Những con mèo lửa
Charlie tê cứng người. Nó không ngờ đã bị ông cậu trông thấy. Nhưng rồi câu hỏi kia lại vang lên, “Charlie, tại sao mày lại bám theo ta?”
Từ sau một thân cây, Charlie bước ra.
“Sao ông cậu biết?” Nó lí nhí.
Ông cậu Paton quay lại nhìn nó.
“Nếu đúng như mày đang nghĩ, thì ta trả lời luôn: ta không có mắt sau gáy.”
“Không, con không nghĩ thế,” Charlie nói. “Nhưng làm sao ông cậu biết?”
“Nhóc, ta thấy mày ngay lúc quẹo ở góc đường. Thật ra ta cũng có đoán trước. Ta nghĩ mày cũng khó mà ngủ được sau buổi tối hãi hùng vừa rồi.”
Ông cậu Paton cười nhếch mép.
“Tài phép của ông cậu đó hả?” Charlie hỏi. “Kích sáng bóng đèn ấy?”
“Đáng khing quá phải không? Ta hỏi mày chứ cái trò đó được tích sự gì? Giá mày đừng thấy thì hơn.”
Ông cậu Paton ngắm nghía mấy ngón tay chắc khỏe của mình:
“Nào, đưa mày về thôi. Tối nay ta làm đủ rồi.”
Ông nắm tay Charlie và cả hai cùng đi về nhà.
Charlie nhìn thấy một khía cạnh mới của ông cậu. Nào có mấy người chỉ cần đứng đó thôi mà kích được bóng đèn. Đúng ra, theo như nó biết, thì trước nay chưa có ai làm được điều này. Đèn điện hết sức cần cho cuộc sống về đêm của một thành phố. Ông cậu Paton hẳn đã có lúc tung hoành dưới phố - nơi mà ánh đèn lấp lánh và rực rỡ tứ bề.
“Đã bao giờ ông cậu... ừm... ông cậu làm như vừa nãy với nhiều bóng đèn cùng lúc chưa?” Charlie hỏi. “Tỉ như ở nhà hát, rạp chiếu bóng hay là quán rượu ấy?”
Mất một lúc, Charlie nghĩ là ông cậu Paton không trả lời, và lẽ ra nó không nên hỏi, thì ông bỗng lầm bầm:
“Có, cách đây lâu rồi. Ta đã làm điều đó vì một cô gái.”
“Úi! Chắc cô ấy ngạc nhiên lắm?”
“Cô ấy chạy mất,” ông cậu Paton buồn rười rượi, “và không bao giờ nói chuyện với ta nữa.”
“Con hiểu rồi. Vậy ông cậu ra đường ban ngày không an toàn hơn sao? Ý con là, ban ngày thì không có nhiều đèn sáng.”
“Hừ! Mày giỡn chắc,” ông cậu nói. “Mặt tiền cửa tiệm nào mà chả có đèn trưng hàng. Đâu đâu cũng có đèn. Vả lại ban ngày người ta sẽ trông thấy ta. Ngoài ra, cũng thành thói quen rồi. Chẳng qua ta không thích ánh sáng ban ngày nên không muốn phơi ra thôi.”
Họ về đến cửa nhà số 9, và Charlie vội vã trèo lại lên giường trước khi có ai đó trong nhà thức giấc. Nó thiếp đi ngay tức thì và mơ thấy ông cậu Paton kích đèn trên mọi vì sao, cho đến khi tất cả nổ tung, hệt như pháo bông.
Sáng ra, Charlie tỉnh giấc với cảm giác bứt rứt khó chịu. Dù thích hay không, chẳng bao lâu nữa nó sẽ phải vô Học viện Bloor. Chỉ nghĩ thế thôi đã khiến nó phát bệnh. Cố lắm cả bữa sáng nó cũng chỉ nuốt được một lát bánh mì nướng. Nó cũng không hề đụng tới món trứng và thịt xông khói mà ngoại Maisie đã đặt trước mặt.
“Thằng nhỏ lo đấy. Đúng không, con?” Ngoại Maisie chắt lưỡi. “Cái nhà Yewbeam khốn khổ ấy. Sao con lại phải đến cái trường to đùng xấu xí đó chớ? Tụi ta sẽ ra tiệm kẹo mua một ít sô-cô-la cho con vui lên vậy.”
Nội Bone không có mặt. Bà luôn dùng điểm tâm trong phòng riêng. Còn ông cậu Paton thì chỉ ăn vào đêm khuya, như Charlie trước giờ vẫn thấy thế.
Nó liếc mẹ nó, trông cô như đang ở trong một giấc mơ màng, cách xa đâu đó hàng hàng dặm.
“Con có phải mặc đồng phục đặc biệt gì không, mẹ?” Nó hỏi.
Mẹ nó giật mình ngước lên. “Áo chùng xanh,” cô đáp. “Các nhạc công mặc áo màu xanh. Xanh ngọc bích, một màu tuyệt đẹp.”
“Nhưng con không phải là nhạc công,” Charlie phản đối.
“Biết vậy,” mẹ nó đồng ý. “Nhưng họ không có khoa nào hợp với tài phép của con, Charlie à. Con sẽ được xếp vô khoa nhạc, giống như ba con. Có những lớp học sáo. Mẹ chắc sẽ như vậy.”
“Thế nữa?” Charlie nghi ngờ. Nó chưa bao giờ giỏi nhạc và nó chỉ thổi sáo khi nào bị bắt thổi. “Khi nào thì con phải bắt đầu?”
“Nội trong vòng một tháng,” mẹ nó đáp.
“Lẹ vậy sao?” Charlie hốt hoảng. “Ngay giữa học kì?”
“Mẹ xin lỗi, Charlie,” mẹ nó nói, vẻ ân hận. “Nhà Yewbeam nghĩ như thế là tốt nhất. Họ bảo không được để phí một giây nào, bởi vì con... à không... bởi vì họ đã dứt khoát.”
“Tội nghiệp thằng bé,” ngoại Maisie lẩm bẩm.
Trời lại đổ mưa, ngoại Maisie lôi ra một cái áo mưa màu hồng tươi. Mẹ Charlie rút từ tủ âm tường ra một cây dù. Cô không thích mặc áo mưa.
“Ngoại với mẹ ra cửa hàng không lâu đâu,” cô bảo Charlie. “Con có muốn mẹ lấy tấm hình về lại không?”
Charlie hầu như đã quên phéng tấm thiệp sinh nhật của Benjamin. Không rõ vì sao lúc này nó hơi do dự, thấy mất tấm hình luôn cũng được.
“Thôi,” nó đáp. “Nhưng mẹ mua cho Benjamin một tấm thiệp sinh nhật được không? Chắc con không dùng hình con Hạt Đậu nữa đâu.”
Ngoại Maisie và mẹ vừa đi khỏi, Charlie tót lên lầu, vớ lấy chiếc phong bì màu cam. Nó mới mở phong bì, rút tấm hình ra thì nghe có tiếng chuông cửa. Chẳng ai ra mở. Chắc chắn nội Bone đã ra phố, còn ông cậu Paton thì ban ngày đến chuông điện thoại còn không trả lời nửa là chuông cửa.
Vẫn cầm tấm hình trên tay, Charlie lao xuống mở cửa. Một người đàn ông lạ hoắc đứng ngay bậc thềm. Lạ hơn nữa, có ba con mèo quấn quanh chân ông.
“Onimous và những con mèo lửa,” người đàn ông tự giới thiệu. “Đội diệt chuột.” Ông moi từ chiếc áo khoáng giả lông ra một tấm thiếp.
“Onimous?” Charlie hỏi.
“Phải,” người đàn ông nói. “Onimous. Có hơi khác một tí. Orvil Onimous.”
Ông cười với Charlie một nụ cười thật rộng, phô cả hàm răng sắc bóng. “Tôi tin là nhà ta đang có vấn đề. Chuột hả?”
Đoạn ông thực hiện một cú nhảy thật tức cười, rồi đáp xuống ngay cạnh Charlie.
“Cháu không biết,” Charlie đáp. Nó vẫn được dặn là không để cho người lạ vô nhà. Nhưng cái ông này đã lọt vô nhà mất rồi. Nó hỏi: “Có người gọi ông đến hả?”
“Có một cái gì đó gọi tôi đến. Ngay lúc này thì tôi không thể nói được đó là thứ gì. Có thể cậu sẽ không tin tôi.”
“Thật thế á?” Charlie nổi cơn tò mò.
Lũ mèo nãy giờ vẫn theo bén gót ông Onimous, giờ đi đi lại lại vơ vẩn dọc hành lang dọc hành lang ở cửa ra vô. Chúng là những con mèo lạ lùng nhất. Con đầu tiên màu đồng rực, con thứ hai màu cam tươi và con thứ ba màu vàng chói. Con màu đồng có vẻ như biết Charlie. Nó đứng lên trên hai chân sau và lắc nắm cửa nhà bếp cành cạch.
“Bình tĩnh nào, Dương Cưu,” ông Onimous nhắc. “Mi sẽ không bao giờ học được sao?”
Con Dương Cưu đã xoay được nắm đấm cửa. Cửa nhà bếp bật mở và con mèo phóng vô trong, theo sau là hai con kia.
“Xin lỗi về chuyện này,” ông Onimous nói. “Nó là một con nóng nảy, con Dương Cưu ấy. Con Sư Tử cũng hơi tí huênh hoang, nhưng con Nhân Mã lại rất có phong cách. Xin lỗi, tốt hơn là tôi phải dòm chừng chúng.”
Trước khi Charlie kịp quay lại, ông Onimous đã sượt qua mặt nó và phóng vô nhà bếp, gọi “Bọn mèo lửa, đừng có làm ta mất mặt đấy. Làm ăn tử tế coi nào.”
Giờ thì cả ba con mèo đang đi đi lại lại trước cái kho chứa thực phẩm. Charlie nhớ ra mớ trái cây nẫu, và trước khi đám mèo tự mở bung một cánh cửa nữa, Charlie mở cánh cửa đó ra cho chúng vô.
Thế là bắt đầu những cú vồ, cú phóng cùng những tiếng gầm gừ. Rõ ràng là trong kho đầy chuột. Loáng một cái, bọn mèo đã tóm gọn lũ chuột, hết con này đến con kia, rồi xếp những cái xác chuột thành hàng ngay ngắn dọc theo bờ tường.
Charlie lui ra xa. Trước giờ nó không hề biết là trong kho thực phẩm có chuột. Sao ngoại Maisie và mẹ nó cũng không nhận ra nhỉ? Có lẽ lũ chuột mới kéo đến sống hồi sáng này, do mùi trái cây thối đưa đẩy. Charlie khá là thích chuột, cho nên nó ước gì không phải chứng kiến cảnh hàng thây xám ngoét đang ngày càng dài thêm.
Khi hàng xác đã dài được mười lăm con, lũ mèo tỏ vẻ đã hoàn tất công việc. Chúng ngồi xuống và liếm cật lực bộ lông tinh tươm của mình.
“Một tách cà phê có được không nhỉ?” Ông Onimous hỏi. “Tôi mệt lả rồi.”
Charlie thấy rõ nãy giờ ông Onimous không hề nhấc một ngón tay, chẳng làm tí gì để gọi là cực nhọc cả. Bọn mèo quán xuyến hết. Nhưng ông Onimous đã ngồi vô bàn ăn, nhìn hau háu vô ấm nước. Charlie không nỡ lòng nào làm ông thất vọng. Tay nó vẫn cầm tấm hình, cho nên nó đặt tấm hình xuống và đi rót nước vô ấm.
“A,” ông Onimous kêu lên. “Đây rồi. Cái này sẽ giải đáp được mọi chuyện.”
“Cái gì giải đáp ạ?” Charlie nhìn vô tấm hình, mà lúc này ông Onimous đang giơ ra trước ánh sáng.
Ông Onimous chỉ con mèo ở cuối tấm hình. “Con Dương Cưu đấy,” ông giải thích. “Cách mấy năm rồi, nhưng nó vẫn không quên. Nó biết là cậu đã phát hiện ra nó. Chính vì thế mà nó dẫn tôi tới đây.”
“Sao cơ?”
Charlie cảm thấy xây xẩm. Nó ngồi phịch xuống.
“Có phải ông nói đó là con Dương Cưu?” Nó chỉ vô con mèo màu đồng, “Con Dương Cưu biết cháu đã xem hình nó?”
“Không hẳn thế,” ông Onimous gãi cái đầu trông như lông thú của mình. Charlie nhận thấy móng tay ông cần phải được cắt tỉa đến nơi đến chốn. Ngoại Maisie không bao giờ để sổng một ai có mớ móng tay dài ngần ấy.
Ấm nước sôi e e và Charlie pha cà phê cho ông Onimous. “Ông uống cà phê như thế nào?” Nó hỏi, đặt cái tách trước mặt vị khách.
“Vui lòng cho ba cục đường,” ông Onimous đáp.
Charlie nóng lòng thảy ba cục đường vô tách cà phê.
Ông Onimous hớn hở hẳn lên. Ông nhấp một ngụm, mặt lại sáng lên lần nữa, và rồi, chồm gần tới Charlie, ông nói, “Nó biết cậu đã được nối kết, con Dương Cưu ấy. Và đúng vậy; cậu có tấm ảnh. Những con mèo này không phải mèo bình thường; chúng hiểu chuyện. Chúng chọn tôi vì tôi có phong thái đặc biệt đối với thú vật. Chúng dẫn tôi đi đây đi đó, cố dẹp trừ bọn gian tà. Tôi chỉ đi theo và giúp đỡ khi có thể. Trường hợp này,” ngón tay ông chạm vô người đàn ông ẵm đứa nhỏ, “là tệ hại nhất. Con Dương Cưu lúc nào cũng điên tiết lên vì chuyện ấy. Biết bao lần nó cố lập lại trật tự, nhưng chúng tôi cần cậu, Charlie.”
“Cần cháu?” Charlie hỏi.
“Cậu là một trong những người có phép thuật, đúng không nào?” Ông Onimous hạ giọng, như thể đó là một bí mật, không được nói to lên.
“Họ nói thế,” Charlie đáp. Nó không thể không nhìn vô tấm hình, theo ngón tay ông Onimous chỉ mà như buộc tội lên mặt người đàn ông. Ngay khi vừa nhìn vô, Charlie nghe tiếng đứa bé khóc.
Con Dương Cưu xồ tới, bám những cái vuốt lên đùi Charlie, gào lên một tiếng xé màng nhĩ. Tiếng gào của nó lập tức được con Sư Tử cam và con Nhân Mã vàng hưởng ứng. Tiếng ồn thật khủng khiếp, Charlie lại rúm người lại, áp tay bịt chặt vô hai lỗ tai.
“Im!” Ông Onimous ra lệnh. “Cậu nhỏ đang suy nghĩ.”
Đợi tiếng gào của lũ mèo tắt hẳn, ông Onimous nói:
“Cậu thấy đấy, cậu đúng là có liên hệ với tấm hình. Giờ hãy kể cho tôi nghe tất cả việc này đi.”
Mặc dầu rõ ràng là lập dị, nhưng trông ông Onimous rất tử tế, đáng tin cậy, và Charlie thì đang hết sức cần có sự trợ giúp. Nó kể cho ông Onimous nghe về cuộc náo loạn với những tấm hình, những giọng nói, những bà cô khủng khiếp nhà Yewbeam và quyết định của họ gởi nó đến Học viện Bloor. “Và thực lòng cháu chẳng muốn tới đó.” Charlie kết luận. “Cháu nghĩ cháu thà chết còn hơn.”
“Nhưng, Charlie à, đó là nơi cô bé đang ở,” ông Onimous giảng giải, “đứa bé mất tích ấy. Ít nhất thì đó cũng là suy luận của bọn mèo. Và chúng không bao giờ sai.”
Ông đứng lên, “Nào nào, lũ mèo, chúng ta phải đi thôi.”
“Ông bảo đứa bé trong hình bị mất tích sao?” Charlie hỏi. “Làm thế nào mà người ta có thể đánh mất một đứa bé?”
“Tôi không nói được,” ông Onimous bảo. “Cậu hãy mang tấm hình trả lại đúng chỗ của nó, và có lẽ người ta sẽ nói cho cậu biết.”
“Nhưng cháu không biết nó là của ai,” Charlie nói, bắt đầu phát hoảng. Ông Onimous sắp sửa biến đi mà chẳng giúp được nó cái gì.
“Dùng cái đầu của cậu đi, Charlie. Đó là tấm ảnh phóng to chứ gì? Hãy tìm bản gốc, cậu sẽ thấy trên đó ghi một cái tên và địa chỉ.”
“Thật à?”
“Chắc chắn,” ông Onimous vuốt vuốt mặt nhưng mịn màng của tấm áo choàng, bẻ cổ áo lên và hướng ra cửa.
Charlie đứng đực ra, bối rối, những câu hỏi nổ bong bong trong đầu. Khi chạy ra được tới cánh cửa vẫn còn để mở, thì tất cả những gì của vị khách mà nó có thể thấy được chỉ còn là một cái bóng đang bé lại, biến mất dần, theo sau là một dải màu nóng, giống như cái đuôi rực rỡ của một ngôi sao chổi.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...