Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8)

“Con gái ông ấy, Ita?” Chú Lyell nói. “Bà ấy là ai trên đời này cơ chứ? Cháu đã từng nghĩ là ông Daniel để lại tất cả cho con trai, là Hugh, người đã trao chiếc hộp này cho cha của Billy, để chứng minh rằng anh ấy sẽ thừa kế tài sản của dòng họ Bloor, nếu bản di chúc thật của ông Septimus được tìm thấy.”
“Đúng là tôi cũng đã tưởng như vậy,” Ông cậu Paton tán thành. “Tôi muốn hai người xem cái này.” Ông dẫn cha con Charlie ra ngồi xuống băng ghế đằng trước, họ ngồi hai bên ông trong khi ông lôi từ trong túi áo ra một tờ giấy gấp lại. “Đây là những gì tôi đã khám phá trong những chuyến nghiên cứu dài ngày của mình,” ông nói, trải rộng tờ giấy lên đùi.
Charlie và ba nó chụm đầu vô tờ giấy. Không có gì để xem ngoài một đường thẳng theo hàng dọc những cái tên, bắt đầu từ người con cả của ông Daniel Raven, Ita, bà này sinh vào năm 1899 đã cưới một người tên là Simon Bone.
“Bone!” Charlie và ba nó cùng ồ lên.
Và đó, bên dưới Ita và Simon, là tên con trai của họ, Eamon, ông này cưới một bà tên là Clara Lyell. Rồi bên dưới Calra và Eamon là tên con trai của hai người, Montague Bone, người đã cưới Grizelda Yewbeam vào năm 1961, và chết vài năm sau đó.
“Cha của cháu,” chú Lyell nói chậm rãi.
“Ông ấy đã để lại tất cả mọi thứ ông sở hữu cho anh,” Ông cậu Paton bảo.
Họ ngồi thật lâu trong ngôi thánh đường yên ắng, cố hiểu cái tin tức trọng đại này.
“Vậy là Học viện Bloor là của ba, ba à”, cuối cùng Charlie nói.
Ba nó nhăn mặt. “Ba nghĩ là vậy. Nhưng chúng ta sẽ chứng minh điều đó bằng cách nào?”
“Đơn giản thôi, tôi hy vọng vậy,” Ông cậu Paton nói. “Tôi đã có hẹn gặp thẩm phán Sage vào sáng mai.”
Ngày hôm sau, chú Lyell Bone và Ông cậu Paton đem chiếc hộp đựng giấy tờ tới gặp cha của Lysander, thẩm phán Sage. Ông nổi danh là một trong những thành viên uyên thâm và không có thành kiến nhất trong hệ thống tòa án, và ông không cần mất nhiều thời gian đã tuyên bố rằng chú Lyell Bone là người thừa kế không thể chối cãi khối tài sản của ông Septimus Bloor. Dĩ nhiên ông sẽ phải đưa vụ việc này ra tòa, nhưng thẩm phán nghĩ rằng chú Lyell sẽ có cơ hội tuyệt vời để thắng kiện hoàn toàn.
“Chúng ta buộc phải báo cho những người chủ hiện tại của Học viện Bloor rồi,” Ông cậu Paton nhận xét một cách hài hước.

Charlie muốn hộ tống cha và ông cậu trong chuyến đi tới Học viện Bloor, nhưng chú Lyell e ngại không muốn cho nó đi theo. “Tất cả những nỗi thống khổ gần đây thành phố phải gánh chịu đều bắt nguồn từ gia đình đó,” chú Lyell nói, đặt tay lên vai con trai. “Đó là sào huyệt của quỷ, Charlie à, ba không biết bọn chúng sẽ còn giở trò gì khi chúng vỡ lẽ ra bản di chúc của ông Septimus đã được tìm thấy.”
“Cho con đi đi mà!” Charlie năn nỉ. “Con muốn tới đó. Dù sao con cũng là người mở chiếc hộp chứ bộ.”
Chú Lyell bật cười. “Thôi được. Con đã thắng ba, Charlie, nhưng hãy nhớ là chỉ được làm những gì ba bảo thôi đấy.”
Charlie long trọng hứa. Thế là đến xế chiều, trước khi đèn đường bật sáng, Ông cậu Paton, Charlie và ba nó đi tới học viện Bloor. Họ vừa đi tới quảng trường thì một chiếc xe hơi mầu đen xồ ra. Nó khựng lại một thoáng để rẽ vô đường Đồi Cao và Charlie thấy gã Weedon ở đằng sau tay lái. Bên cạnh gã là bà vợ, và trong hàng ghế sau là thân hình không thể lầm lẫn được của Norton Cross trong áo jacket vẽ voi. Bên cạnh gã này nữa là một người ngồi tùm hụp, che mạng bằng vải đen kín mít. Cho tới khi chiếc xe lái xa khỏi họ Charlie mới thấy hành khách thứ tư. Một gương mặt trắng bợt, nhỏ quắt ngó ra đằng sau cửa sổ và rồi vụt biến khỏi tầm nhìn.
“Joshua,” Charlie lầm bầm
“Và hình như là mẹ nó,” Ông cậu Paton nói. “Tất cả bọn chúng đang tẩu thoát.”
“Chuột và tàu chìm đi với nhau,” chú Lyell nói hờ hững.
Gã Weedon đã không thèm đóng cửa Học viện Bloor sau khi đi ra. Ba vị khách bước vô tiền sảnh tối tăm mà không mất công gõ cửa. Và lần cuối cùng trong đời, Charlie rùng mình trước âm khí dường như bao trùm toàn bộ tòa nhà. Quả đúng đây là sào huyệt của quỷ, và chủ mưu của tất cả mọi trò hiểm độc đang ngồi trong xe lăn của lão, đang trừng mắt ngó xuống họ từ chiếu nghỉ trên đỉnh dãy cầu thang. Cứ như là lão đang chủ ý đợi họ
“Tao nghĩ chúng mày đến để khoe khoang,” lão quát. “Nhưng chúng mày chưa thắng đâu. Chúng mày đã kết liễu bá tước Harken. Nhưng vẫn còn tao ở đây, mà tao thì đừng hòng lay chuyển.”
“Chúng tôi có bản di chúc, ông Ezekiel,” chú Lyell nói. “Bản di chúc thật. Tất cả đã kết thúc rồi.”
“Không bao giờ!” Lão già rú gào.
“Tôi e rằng, ông Ezekiel,” Ông cậu Paton nói, “ông sẽ phải sống những ngày cuối đời trong nhà dưỡng lão.”
“Không đời nào. Tao quyết ở lại!” Lão Ezekiel bắt đầu cười khùng khục, không sao kìm chế được. “Manfred sẽ bảo đảm cho điều đó. Nếu bọn bay nhích thêm một bước nào nữa, nó sẽ thiêu rụi nơi này, tụi mày nào có muốn thế, phải không?”

Những lời của lão vừa dứt, Manfred bước ra khỏi bóng tối dưới gầm cầu thang. Hai tay hắn giơ lên không, mỗi ngón tay đều có lửa đang cháy rực như một ngọn đuốc. “Không được lại gần,” hắn cảnh báo. Tài phép kinh khủng của tổ tiên hắn, Borlath, con trai cả của Vua Đỏ, cuối cùng đã hiển linh ở Manfred.
Chú Lyell dũng cảm tiến một bước về phía Manfred.
“Ba, không!” Charlie thét, ngó chòng chọc những ngọn lửa đang nhảy nhót trên những ngón tay của Manfred.
“Húuu!” Manfred rít lên nhức óc, và những ngọn lửa cháy cao hơn nữa. “Đám mèo chết nhát!”
Sự việc xảy ra tiếp theo quá kinh hoàng, đến nỗi Charlie không thể tin vô mắt mình. Vì bỗng nhiên lão Ezekiel bắn vèo xuống cầu thang. Những bánh xe lăn đáp thịch, thịch, xuống từng bậc thang, một bậc, hai bậc, rồi lão bật tưng trên không. Choáng sốc đến nỗi không né được, Manfred chỉ biết khiếp đảm tại chỗ, nhìn sững cái khối đang bay trên không. Khi bị cái khối đó đáp trúng người, hắn phọt ra một tiếng thét lộng óc mà mãi về sau này vẫn còn âm vang trong đầu Charlie.
Lão Ezekiel lăn ra khỏi ghế ngồi của lão, hự lên một tiếng dài, sau đó nín bặt. Những ngọn lửa đang cháy èo uột trên một bàn tay thò ra từ cái đống lộn xộn ấy kêu xèo một cái rồi tắt ngúm.
Ba vị khách tức thời cũng bàng hoàng đến không thể nói được, sau đó Ông cậu Paton lắp bắp. “Cái quái gì thế?”
Charlie đã nhìn thấy thủ phạm, hay đúng hơn, vị cứu tinh của họ, tùy theo người ta nhìn nhận nó thế nào. Một con chó ú ị, lún chún đứng ở bậc cầu thang trên cùng, ngúc ngoắc cái đuôi ốm tong teo. “May Phúc!” Charlie thét to. “Chú chó trong ngày!”
Ông cậu Paton rút điện thoại di động ra và bấm số gọi xe cứu thương. Trong khi ông gọi điện, Charlie để ý thấy một dáng người đậm chắc đứng bên cánh cửa dẫn vô chái phía Tây. Tiến sĩ Bloor tiến về phía cái đống gỗ và xương lùng nhùng. Thật khó mà đọc được biểu cảm của ông ta, nhưng ông ta không chạm vô cái nào trong hai cái xác.
“Ấy là con chó,” chú Lyell nói. “Chắc nó đã đẩy chiếc xe.”
“Từ lâu tôi đã biết rằng một ngày nào đó nó sẽ làm điều này,” tiến sĩ Bloor nói với vẻ chán nản. Ông ta ngước lên nhìn May Phúc,vẫn đang khoái chí ngoáy đuôi. “Tôi phỏng đoán là các người đã tìm thấy bản di chúc.”
“Đúng thế”, chú Lyell đáp.
Tiến sĩ Bloor thở dài đánh thượt. “Tôi sẽ không gây bất kỳ phiền toái nào cho anh. Giờ chỉ vô ích thôi. Tôi sẽ đi đóng gói hành lý”

“Cảm ơn ông”, chú Lyell nói.
Vào ngày lễ Phục sinh, ông Paton Yewbeam và cô Ingledew cưới nhau tại một nhà thờ nhỏ ở ngoại ô thành phố. Người tham dự đông đến nỗi phải đứng ra tới tận cửa; bên ngoài nhiều người hát hò dưới những bóng cây anh đào nở rộ. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng về sống hòa thuận trong một gian phòng thắp nến ở trên lầu của tiệm sách Ingledew. Emma vô cùng sung sướng với sự sắp đặt mới này.
Billy Raven không hề hay biết gì về việc nó là người thừa kế hụt khối tài sản của gia đình Bloor. Trong khi Charlie và ba mẹ đang thu dọn đồ đạc ở nhà số 9, Billy sống với Benjamin. Nhưng sau vài ngày bị Hạt Đậu rượt đuổi khắp nhà, Rembrandt bảo với Billy rằng chú ta không thể chịu đựng nổi thêm một ngày nào nữa ở ngôi nhà ấy. Vì vậy Billy chuyển tới tiểu trang trại của gia đình Silk ở khu Đồi Cao. Nó mê mải nói chuyện với rất nhiều thú nuôi của gia đình Silk, nhưng các chị của Gabriel không ngừng than vãn rằng họ cần chỗ rộng hơn, cho dù ông và bà Onimous đã dọn về lại quán cà phê Thú Kiểng. Nhà của Fidelio Gunn là mái ấm tạm thời tiếp theo của Billy, gia đình Gunn là một gia đình đông đúc, họ kết luận rằng thêm một đứa trẻ nữa cũng chẳng khác gì, sau đó đề nghị những dịch vụ xã hội xúc tiến các thủ tục nhận con nuôi.
Billy có hạnh phúc với những sự dàn xếp này? Thật khó nói. Nó mỉm cười vào những thời điểm thích hợp, và gật đầu khi nó được hỏi ý kiến. Nhưng liệu nó có hạnh phúc?
Nó hay đi tới nhà thờ khi chú Lyell Bone đang dợt đàn organ. Nó rúc vô ngồi trong một chiếc ghế khuất đằng sau một trong những cây cột lớn, nhắm mắt lại và lắng nghe. Nhưng sự hiện diện của nó không phải là không bị phát hiện. Một ngày nọ chú Lyell gọi Billy và hỏi nó có thích học chơi đàn organ không.
Billy bẽn lẽn chui ra khỏi chỗ núp và tiến tới chỗ cây đàn organ lớn. Chú Lyell chỉ cho nó đặt những ngón tay lên các phím đàn thích hợp, và Billy sướng mê tới trước âm thanh phát ra từ khối đàn đồ sộ đó. Sau bài học đàn, hai chú cháu dắt nhau bước ra khỏi nhà thờ. Trời bất chợt đổ mưa. Đó chỉ là một cơn mưa rào mùa xuân, nhưng cũng đủ để hai người phải trú một lát trong mái hiên.
Khi họ nhìn những hạt mưa nảy trên những viên sỏi bóng loáng, chú Lyell đặt tay lên vai Billy và nói, “Billy, con có muốn đến sống với gia đình chú không?”
Billy nhướng mày. Nó tháo đôi mắt kính mới của nó ra và dùng ngón cái lau lau mặt kính. “Trong bao lâu ạ?” Nó hỏi.
Chú Lyell mỉm cười. “Mãi mãi.”
Billy đeo kính trở lại và nhìn đăm đăm ra trước. Nó hầu như không thể tin được những lời nó vừa nghe. Nó cảm thấy hụt thở, cổ họng nó co thít và nó tự hỏi có phải mình sắp chết không.
Lo lắng trước sự im lặng của Billy, chú Lyell nói. “Chú sẽ cố hết sức để là một người cha tốt.”
Bằng giọng lí nhí, nghẹn ngào, Billy hỏi. “Thế còn Charlie?”
“Đây là ý kiến của nó,” chú Lyell nói. “Cô Amy và chú nghĩ, ờm, cô chú nghĩ cô chú thật sự muốn có thêm một đứa con trai nữa.” Chú Lyell ngó xuống gương mặt nghiêm trang của Billy. “Con thấy thế nào?”
Billy không thể tin nổi. Người đàn ông dũng cảm nhất, tốt bụng nhất trên thế giới đã đề nghị nó đến sống với một gia đình mà nó yêu mến. Không lời, nó vung tay ôm choàng lấy thắt lưng chú Lyell mà ghì chặt.
“Chú coi như đó là lời đồng ý,” chú Lyell bảo.

“Chỉ có một điều,” Billy thầm thì, và nó thò tay vô túi quần. Nó cảm thấy cuộc đời nó phụ thuộc vào câu trả lời của chú Lyell. “Thế còn con chuột của cháu?”
Chú Lyell cầm lấy con vật đen bóng được trao vô tay mình. “Đương nhiên chú rất thích chuột,” chú nói. “Chào mừng Rembrandt.”
“Cảm ơn nhiều,” Rembrandt đáp.
Một tuần sau ngày lễ Phục sinh, Học viện Bloor mở cửa lại dưới sự quản lý mới. Nó cũng có một cái tên mới – Học viện Bone. Việc chỉ định giáo sư Saltweather làm hiệu trưởng dường như rất được mọi người ủng hộ, xê-nho Alvaro thay vị trí trưởng khoa Nhạc của thầy. Một số giáo viên cũ ra đi, trong đó có thầy Paltry già và thầy Pope. Họ được coi là những tổn thất không đáng kể. Bà bếp trưởng trở lại căn phòng cũ của bà bên dưới nhà bếp, có điều lần này bà tuyên bố rằng cánh cửa âm tường dẫn tới nơi ở của bà sẽ luôn mở rộng cho bọn trẻ cần uống ca-cao và cần sự an ủi. May Phúc trải qua hầu hết ngày của nó nằm bên cạnh lò sưởi của bà, và giáo sư Saltweather thường xuyên đến thăm bà.
Bà bếp trưởng mời bà bạn cũ của bà, ngoại Maisie Jones, trở lại học viện cùng với mình. Và ngoại Maisie bây giờ trở thành Nữ hoàng căn-tin xanh lá cây, thay cho mụ Bertha Weedon hay gắt gỏng. Chỉ sau vài ngày học hành trong điều kiện mới này mà mọi học sinh đều tuyên bố rằng Học viện Bone là ngôi trường tốt nhất và hạnh phúc nhất trong nhiều dặm.
Hiện thời thành phố là một nơi khác hẳn. Nó mang bầu không khí mùa xuân vĩnh cửu. Ba ngôi nhà số 13 ở Ngách Tối đã trống trơn. Không ai biết bốn chị em và Eric đã đi đâu. Gia đình Loom cũng rời thành phố, cửa hàng và tiệm cà phê của nhà Branco vắng tanh. Nhưng quán cà phê Thú Kiểng thì không vậy. Quán đã mở cửa lại bằng một bữa tiệc linh đình. Nhiều thú vật tham dự đến nỗi hầu như không có chỗ cho chủ nhân của chúng. Gabriel đến, mang theo đủ chuột cảnh cho tất cả bọn bạn, kể cả cho Dagbert. Lysander đi với con vẹt của anh, Homer, còn chị Lauren, bạn gái của anh thì mang theo con vẹt Cassandra của chị.
Ba con mèo lửa theo dõi sự kiện này từ trên quầy. Không ai dám đề nghị chúng nên đi chỗ khác.
Charlie và bạn bè xoay xở xí được chỗ ưa thích của chúng ở bên cửa sổ. Tất cả có mười hai con thú cưng và mười một đứa trẻ. Bà Onimous đã vượt lên chính bà – làm bánh ngon hơn hẳn trước đây – và sáu cái đĩa cao tú hụ đựng đủ loại món ăn mê ly dành cho thú và bánh nướng chễm chệ ở giữa bàn.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại . .com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Sau khi ních căng bánh trái, Rembrandt lăn ra ngủ và tuột khỏi đùi Billy. Billy lật đật cúi xuống gầm bàn để kịp thời giải cứu nó khỏi Hạt Đậu. Khi Billy chui lên khỏi gầm bàn, đôi mắt nó mở tròn xoe và một nụ cười rộng tướng ngự ở trên mặt nó. Cúi sát vô Charlie, nó thì thầm, “Tancred và Emma đang nắm tay nhau đó.”
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – Pô Pô – Diên Vĩ
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)​


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận