NƯỚC MẮT NHÀ VUA
Vào lúc hai giờ chiều Chủ nhật, mẹ Charlie rời nhà. Chiếc limousine vàng óng đang chờ cô.
Từ cửa sổ phòng mình, Charlie nhìn mẹ đi vào xe hơi. Nó tự hỏi liệu chiếc gương vỡ có tác dụng gì không. Có lẽ không còn thời gian để ngăn chặn tên bá tước đánh cắp mẹ nó.
“Charlie!” Ông cậu Paton gọi từ ngưỡng cửa. “Có ai gọi con này.” Ông chìa cái điện thoại di động của ông ra cho nó.
Giọng của Gabriel rỉ ra rừ chiếc điện thoại khi Charlie dí tai vào, “Charlie, em muốn biết về tấm áo choàng, nhưng em lại không đến quán cà phê.”
“Em bị trễ, Gabe à. Nói cho em biết đi, anh đã thấy cái gì?”
“Anh không thấy nhà vua gì hết, anh thấy một cái cây. Lá của nó vàng rực như thể đang bốc cháy vậy.”
“Em biết rồi.”
“Em biết rồi hả?” Gabriel nghe có vẻ thất vọng.
“Em đã tìm thấy câu một thần chú. Em muốn kể cho tất cả mọi người nghe nhưng em đến trễ.”
Một tiếng rầm bất chợt vang lên và Charlie suýt nữa đánh rơi cái di động. “Xin lỗi,” một giọng nói nghẹt nghẹt, “lũ chuột sổng ra. Anh phải đi. Gặp em lúc bốn giờ nhé.”
“Tạm biệt…” Charlie trao lại cái điện thoại cho ông cậu. “Gabriel thấy một cái cây.”
“Vậy là có chứng cớ thuyết phục,” Ông cậu Paton đút chiếc điện thoại vào túi quần.
“Tại sao chúng ta không đi ngay lúc này đi?” Charlie nôn nóng. “Tại sao phải chờ cho đến tận bốn giờ?”
“Hoàng hôn,” Ông cậu Paton nói. “Ngoài ra, còn nhiều người khác liên quan. Tất cả mọi thứ cần phải đâu vào đó. À mà, con phải cầm theo cái này,” ông giơ ra một cái lọ thủy tinh nhỏ.
“Để làm gì ạ?”
“Phòng trường hợp tất cả mọi thứ đều thất bại.”
“Ông cậu Paton, con ước gì ông đừng đánh đố con nữa,” Charlie cầm cái lọ và đút vào túi quần.
“Nghe đây, Charlie câu thần chú này… những con số không được đúng ngay từ đầu. Ông Onimous đã hơn hai mươi tuổi nhiều rồi – có thể vì thế nó sẽ không linh nghiệm như chúng ta hy vọng,” Ông cậu Paton nhún vai. “Hãy giữ kĩ cái lọ. Để hứng nước mắt của nhà Vua.”
Charlie trải qua một tiếng đồng hồ tiếp theo trong nỗi hồi hộp cực độ. Cuối cùng nó không chịu nổi nữa, bèn đấm thình thình vào cánh cửa phòng Ông cậu và hét om, “Chúng ta đi được chưa, Ông cậu Paton?”
Nội Bone nhoài người ra khỏi phòng tắm và hạch hỏi xem cái gì mà ỏm tỏi vậy. Charlie hầu như đã quên phéng sự tồn tại của bà nội và hình thù hiện ra đột ngột của bà khiến nó bị sốc.
“Xin… xin lỗi, nội,” Charlie lắp bắp. “Ông cậu và con định đi dạo.”
“Vào giờ này trong ngày? Đừng có điên,” nội Bone nói.
Ông cậu Paton mở phòng mình ra, “Nó không điên đâu.Chúng tôi đi ra công viên đây.”
“Mi còn ngu hơn nó nữa,” bà chị sỉ vả, “Mi sẽ gây ra tai nạn cho coi, vả lại nhân tiện nói luôn,” bà tiếp, “ta đã thu xếp để dời bà Maisie đi rồi.”
“Dời đi!” Charlie thất kinh. “Đi đâu?”
“Ta không thể để mụ ấy làm tắc nghẽn nhà tắm lâu thêm được nữa,” nội Bone chỉ nói có thế.
“Grizelda!” Ông cậu Paton gầm lên. “Sao bà dám nói về bà Maisie như thế. Bà ấy là người đáng kính. Bà đã sắp xếp cái gì? Nói cho tôi biết ngay lập tức.”
“Úi chà chà! Chúng ta hôm nay ai nầy đều hăng tiết cả nhỉ,” nội Bone trịch thượng cười khẩy. “Nếu mi cần biết thì ông Weedon tốt bụng đã đồng ý đến đây vào ngày mai để hốt mụ Maisie kia đi. Ông ta sẽ mang túi đựng xác tới cho nó khỏi rỏ nước ra thảm, sau đó ông ta sẽ đem mụ Maisie biến…” bà ta dừng lại một cách kịch tính, “… đi đâu đó.”
“Lão ta đừng hòng làm thế nhé,” Ông cậu Paton tuyên bố. “Nếu lão Weedon mà dám động đến bà Maisie thì tôi sẽ quẳng lão xuống cầu thang.”
“Hy vọng hão huyền,” nội Bone dè bỉu. “Cơ bắp ông ta rắn như sắt.” Bà ta cười mỉa mai và lướt vào phòng mình.
Ông cậu đứng sựng đó, cứng họng, điên tiết, cánh tay thõng đờ xuống hai bên hông và nắm tay gồng cứng lại.
“Đi đi, ông cậu,” Charlie giật giật ống tay áo ông. “Chúng ta đi thôi.”
Trước khi họ rời nhà, Charlie đem con bướm trắng vào phòng tắm và thả cho nó muốn bay đâu tùy ý. Nó đến đậu bên những lọn tóc đông cứng của ngoại Maisie.
“Canh chừng cho bà an toàn nhé,” Charlie bảo con bướm trắng.
Bước đi giữa thành phố vắng hoe ngày Chủ nhật, Charlie cảm thấy như toàn bộ thế giới của mình như sắp sụp đổ tới nơi.Nếu câu thần chú không linh nghiệm thì nó sẽ đi về đâu?
Không khí ở quán Cà Phê Thú Kiểng đã làm nó lên tinh thần đáng kể. Mọi bàn đều đã có người ngồi và quán cà phê náo nhiệt tiếng chuyện trò rôm rả, đúng như mong đợi. Gia đình Onimous tất bật cố phục vụ chu đáo cho tất cả mọi người; họ di chuyển thoăn thoắt phía sau quầy, múc thêm đồ ăn vào tô, dọn món cho bọn thú cưng cần chế độ ăn kiêng đặc biệt, châm trà…
Đại gia đình Gunn chiếm nguyên một cái bàn. Charlie nhận thấy họ thậm chí còn mang theo nhạc cụ. Fidelio vẫy nó lại và bảo, “Em biết đấy, tụi này nghĩ sẽ giải trí cho tất cả mọi người, trong khi các bạn cứ làm điều gì đó các bạn định làm.”
“Ý hay tuyệt!” Charlie nói, nhìn quanh quán cà phê, “Em không thấy đứa nào nhà Loom cả.”
“Anh nghe nói chúng gặp rầy rà với lũ chó của chúng,” Fidelio nói, rồi chạy qua cô em út, Mimi! Chúc Charlie may mắn đi!”
Khi nghe vậy, toàn thể thành viên của gia đình Gunn liền đồng ca, “Chúc may mắn, Charlie Bone!”
Nhiều vị khách quay hướng nhìn về hướng Charlie. Nó đỏ bừng mặt, rút lui khỏi cái bàn đông đúc của gia đình Gunn và ngồi xuống giữa Benjamin và cô Brown.
“Cả ba của Lysander cũng đến,” Benjamin bảo Charlie. “Nhìn kìa, Homer đang đậu trên đầu ấy.”
Charlie ấn tượng quá chừng, nhất là khi ông thẩm phán gật đầu một cái thân thiện với Ông cậu Paton khi Ông cậu nó đi ngang qua. Các vị khách khác của quán có ngạc nhiên trước lượng người đông đúc thì không bộc ra, cho đến khi Tancerd cùng cha mẹ xuất hiện. Ngay khi nhà Torsson đặt chân vào quán cà phê, một luồng gió lạnh cắt da lùa vào khiến mọi con thú kiểng nhao nhác chạy đi tìm chỗ núp.
“Xin lỗi!” Ông Torsson nói như sấm rền. “Chúng tôi không cố ý. Chỉ vì không kiềm chế được.” Ông ngồi xuống bên cạnh ông thẩm phán, người mà ông biết rất rõ, trong khi vợ ông len vào ngồi bên bác Sage gái, Tancred ngồi chung một ghế với Lysander.
Billy đã ngồi vào bàn cùng với gia đình Silk và Rembrandt, ở chính giữa bàn – con chuột này đang khoái trá gây sự chú ý với mấy cô chuột cảnh.
Cô Vertigo ăn mặc lôi thôi lếch thếch có phần quá trớn.Trong mái tóc giả màu xám, chiếc áo mưa màu nâu rách tươm và bộ mặt lem luốc, nhợt nhạt, hẳn là chẳng ai nhận ra cô nếu như không có Olivia đi cùng. Cô Ingledew giật mình đánh thót, ngỡ ngàng khi nhận ra người đang ngồi kế bên mình là ai.
“Em không biết anh đã nói gì với tất cả mọi người,” cô Ingledew thì thào với Ông cậu Paton khi ông kéo ghế ngồi cạnh cô, “nhưng chắc chắn là đã có tác dụng rồi đấy.”
Ông nháy mắt và bóp nhanh bàn tay cô một cái.
Charlie lia khắp phòng tìm Naren. Không có dấu hiệu nào cho thấy có cô bé. Nó đá ánh mắt tuyệt vọng qua Ông cậu và lắc đầu.
“Có chuyện gì vậy?” Cô Vertigo hỏi bằng giọng bà già gấp ba tuổi cô.
“Tôi nghĩ Charlie đang cố nói cho tôi biết người chúng tôi trông chờ sẽ tới lại chưa tới,” Ông cậu Paton đáp. “Tuy vậy, điều đó không hề làm tôi ngạc nhiên.” Ông vừa nhìn ra cửa sổ vừa nói câu này, và một vẻ nhẹ nhõm pha lẫn sửng sốt nháng qua mặt ông lúc ông Bartholodew Bloor bước vô. Theo sau là Naren và mẹ cô bé.
Ông Bartholodew trông thấy Ông cậu Pton ngay tức thì. Ai mà có thể bỏ qua được người đàn ông đeo kính đen cao hơn hết thảy mọi người hẳn một cái đầu! Nhà thám hiểm bước thẳng đến Ông cậu Paton và dấm dẳn, “Paton, ta muốn giới thiệu anh với vợ ta, Meng, và con gái ta, Naren.”
Ông cậu Paotn đứng lên và tất cả cùng bắt tay nhau.
“Ta cũng muốn xin lỗi,” ông Barhtolomew tiếp, hơi lóng ngóng. “Charlie khiến ta phải nhìn lại và ta muốn chú biết rằng ta không giống như những người còn lại trong gia đình ta.”
“Dĩ nhiên là không,” Ông cậu Paton bắt tay ông Bartholodew bằng cả hai tay.
Ông Bartholodew hạ thấp giọng và nói, “Nào, giờ thì mọi người muốn chúng tôi làm gì đây trong khi những đứa trẻ khác… đều có việc?”
“Không làm gì cả, Barth à,” Ồng cậu Paton đáp. “Chỉ cảnh giác thôi.Tôi nghĩ chúng ta sẽ bắt đầu ngay thôi.” Ông nhìn đồng hồ rồi nói với Naren. “Cháu thân mến, cháu hãy tới Charlie và bảo cậu ấy, bảo khẽ thôi, là đã đến giờ rồi, được không? Sau đó hãy đi cùng cậu ấy đến quầy. Cậu ấy sẽ biết phải làm gì tiếp theo.”
“Vâng, thưa ông Yewbeam.” Với nụ cười háo hức, Naren len ra chỗ Charlie và nói, “Tới giờ rồi.”
Charlie đứng lên và Benjamin nói, “Chúc may mắn, Charlie!”
Khi Charlie và Naren bước về phía quầy, Charlie vỗ vai Tancred và Lysander. Hai anh lớn không để lộ cảm xúc gì, nhưng chỉ một phút sau khi Charlie và Naren biến mất nơi vòng cua của quầy, Tancred đã khều lưng Billy và Gabriel khi anh bước đằng sau chúng.
Nhà bếp của gia đình Onimuos dần dà chật kín những đứa trẻ được ban phép thuật. Không nghe một tiếng nói nào. Mỗi đứa đều nhận thức rõ, rằng đây có lẽ là ngày trọng đại nhất cuộc đời mình.
Bà Onimuos đã cho Una uống một tách trà cúc an thần và cô bé đã nhu mì hơn thường ngày rất nhiều, mặc dù đôi mắt đen cứ lấp la lấp lánh đầy háo hức.
Charlie nhận thấy vài đứa liếc nhìn Naren một cách ái ngại, nó vội vàng giới thiệu cô bé là một người bạn giấu mặt bấy lâu nay. “Bạn ấy cũng có tài phép vô cùng kỳ diệu,” nó thêm.
Khi tất cả chín đứa trẻ đã tập hợp đủ, ông Onimous hắng giọng và làm một bài diễn văn nho nhỏ. “E hèm! Tất cả chúng ta đều biết tại sao chúng ta ở đây, nhưng trước khi đi xa hơn, tôi chỉ muốn nói rằng bây giờ tôi sẽ chỉ cho các bạn một nơi mà suốt bao thế kỷ nay vẫn còn là chốn bí mật. Đó là một đường hầm mà chỉ có gia đình tôi biết, với ngoại lệ là Charlie và Billy. Đường hầm đó sẽ dẫn vào lâu đài của Vua Đỏ. Tôi yêu cầu các bạn làm ơn giữ bí mật giùm. Các bạn có ý kiến gì không?”
Tất cả bọn trẻ đều long trọng thì thầm, “Vâng, thưa ngài.”
“Xin cảm ơn. Tôi sẽ dẫn đường cùng với Una. Tôi đề nghị tất cả các bạn hãy đi theo hàng một,” ông Onimous nhấc cái đèn lồng ở trên bàn và đi tới một cái cửa nhỏ ở đầu kia nhà bếp.
“Xin lỗi,” Tancred lên tiếng. “Nhưng có ai biết chúng ta sẽ đi đâu một khi đã đến khu đổ nát chưa?”
“Em biết,” Emma nhỏ nhẹ. “Có hai bức tường cổ, có lẽ chỉ rộng cỡ hai người đi lọt.Ta sẽ đi vô giữa hai bức tường đó.Chúng chạy thẳng thẳng tắp được chừng nửa dặm, rồi sau đó lượn vòng, lươn vòng, giống như ở trong vỏ ốc sên vậy; nhà vua ở trong một mảng trống cuối vòng trôn ốc ấy.”
Nghe nhắc tới nhà vua, tất cả bọn trẻ đều nghiêm trang đứng xếp vào hàng. Ông Onimuos mở cánh cửa ra và Charlie, bám ngay sau ông, thấy mình đã đứng trong cái nhà kho quen thuộc.Tới hang động có một bao khoai tây che giấu cánh cửa bí mật, ông Onimuos chờ cho đến khi tất cả đám trẻ đều quây quần trong căn phòng nhỏ đầy nấm mốc.
“Chúng ta sắp đi vào đường hầm,” ông Onimous nói gần như thì thầm. “Hãy chú ý. Rất tối và ẩm ướt, và có rất ít không khí. Quãng đường đi khá dài đấy, Lysander, anh chàng thân mến, ta đề nghị anh đi cuối cùng, với Tancred. Những người khác có thể đi bất cứ vị trí nào ở giữa hàng. Lysander sẽ đóng cửa lại khi tất cả chúng ta đã đi qua. Tất cả đã sắn sàng rồi chứ?”
Cả đám gật đầu. Vài đứa còn nói, “Rồi ạ, thưa ngài.”
Ông Onimuos vật cái bao khoai to tướng ra khỏi bức tường, để lộ một cánh cửa rất thấp, rất cổ. Người đàn ông bé nhỏ mò tìm trong áo khoác bằng len của mình, lôi ra một chiếc chìa khóa nhỏ xâu vào sợi dây bằng vàng. Tra chìa khóa vào ổ, ông vặn nó một vòng và cánh cửa mở bật vào trong, nghe một tiếng kịch rất lớn. Cánh cửa không cao hơn ông Onimuos là bao, và mấy đứa con trai lớn phải cúi đầu mới chui lọt.
Giơ chiếc đèn lồng lên cao hết cỡ, ông Onimuos nắm chặt tay Una và mở đường đi tới trước. Emma bước đằng sau họ, sẵn sàng chỉ đường một khi họ vào đến khu đổ nát. Naren đi theo sau Emma, Billy lũn cũn đằng sau Naren. Tiếp đến là Charlie, Olivia, Gabriel và Tancred. Lysander đi bọc hậu.
Tất cả mọi chi tiết ông Onimuos đã mô tả về đường hầm đều chứng tỏ là có thật – có điều không đứa nào ngờ là nó còn tối hơn, ẩm ướt hơn và ngột ngạt hơn. Gabriel bắt dầu ho. Charlie hít thở thật sâu và dựa người vào bức tường nhớp nháp để giữ bình tĩnh. Olivia hét khẽ một tiếng khi vấp phải một hòn đá, bổ nhào vào Charlie và ngã oạch xuống đất.
“Tớ không thấy gì cả,” con nhỏ rên rỉ.
”Đằng ấy không thể nào không mang ủng nhọn hoắt thì phải?” Charlie trách móc, kéo con nhỏ đứng lên.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...