Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8)

CHƯƠNG 20: TRONG ĐỒNG HOANG
Suốt đêm, sương mù bò vô phủ kín thành phố trong một đám mây xám mù mịt. Lũ người hội hè đình đám ở đường Piminy ngủ vật tại chỗ mà bọn chúng té xuống, trên vỉa hè văng vãi ly bể, và tàn tro bay lơ lửng trong không gian. Đồng hồ Nhà Thờ Lớn ngân bảy tiếng vang đi khắp thành phố đang nơm nớp chờ đợi một ngày nữa đến.
Bên trong tiệm sách cô Ingledew, Dagbert đã lăn ra ngủ say sưa. Tiếng chuông nhà thờ ngân không hề đánh thức nó dậy, cả Emma xách cái túi nhựa màu trắng đựng chiếc áo gi-lê rón rén đi ngang qua cũng không đánh thức được nó. Sau khi đã tự lên dây cót tinh thần cho mình bằng một ly sữa, cô bé kẹp cái túi dưới nách và rời khỏi nhà bằng cửa sau. Ra ngoài trời, cô bé đứng sựng trong sân một lát. Mùi sương mù và mùi rác cháy đâm sâu tận cuống họng Emma, khiến cô bé phải đưa tay lên bịt mũi, bịt miệng. Cô bé sẽ phải bay qua bầu không khí độc hại đó, vì vậy cô bé cần một thoáng để trấn tĩnh bản thân.
Cuối cùng, quyết định làm một con quạ gáy xám, cô bé hấp tấp thay hình đổi dạng sau bức tường bao quanh sân, xong rồi dùng mỏ gắp cái túi nhựa lên. Nhà Olivia ở đường Rồng Tinh, chỉ cách nhà Charlie hai dãy phố. Nếu cô Alice còn không được gia đình Vertigo chào đón thì Emma còn lâu mới có cơ hội, cho nên cô bé phải tìm một biện pháp thay thế cho việc đi vô nhà bằng cửa trước. Cô Vertigo thường than phiền về bọn quạ gáy xám dơ dáy, cẩu thả, hay thả cành cây xuống ống khói nhà cô. Đã hai lần cả nhà trông thấy một con quạ gáy xám dính bồ hóng đen thùi lùi vỗ cánh lọt vô phòng khách nhà mình.
Khi sải cánh phía trên những mái nhà, Emma có thể nghe thấy những tiếng nói xuyên qua màn sương mù: tiếng hậm hực, tiếng cười văng vẳng, và cả tiếng vũ khí khua chan chát. Emma chúi đầu, nghiêng cánh sà xuống đường Rồng Tinh.
Nhà Olivia đấu lưng với nhà cũ của cô Alice, và không ai là không nhận ra vườn cây ăn trái ở giữa hai nhà. Vài cây mận đã nhú ra những búp hoa trắng tinh.
Lao mình xuống ống khói nhà Olivia, Emma hú hồn phát hiện ra một con quạ gáy xám đã cư ngụ ở trong đó rồi. Tuy nàng ta chưa đẻ trứng, nhưng một cái ổ xinh xắn đã đan xong một nửa. Xem ra nàng quạ kinh ngạc hơn là giận dữ khi nhìn thấy Emma đậu nơi mép nhà của mình
“Xin lỗi,” Emma lẩm bẩm rồi bổ nhào xuống, lao đầu qua những nùi cành cây và rơm, sau đó xuyên thẳng qua ống khói dơ hầy. Cô bé đáp hẳn vô trong lòng lò sưởi phòng khách của gia đình Vertigo, với cái túi nhựa vẫn ngậm chặt trong mỏ. Khúc củi của đêm qua vẫn còn ấm nhưng may mắn là không còn cháy nữa.
Sau hồi thu gọn lông cánh, Emma bước ra khỏi lò sưởi, một lần nữa là bé gái. Mãi đến lúc bắt đầu nhón gót đi lên cầu thang Emma mới để ý thấy chân mình để lại những dấu bồ hóng trên thảm lót sàn. Không thể khác được, Emma nghĩ. Có lẽ mọi người sẽ đổ thừa đó là do quạ gáy xám!
Có một tủ âm tường được sưởi nóng để đựng chăn, tấm trải giường và khăn tắm ở chiếu nghỉ, Emma vội vã lẻn vô đó, chui xuống gầm cái kệ thấp nhất, và kéo cửa đóng lại. Bây giờ cô bé chỉ còn cách chờ đợi.
Cô chú Vertigo luôn dậy trễ vào sáng Chủ nhật, thành thử Olivia sẽ là người đầu tiên thức dậy. Emma hy vọng trên đường tới nhà tắm Olivia không cần ghé vô tủ này để lấy cái gì.
Thời gian lừ đừ trôi lâu ơi là lâu khi ta phải chờ đợi trong tư thế bất tiện tại một nơi tối tăm. Ngay lúc Emma bắt đầu nghĩ rằng mình không bao giờ chịu đựng thêm được phút nào nữa thì cô bé nghe thấy tiếng một cánh cửa mở ra. Ai đó đi ngang qua tủ để khăn trải giường và đi vô nhà tắm. Emma nghe thấy tiếng cửa nhà tắm đóng lại, nhưng không có tiếng ổ khóa bấm lại. Cô bé hồi hộp bước ra khỏi tủ và lắng nghe. Ai đó đang tắm. Chắc chắn người đó là Olivia.
Emma lom khom chạy tới cửa nhà tắm. Cô bé chầm chậm vặn nắm cửa tới khi nó mở ra, vừa đủ rộng để nhìn thấy một đống quần áo để trên một chiếc ghế thấp. Không thấy chiếc áo gi-lê. Có lẽ nó nằm bên dưới đống đồ kia? Hay nó ở trong phòng ngủ của Olivia? Emma vù lẹ tới phòng ngủ. Chẳng thấy chiếc áo gi-lê ở đâu. Cô bé cấp tập lật tung vải trải giường và gối lên. Nhìn xuống gầm giường, mở các ngăn kéo, bới tìm trong tủ đứng. Không thấy. Có khi Olivia mặc áo gi-lê ngay cả trong khi tắm?
Emma chạy trở lại nhà tắm. Giờ Olivia đang vừa ngâm nga một giai điệu rề rề vừa gội đầu. Vồ lấy xấp quần áo, Emma lật úp chúng lại. Và đó, là chiếc áo gi-lê. Khi lôi chiếc áo gi-lê mới ra khỏi túi nhựa, bàn tay Emma bắt đầu run lẩy bẩy. Giờ thì không thể dừng lại được nữa, cho dù cô bé không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu Olivia phát hiện chiếc áo gi-lê lộng lẫy của mình bị đánh tráo. Cầm chặt cái áo bị ếm bùa, cô bé nhét nó vào cái túi nhựa, thay cái mới vô chỗ của nó và đặt mớ quần áo trở lại ghế.
“Ai đó?” Olivia gọi sau tấm rèm che vòi sen. “Mẹ, phải mẹ đó không?”
Emma nằm thụp xuống sàn đằng sau chiếc ghế. Olivia ngó ra khỏi tấm rèm. Mắt con nhỏ dính bọt xà bông kín mít nên nó không thấy cái người đang nằm mẹp sau ghế. Khi con nhỏ thụt đầu lại tắm tiếp, Emma bò ra khỏi nhà tắm và chui vô tủ âm tường để khăn trải giường, ở đó nó nhét cái túi nhựa ra đằng sau nồi hơi. Quá trễ để trở lại đóng cửa nhà tắm, Olivia đã khóa vòi sen.
Emma chờ. Chờ và đợi. Một người phải mất bao lâu để lau khô người và mặc đồ? Bất thình lình một tiếng rú hoảng loạn vang lên, tiếp nữa là một tiếng thịch. Emma chạy bắn trở lại nhà tắm. Olivia, đã mặc đồ xong, đang nằm ngửa dưới sàn. Mắt con bé trợn trừng và tay nó ôm ghì lấy ngực. Trông bộ như nó bị khó thở. “Á! Áaa! Áaaa!” Con nhỏ rên rỉ. Dưới những ngón tay của nó, hết thảy những vòng bạc đính trên chiếc áo gi-lê mới đều đang biến thành những vòng cầu vòng. Chúng bắn tóe ra những tia lửa nổ lép bép, lép bép trong khi Olivia gào thét “Cứu! Ối cứu con! Con sắp chết.”
Emma quỳ thụp xuống bên cạnh bạn. “Không phải bồ sắp chết đâu, Liv”, cô bé nói. “Bồ đang sống lại đó chứ.” Emma cầm tay Olivia và giữ chặt lấy trong hai tay mình. Không dễ gì thoát khỏi vòng kìm kẹp của cái ác, cô bé nhận ra vậy, và không sao tưởng tượng nổi cơn đau mà Olivia có lẽ đang cảm thấy.
Olivia bắt đầu giãy giụa, quơ tay đạp chân, cánh tay trống của nó vung lên đập thình thình xuống sàn nhà trong khi Emma vẫn cố giữ chặt tay kia.
“Gì thế, gì thế?” Cô Vertigo lao bổ vô nhà tắm và cúi xuống con gái. “Liv, cái gì vậy con? Có chuyện gì?”
Emma đắn đo không biết làm thế nào để kể sự thật cho cô Vertigo. Cô bé sợ tấm áo gi-lê sẽ bị cởi phắt ra khỏi Olivia trước khi con nhỏ được chữa lành. Nhưng Olivia đột nhiên nằm bất động. Mắt nó nhắm lại, trông cứ như đang yên bình trong một giấc ngủ say.
“Nó xỉu rồi à?” Cô Vertigo hỏi Emma. “Ố, nó mỉm cười kìa. Emma, sao vậy?”
“Con không biết, cô Virtigo”, Emma nói với chút tội lỗi. “Nhưng con nghĩ giờ thì Liv ổn rồi.”
Olivia mở mắt ra. “Chào, Em”, nó nói. “Wow! Đây cảm thấy quái quá.”
“Con vừa xỉu đó, cưng!” Cô Vertigo nói. “Mẹ nghĩ chắc tại con dậy sớm quá đấy.”

“Con cũng nghĩ vậy”, Olivia nói. Nó ngồi lên. “Sao con ngố thế không biết.”
Quá sức cho Emma giả đò cư xử như không có gì xảy ra. Bất thần nó ôm chặt lấy nhỏ bạn, reo to. “Ồ, Liv, mình vui là bồ khỏi rồi.”
“Mình cũng vậy,” Olivia nói, coi bộ chưa hiểu chuyện cho lắm
Không ai hỏi làm sao Emma vô nhà được, và những dấu bồ hóng trên thảm được cho là do một con quạ gáy xám nữa chui qua ống khói. Không lâu sau Emma và gia đình Vertigo cùng nhau dùng bữa điểm tâm thân mật. Khi chuông cửa reng, bọn con gái vẫn ríu rít chuyện trò, trong khi cô Vertigo ra cửa trước trong tấm áo choàng màu trắng.
Khi cô Vertigo trở lại, trông nắc nỏm lo âu. “Có ba cậu trai tới”, cô bảo bọn con gái, “Bạn của các con.”
Trước khi cô nói gì thêm, Tancred Torsson thò đầu vô cửa và nói “Chào, Em. Tìm thấy em tụi anh mừng quá xá. Charlie nói chắc là em ở đây.”
Mặt Emma đỏ bừng lên khi cô bé nở với Tancred một nụ cười hân hoan chào đón.
“Cả em cũng ở đây.” Olivia lên tiếng. “Thật ra, em sống ở đây.”
“Anh thấy như là em đã trở lại là em rồi.” Tancred nói. “Anh nghe nói dạo gần đây em hành xử kỳ lạ lắm.”
Olovia nhăn mặt. “Em bị lừa chứ bộ. Việc đó sẽ không xảy ra nữa đâu.”
Đúng lúc này thì Lysander đẩy Tancred vô sâu trong bếp để bước vô, theo sau là Gabriel Silk. Và cũng đúng lúc này chú Vertigo mới chạy ào xuống cầu thang trong quần jeans và cái áo pyjama màu hồng, nhưng đâu phải ai cũng có dịp nói chuyện với chú ấy, bởi vì chú là một đạo diễn điện ảnh lừng danh.
Vậy là lúc này trong nhà bếp tiện nghi của gia đình Vertigo đã hình thành một đám đông chen chúc, nhưng rồi bằng cách nào đó mọi người cũng xoay xở ngồi vô được cái bàn tròn, lại quá hên nữa là vẫn còn đủ nước cam cho ba cậu trai. Lysander chờ cho tới khi chú Vertigo ăn xong quả chuối mới bắt đầu giải thích tại sao mấy cậu lại đến sớm bạch vào một buổi sáng Chủ nhật như vậy.
“Đó là nhờ bác Silk trai,” anh nói, liếc nhìn Gabriel một cái. “Cô chú thử tưởng tượng xem ở khu Đồi Cao sương mù dày đặc đến cỡ nào. Chúng cháu không thể nhìn thấy xa hơn hai, ba xăng-ti-mét đằng trước mặt. Bác Silk gọi điện cho ba cháu và ba của Tancred, nói rằng… ờm, bác ấy thông báo một sự kiện rất kỳ quặc, mặc dù nó đều dễ hiểu đối với chúng cháu, với cháu và Tancred.”
“Hừm, không gì trong những sự việc gần đây làm chú hiểu được cả”. Hai bên chân mày chú Vertigo nhíu lại, đan vào nhau. “Dường như tất cả mọi người đang rời khỏi thành phố, đó là một việc làm ngớ ngẩn, theo ý chú thì thế.”
“Có chuyện đã xảy ra, chú Vertigo ạ,” Lysander nhiệt thành nói. “Cháu cho là chú đã từng nghe nói đến bá tước Harken?”
Ba mẹ của Olivia tuy làm trong ngành phim ảnh, nhưng điều đó không có nghĩa là họ tinh tường lịch sử của thành phố. Nhưng không ngờ, cô chú lại rất rành rẽ về lãnh vực này, và tất nhiên họ đã từng nghe về thầy bùa bá tước Harken. Họ cũng biết rằng, một ngày nào đó tài phép độc đáo của cô con gái cưng của họ sẽ được cần tới cho một sứ mạng quan trọng hơn là hù dọa mấy đứa trẻ bị xúi làm bậy nhiều.
“Chú tưởng tượng là lão ta đã trở lại,” chú Vertigo nói, đoạn nhìn màn sương mù đang bò lan vô khu vườn nhà mình.
“Đúng vậy.” Lysander nhẹ nhõm khi hiểu ra mình sẽ không phải giải thích một tình huống rối rắm hơn. “Chuyện là, cha của Gabriel khuyên tụi cháu hãy đi tới vùng đồng hoang.”
“Tại sao?” Ba của Olivia hỏi.
Mẹ của con nhỏ quan tâm hơn nhiều, “Ai đi?”
“Chúng cháu ạ”. Lysander nhìn Gabriel.
Hiểu ra ngụ ý, Gabriel tiếp lời, “È, gia đình cháu luôn giữ tấm áo chùng của Vua Đỏ nhưng, chỉ mới gần đây thôi, cha cháu đã trao nó cho người khác, à…è…” cậu hắng giọng. “E… hèm… hiệp sĩ bấy lâu nay luôn bảo vệ tụi cháu, nhưng giờ ba cháu bảo rằng tụi cháu phải tự làm gì đó cho chính mình. Tất cả tụi cháu.” Cậu liếc nhìn Emma và Olivia. “Tất cả những hậu duệ của Vua Đỏ. Hiệp sĩ cần sự giúp sức của tụi cháu để cứu thành phố.”
“Hiệp sĩ này là ai?” Chú Vertigo chất vấn. “Có thể nào ông ta dụ các cháu đến một cái bẫy.”
“Cháu không nghĩ thế, chú ạ.” Gabriel nói chắc chắn.
Chú Vertigo đứng lên. “Để chú khoác áo vô cái đã. Cô chú sẽ đi với các cháu. Chú không thể các cô gái đi một mình.”

“Các bạn ấy đi với chúng cháu rồi, chú ạ.” Tancred nói, “với lại, chúng cháu nghĩ tốt nhất cô chú nên ở lại đây.” Cậu phả một luồng gió nhẹ qua bàn để nhấn mạnh câu nói của mình. “Chúng cháu có tài phép. Chúng cháu có thể tự bảo vệ mình tốt hơn cô chú, nếu cô chú không tự ái khi cháu nói vậy. Ông Yewbeam sẽ tới đó, cả bà Kettle và cô Alice Angel nữa.”
“Cô Alice ư?” Cô Vertigo nhìn con gái.
“Cô Alice Angel? Sao mẹ không nói cho con biết?” Olivia kêu lên. “Con sẽ an toàn tuyệt đối nếu có cô Alice ở bên con.”
“Nếu con nói vậy thì…” Cô Vertigo úp mặt vô tay. “Ý con là ba mẹ sẽ phải ngồi nhà và chờ á?”
“Đúng thế đó, cô Vertigo”, Tancred hồ hởi. “Cháu nghĩ, tốt hơn giờ chúng cháu nên đi đây, vậy nếu hai bạn nữ…”
“Sẵn sàng trong một giây.” Olivia phóng vèo ra khỏi phòng, lên lầu. Vài giây sau nó trở lại trong cái áo phi công màu xám bạc, giày ống đen và mũ trắng có vành che tai lót lông thú giả. “Là-lá-la! Em sẵn sàng!” Con nhỏ tuyên bố.
Emma mỉm cười. Thật dễ chịu khi lại nhìn thấy đúng con nhỏ bạn Olivia của mình.
Hôn chào từ biệt ba mẹ thật lẹ xong, Olivia theo cả bọn ra ngoài trời mù sương. Trạm kế tiếp của chúng là nhà số 9 đường Filbert.
Charlie đang chờ bọn chúng ở khung cửa mở toang trước nhà. Ngay khi thấy đám bạn rẽ sương mù hiện ra, nó liền gọi toáng lên cầu thang và ông cậu nó xuất hiện tức thì, với mũ phớt và áo khoác dài như thường lệ. Tay ông cầm một cây ba-toong vững chãi mà Charlie chưa từng trông thấy bao giờ.
Cô Alice Angel từ cầu thang lầu thứ hai đi xuống, theo sát nút cô là Billy. Khi cô xuống tới hành lang, Olivia trông thấy cô thì lao bổ lên cầu thang, hét lớn, “Cô Alice! Cô Alice! Gặp cô con mừng quá!”
Cô Alice ôm chầm lấy con nhỏ. “Cô cũng sung sướng lắm, Olivia, cưng.”
Ngoại Maisie và bà bếp trưởng ra khỏi nhà bếp, và ngoại Maisie than thở, “Còn chúng tôi, bà bếp trưởng và tôi sẽ phải làm gì đây? Chỉ việc ngồi chờ và đoán già đoán non thôi ư? Thế bà Bone thì sao?”
“Bà ấy chẳng gây phiền hà được cho bà nữa đâu”, cô Alive bảo bà. “Chúng tôi sẽ trở về ngay thôi, bà Maisie thân mến à. Đừng lo lắng nhé.”
“Tôi sẽ ở bên bà.” Bà bếp trưởng khoác cánh tay ngoại Maisie. “Chúng ta sẽ cùng nhau giữ thế cân bằng.”
Ngoại Maisie tỏ ra yên lòng lập tức. Tuy vậy bà vẫn phập phồng đứng ở cửa bếp nhìn hai nhóm gặp nhau ở chân cầu thang để rồi cùng nhau tiến ra đường Filbert.
“Chúc may mắn!” Ngoại Maisie và bà bếp trưởng cùng nói to.
Bảy đứa trẻ và hai người lớn quay lại, vẫy tay với họ.
Đoàn quân khởi hành trong im lặng, một trạng thái khác thường đối với một số người trong đoàn. Ngay cả Olivia cũng không nói gì, mặc dù nó bóp chặt bàn tay của Emma. Tính trọng đại của sự kiện cuối cùng đã đạt tới đỉnh điểm, và tất cả mọi người ai nấy đều vướng bận với những suy nghĩ của riêng mình
Đi được nửa quãng đường Đồi Cao, có thêm hai người nữa đâm thủng sương mù hiện ra, một người cao lừng lững và một người thấp hơn. Bà Kettle và Dagbert đang chờ mọi người tại đây. Khi họ tiến tới gặp nhau, vẻ mặt rạng rỡ và dáng người vững chãi của bà Kettle thình lình khuấy động lên tiếng nói cười rộn rã trong nhóm, thế rồi cùng nhau họ dấn bước đi tới
“Julia mạng khỏe chứ?” Ông cậu Paton hỏi thăm bà Kettle.
“Khỏe,” bà đáp. “Đường Piminy bây giờ hoang vu. Chẳng còn ai ở đó để mà quấy nhiễu cô ấy nữa.”
“Vậy có nghĩa là tất cả bọn chúng cũng đi vô vùng đồng hoang.” Ông cậu Paton suy luận
“Quá đúng,” bà Kettle đồng ý, “Mà chúng ta có thể đương đầu với bọn chúng được quá đi chứ?” Bà phẩy vạt áo khoác ra sau, vỗ vô đùi mình, và tất cả mọi người liền trông thấy cái cán bằng đồng của một thanh gươm lớn, tra trong vỏ gươm hình tròn, đính vô dây thắt lưng của bà.

Charlie bỗng nhận ra, ngoài bà Kettle, cả đoàn không ai có một tấc khí giới nào trong tay. “Mỗi người chúng ta có nên có một món thế này?” Nó hỏi, nhìn chằm chằm vô thanh gươm.
“Mấy cưng có tài phép của mình rồi, cưng yêu”, bà Kettle bảo.
“Xem ra như vậy là không nhiều,” Charlie lầm bầm. Nó nghĩ về chính nó. Đi vô tranh không hữu dụng để chiến đấu, cả tài thần giao cách cảm của Gabriel cũng chẳng ích chi. Lại còn Billy thì nữa? Liên lạc với thú vật để làm gì khi mà xung quanh chẳng có con thú nào.
“Nghe đây, mấy cưng,” bà Kettle nói sang sảng. “Mấy cưng là con cháu của Vua Đỏ. Đó là tất cả những gì mấy cưng cần khi thời cơ tới. Tôi nói vậy có đúng không, Alice?”
Cô Alice mở một nụ cười bí hiểm. “Đương nhiên!”
Và thế là đoàn quân lại đi tiếp, Dagbert nhịp bước đi bên cạnh Charlie. Bọn mình phải xưng hô với nó thế nào bây giờ? Charlie tự hỏi. Bởi vì Dagbert không còn mùi tanh cá như trước kia, khiến người ta phải bịt mũi mỗi khi nó đến gần. Da của nó đã mất đi màu xanh như tàu lá, cho dù vẫn còn tái. Charlie không thể tưởng tượng nổi biến cố mất cha theo cách thức kịch tính như trường hợp của Dagbert là thế nào. “Thằng đại dương,” Charlie lầm bầm với Dagbert, “Mày vẫn còn có thể… ờm, mày biết đấy?”
Dagbert gật đầu. “Tao vẫn chưa mất cái đó!”
Chợt có tiếng hò hét từ xa. Quay lại, Charlie thấy Hạt Đậu đang lao phầm phập về phía họ. Benjamin và Fidelio chạy gấp rút đằng sau.
“Ông cậu!” Charlie gọi Ông cậu Paton, đang cùng với bà Kettle dẫn đầu cả đoàn. “Chúng ta có thêm hai người nữa… và một con chó.”
Ông cậu Paton dừng bước và đoàn quân theo sau ông cũng khựng lại. Tất cả cùng ngoái nhìn hai thằng bé đang phóng như bay tới chỗ họ. Fidelio và Benjamin tới nơi, thở hồng hộc và cười tươi tỉnh, trong khi Hạt Đậu nhảy chồm chồm vòng quanh, tí tởn sủa ầm ĩ cả lên.
“Mọi người đi mà không gọi bọn cháu!” Benjamin than phiền.
“Ngoại Maisie bảo cho tụi cháu biết mọi người đang đi đâu,” Fidelio thêm. “Đáng ra mọi người phải cho tụi cháu biết với chứ.”
Lysander bước lên trước và nói, “Xin lỗi hai em. Hai em không thể đi được. Các em không được ban phép thuật”
“Thì sao?” Fidelio phản đối.
“Các em sẽ không an toàn,” Tancred tiếp lời. “Các em cần phải được bảo vệ.”
“Tụi em có Hạt Đậu,” Benjamin nói đầy thách thức, “Và tụi em không thể bị gạt ra ngoài.”
“Thế còn ba mẹ các con thì sao?” cô Alice dịu dàng hỏi. “Các con có nói cho ba mẹ biết các con định làm gì không?”
“Tụi cháu đã viết lại mẩu thư nhắn rồi”. Fidelio nhìn mọi người đầy tự tin. “Tụi cháu sẽ đi. Thế thôi.”
“Rất tiếc các cậu,” Ông cậu Paton bắt đầu. “Nhưng các cậu…”
Lời ông bị cắt ngang bởi một tiếng ầm, vang trời từ phía sau. Trụ đèn giao thông vừa mới bị tróc đổ, nằm vắt ngang vỉa hè. Những bóng đèn tín hiệu bể nát và thân cột nằm toài ra tận giữa đường. Có thể thấy những dáng hình lờ mờ của mụ Branko và hai chị em sinh đôi đang đứng bên cạnh đống bóng đèn.
“Giờ tụi cháu không thể rút lui rồi,” Fidelio hớn hở la lên. “Tốt nhất ông hãy cho tụi cháu gia nhập mọi người.”
Ba người lớn đành chấp nhận tình thế này, thế là Benjamin và Fidelio nối đuôi đi sát gót Charlie. Nó phải thú thật rằng nó vui mừng khôn xiết khi có hai thằng bạn thân nhất đi kèm, vào cái ngày mà nó đoán sẽ là ngày dài nhất trong cuộc đời nó. Quân số của toàn đoàn bây giờ là mười bốn, nếu tính luôn cả con Hạt Đậu.
Đoàn quân đi. Tất cả mọi người một lần nữa lại im lặng, nhưng phía sau họ gia đình Branko đang điên cuồng chống phá, thể hiện đỉnh điểm tài phép của bọn chúng. Những ống khói đổ kềnh, những biển hiệu trên cửa sổ các tiệm bán hàng rớt xuống, những cánh cửa gãy bung. Charlie cố phớt lờ những tiếng động ấy. Tiếp theo, một cây cột đèn đường ngay trước mặt đoàn quân thình lình đổ ầm xuống vỉa hè, bóng thủy tinh nát vụn thành hàng ngàn mảnh. Thế này là quá đủ đối với Ông cậu Paton. Phóng bật ra giữa đường, ông nhìn xoáy vô mẹ con nhà Branko, rồi ngước mắt lên một cửa sổ sáng đèn trên cao một tòa nhà bên cạnh gia đình siêu năng. Và một tiếng nổ đinh tai, kính cửa sổ vỡ toang, trút một trận mưa thủy tinh xuống nhà Branko. Vừa kêu thét vừa nguyền rủa, bọn chúng vội cút thẳng ra khỏi đường phố.
“Chúng ta sẽ có một chút yên bình trong khi bọn chúng liếm vết thương,” Ông cậu Panton nói, rồi lại hiên ngang bước lên đường Đồi Cao.
Khi đoàn đi ngang qua quảng trường dẫn vô Học viện Bloor, Charlie thắc thỏm sợ Manfred và mụ Tilpin sẽ xổ ra. Nhưng không ai xuất hiện. Một lát sau nó nhận ra là đã có thêm hai người nữa gia nhập hàng ngũ của mình. Ngoái nhìn ra sau vai, Charlie kinh ngạc khi thấy giáo sư Saltweather và xê-nho Alvaro.
“Giáo sư Saltweather, em không biết…” Charlie há miệng.
Lysander, Gabriel và Tancred quay lại và ngó trân trân hai thầy giáo. Emma và Olivia kêu hốc một tiếng.
Xê-nho Alvaro mỉm cười với Charlie, nói, “Tiến lên, Charlie Bone.”

Bọn học trò chạy lên để bắt cho kịp Ông cậu Paton, bà Kettle và cô Alice – tất cả đang thẳng bước rầm rập về trước, mặc dù Billy có dừng lại, một thoáng thôi, để nói chuyện với Hạt Đậu.
Vùng đồng hoang nằm ở phía bên trái họ, ngay bên kia Học viện Bloor. Đó là một khu đất trải dài cả dặm, cỏ mọc um tùm và cây bụi gió lùa nghiêng ngả. Ở đằng xa, có một dải đá tảng nhô lên khỏi mặt đất, trông như những đốt sống của một con rắn biển khổng lồ. Sương mù khiến cho dải đá như đang nổi lềnh bềnh phía trên mặt đất. Toàn bộ nơi đó hoang vu. Không thấy tăm hơi Hiệp sĩ Đỏ. Cả đoàn đứng lại bên vệ đường, ngóng và chờ.
Một tiếng gừ báo động trong cổ họng Hạt Đậu, và rồi họ thấy đàn chó. Hai con chó săn giống Rottweiler đang lao hùng hổ về phía họ từ hướng khu Đồi Cao. Chúng hiển hiện là cặp chó khát máu nhất Charlie từng thấy. Tưởng tượng những hàm răng nhọn hoắt kia bập vô da thịt mình, bập vô da thịt của tất cả mọi người đang đứng đó, nó choáng sốc đến nỗi gần như không nhúc nhích được. Đằng sau cặp chó là Dorcas Loom và hai thằng anh to xác của con này.
“Tiến lên, Cục Súc! Tiến lên, Tê Giác! Bắt chúng!” Hai thằng anh thục giục lũ chó.
Hạt Đậu gầm gừ một cách dũng cảm, quay lấy người bên phe của chú ta theo hình bán nguyệt để bảo vệ họ; nhưng tất cả ai cũng đều biết chú ta không thể có cơ may địch lại lũ chó săn Rottweiler kia. Trong chớp nhoáng, không ai nghĩ được phải làm gì. Bà Kettle rút gươm ra, Tancred chuẩn bị gọi bão, nhưng đúng lúc mưa lác đác rơi, Billy Raven bất thần bước lên trước, rú rít, sủa và tru tréo về phía hai con chó hung tàn.
Cặp chó giống Rottweiler dừng sựng lại, ngồi thụp xuống và bắt đầu tru rú đáp trả Billy.
“Nó nói gì đó? Dagbert thì thào.
“Không thể biết được,” Charlie đáp. “Nhưng hình như đang hiệu nghiệm.”
Bọn nhà Loom điên giận gào thét, thúc hối lũ chó tấn công, nhưng, bất thình lình, lũ chó giống Rottweiler quay ngoắt lại, chồm tới vồ chính chủ nhân của chúng. Những hàm răng mạnh bạo cắm ngập vô xương và cơ bắp. Với tiếng la xói óc, Dorcas đổ sụp xuống đất, kế tiếp đến hai thằng anh gục nhào, thằng này té chồng lên thằng kia. Hai con chó giống Rottweiler chạy vòng quanh ba tấm thân, gừ gầm đầy nguy hiểm. Khi đã hài lòng rằng đám nạn nhân này không còn khả năng đe dọa chủ nhân mới của mình nữa, chúng bước lại gần Billy và liếm hai tay thằng bé.
“Giỏi lắm!” Billy khen, ban đầu bằng tiếng người, sau đó bằng tiếng thú.
“Giỏi lắm, Billy,” Ông cậu Paton nói và cả đoàn quân cùng đồng thanh, reo hò, “Giỏi lắm, Billy! Giỏi lắm!”
Billy cười toe toét và vỗ vỗ đầu mấy con chó.
“Ba đã gục, còn hai nữa,” Charlie lẩm bẩm một mình.
“Em ngụ ý tới Manfred và Joshua phải không,” Tancred nói, “nhưng đừng quên mụ Tilpin.”
“Eric nữa. Tụi mình không thể quên nó. Coi kìa!” Lysander chỉ về phía mảng sương mù đang bay dạt ùn ùn phía trên vùng đồng hoang. Và đoàn quân thấy những hình thù mà lúc nãy họ tưởng là đá bây giờ đang chuyển động tới trước. Khi đến gần hơn, những hình thú đó hiện rõ là những sinh vật kềnh càng, lê bước.
“Eric!” Charlie thét. “Giờ chúng ta phải làm gì?”
“Ngăn chúng lại”, Tancred bảo.
Tức thời một tiếng sấm long trời cùng một luồng chớp bắn xuyên qua sương mù, đâm nứt sọ của một trong những con thú bằng đá. Không suy suyển gì. Những sinh vật khác vẫn tiến tới, và giờ mọi người có thể thấy một thân hình bé tẹo nhảy loi choi đằng trước hàng thú vật, hò hét chúng xông tới, làm chúng sống động tới mức không còn lê bước nữa mà là chạy, những bàn chân khổng lồ dậm những cơn sóng chấn động xuống mặt đất.
Tancred cởi áo khoác ra, quay tít trên đầu. Mái tóc vàng của cậu tóe lửa khi một cơn gió giật cấp mạnh xé toạc màn sương mù. Màn sương mỏng vẹt đi, bay cao lên, để lộ cảnh tượng mà lúc nãy họ đã không trông thấy.
Sương mù đã giấu một đội quân quỷ lùn và những sinh vật mà chỉ có thể gọi là nửa người nửa thú. Từng con đều trang bị vũ khí. Thương, đao, rìu sáng loa lóa trong ánh mặt trời yếu ớt. Vài tên vung dùi cui, có nhiều tên xài giằng ná.
“Lính đánh thuê của bá tước Harken.” Ông cậu Paton làu bàu, đoạn từ cây ba-toong của mình, ông rút ra một thanh gươm lưỡi mỏng, trông tựa như một thanh trường kiếm. Ngay khi thanh gương gặp không khí, một luồng điện phóng ra từ tay ông, chạy dọc suốt chiều dài của thanh thép. “Phải thế chứ,” ông nói với vẻ mãn nguyện. “Chúng ta đi.”
“Ôi chao, Paton Yewbeam, ông cao thêm ba tấc nữa đấy”, bà Kettle tán dương và bước tới sát cánh bên ông.
Quả vậy, Ông cậu Paton đã biến thành một người khổng lồ… một người khổng lồ hơi gầy, Charlie nghĩ, nhưng dù sao cũng là một người khổng lồ, với vũ khí bảo đảm bất cứ kẻ nào chạm vô sẽ chết chắc.
Cơn bão của Tancred vần vũ phía trên bọn thú đá và, mặc dù những sinh vật đó vẫn xông tới nhưng chúng đã bị cản bước đáng kể, còn đội quân quỷ lùn thì chật vật lê lết trong làn gió băng giá đánh vỗ mặt chúng.
Đoàn quân dàn thành một hàng xộc xệch phía sau hai thủ lĩnh của mình và Charlie thấy nụ cười quyết đoán nở trên vài gương mặt tươi tắn xung quanh. Mọi người đã bắt đầu tin chắc quân mình sẽ chiến thắng.
Bỗng từ đâu đó đằng sau đoàn quân, một hòn đá phóng vút qua không khí, và rống lên một tiếng đau đớn, Dagbert đổ ập xuống đất. Những người khác hình như không để ý, nhưng khi Charlie quỳ xuống bên cạnh Dagbert, nó thấy một hàng những hình nhân hoang dại đang trên đường tiến vô vùng đồng hoang. Đó là bọn du côn đường Piminy. Một mụ già tóc đỏ đang giương cái giằng ná thiện xạ của mụ, miệng cười lục khục, khoái trá. Bọn khác kẻ cầm dùi cui, đứa cầm dao, cầm búa.
Charlie không biết phải làm gì. Nếu nó báo động cho bạn bè thì tất cả họ sẽ quay lại và đội quân quỷ lùn sẽ bay tới tấn công họ. Nhưng đã quá trễ. Olivia cũng đã trông thấy cái bọn trên dường. “Coi kìa!” Con nhỏ la lên. “Chúng ta bị bắt rồi.”
Khi đoàn người quay lại, bọn lưu manh trên đường xông tới đón họ. Nhưng trước khi Charlie đứng lên được, nó bị một dùi cui quất ngang người, dúi nó vập mặt xuống cỏ lẫn với đá.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận