay đầu lại và nhìn con trừng trừng.”
Ông cậu Paton tỏ vẻ lo lắng và bồn chồn.
“Vậy là hắn đã nhìn thấy con,” ông nói rành rọt.
Và trong lúc Ông cậu Paton nói, Charlie bỗng nghe có tiếng gió rít lạnh căm. Nó nghe tiếng xích sắt va vô nhau loảng xoảng, cùng tiếng tụng kinh rin rít, khô khòng khọc của Skarpo, thầy phù thủy.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...