Hầu như mọi người dân trong làng đều đã đọc bức thư trước khi Kalinger đặt chân tới.
Họ đều nhất trí rằng: chắc chắn tinh linh trong rừng đã gặp phải chuyện gì đó, có thể là bị ác ma đánh đập, uy hiếp, tra tấn, cũng có thể càng khủng khiếp hơn là bị ác ma chiếm mất cơ thể…
Kalinger hỏi thi nhân tại sao lại có phán đoán như thế thì nhận được câu trả lời là tổ tiên của họ biết trong rừng có tinh linh sinh sống, trong trí nhớ của các bậc trưởng lão thì đó là một vị tinh linh rất hiền hòa nho nhã, tuyệt đối không phải tính cách như bây giờ.
Tính cách chỉ là chi tiết nhỏ không đủ chứng minh.
Cái chính là những người dân từng đọc thư của tinh linh từ ngày xưa đều cho rằng nét chữ ngày ấy khác một xa nét chữ hiện tại.
Bức thư lần trước được gửi đến là vào mấy chục năm trước và vẫn được cất chứa trong quán rượu “Hoan ca”.
Khi thi nhân kể đến đoạn này, nữ chủ quán vòng ra đằng sau để lấy bức thư cũ.
Lần này thì đúng là loại giấy viết thư chính thống, được chủ quán đóng trong một chiếc khung ảnh bằng kính.
Kalinger cầm đọc thì quả là khác thật.
Nét chữ trong bức thư mới xinh đẹp nắn nót bao nhiêu thì nét chữ trong bức thư cũ xuề xòa, oặt ẹo, nghiêng ngả, rời rạc bấy nhiêu, nom thì đúng là của người trưởng thành viết nhưng có cảm giác ngay đó là một người lôi thôi lười biếng, khác hẳn phong cách trong bức thư mới.
Trong bức thư cũ không có một từ chửi bới.
Mở đầu thư là đôi lời hỏi han đơn giản, tiếp đến là danh sách rất nhiều đầu sách, bên dưới tỏ ý rằng số sách này sẽ được gửi từ vùng đất bên ngoài đến thành phố qua đường bưu chính trong một tháng, nhưng cần dân làng phải vào trong thành lấy về, đồng thời còn liệt vài cái tên và địa chỉ bảo người đi nhận có rảnh thì đến hỏi thăm.
Cuối thư người viết chúc cửa tiệm làm ăn phát đạt, nhấn mạnh không cần hồi âm, nếu có thắc mắc thì có thể đến các địa chỉ liệt kê ở bên trên, ở đó sẽ có người thay họ truyền đạt.
“Bức thư này lâu lắm rồi, nghe nói lúc ấy được một con chim mang đến,” – thi nhân giải thích, “Đưa cho trưởng làng khi đó, giờ thì ông ấy mất rồi.”.
Kalinger hỏi: “Trong thư nhắc đến làm ăn phát đạt là chỉ quán này đấy à?”
Thi nhân gật đầu.
“Rốt cuộc mấy người bán gì vậy?”
Thi nhân đáp: “Thực chất đây là thư viện kiêm bán một ít thực phẩm.”
Thư viện? – Kalinger giật mình lần nữa.
Anh ngoái nhìn về phía một góc của cửa tiệm nơi kê một loạt giá sách, công nhận là có không khí của thư viện loại nhỏ thật.
Trông thấy nét mặt của Kalinger khiến mẹ của thi nhân bật cười.
Bà tự hào cầm bức thư được đóng khung.
Làm chủ quán, lần này bà chủ động đứng ra nhận nhiệm vụ giải thích.
Bà nói, “Thư viện” này được thành lập nhờ sự trợ giúp của tinh linh trong rừng.
Mọi chuyện diễn ra từ rất lâu rất lâu trước kia, từ khi mà bố của mẹ của chủ quán vẫn là trẻ con.
Vào lúc ấy, người dân trong làng đã biết trong cánh rừng kế bên có một vị pháp sư tinh linh sinh sống.
Dù ai nấy đều tò mò song chưa ai từng gặp ông ta hoặc cô ta.
Cho tới một ngày, một chiếc rương chất đầy sách đột nhiên xuất hiện ở đầu thôn, trong rương để một lời nhắn ngụ ý là số sách này thừa ra sau lúc dọn dẹp, đốt thì tiếc nên gửi đến làng Cây Đen, tùy mọi người xử lý.
Có người cho đó là số sách của trí giả trong thành đưa đến, cũng có người thì cho là của tinh linh trong rừng gửi tới.
Song dù gửi từ ai thì làng Cây Đen cũng giữ lại.
Chẳng phải vì họ yêu thích đọc sách gì cho cam, mà bởi sách trong rương đều rất đẹp, trông rất thần bí huyền ảo nên để lại ngắm cho vui.
Khi ấy “Hoan ca” là một quán trọ, việc buôn bán thì thảm đạm vô cùng tận.
Làng Cây Đen không nằm trên trục giao thương, gần đấy cũng không có danh lam thắng cảnh gì, rất ít lữ khách tạt qua.
Trưởng làng quyết định gửi sách vào “Hoan ca”, ông nghĩ: Sách gửi đến cả thôn, mình ông giữ không được hợp tình lắm, mà nhà cũng chẳng còn chỗ để bày nhiều sách vậy, đưa vào quán trọ có không gian rộng rãi là tốt nhất, người dân trong làng ai cũng xem được.
Từ đó về sau, cứ một thời gian là lại có sách được đưa tới thôn, khi thì rương sách đột nhiên xuất hiện ở ngoài thành, khi thì có xe ngựa chở đến theo hướng từ trong thành.
Sách xuất hiện ở ngoài thành thì là sách cũ, đầu mục lung tung; sách vận chuyển từ trong thành thì là sách mới, người đánh ngựa nói rằng có người trả công để ông chở thẳng đến làng Cây Đen.
Trong nhiều năm, làng Cây Đen sản sinh ra ba dược sư, bảy tám người chép sách và vô số vệ binh gác thành, hầu hết đều làm việc trong thành, một vài người trong số họ còn vào đoàn kỵ sĩ của thành; mười năm trở lại đây, trong làng sinh ra hai người làm phép, hiện tại một người tiếp tục học ở trong trường gì đó ở bờ biển nào đấy, người còn lại không làm pháp sư mà làm nhà giả kim, theo chân một tổ đội buôn bán nguyên liệu làm phép…
Giờ nghĩ lại mới nhớ những người này khi còn nhỏ đều ăn nằm trong cửa hiệu “Hoan ca”, đầu tiên là xem tranh xem ảnh, sau đó thì nhờ người thu chi hay thi nhân dạy họ đọc chữ.
Đến ngày nay, “Hoan ca” vẫn có rất ít du khách đến nghỉ trọ, cũng không phải là quán rượu, mà là phòng đọc sách của toàn bộ thôn.
Dù rằng bây giờ đa phần khách đến quán chủ yếu vì những món ăn mới lạ và đồ uống độc đáo được bà chủ quán học từ trong sách, đôi khi người ở thành lân cận cũng sẽ đến làng Cây Đen chỉ để nếm thử một ly đồ uống đặc biệt được chủ quán tỉ mỉ điều chế mỗi quý.
Tất cả đều nhờ vào vị tinh linh ngày ấy.
Tuy rằng cả làng vẫn chẳng ai trông thấy ông ta hoặc cô ta tròn méo thế nào.
Những năm gần đây, tinh linh không còn gửi sách.
Làng Cây Đen cũng không để tâm, họ đã biết tự thân vận động, không còn ỷ lại vào số sách miễn phí.
Điều họ quan tâm chỉ có một, đó là sự tồn tại của tinh linh ngày một suy giảm, còn những chuyện kinh hoàng trong khu rừng thì ngày càng gia tăng…
Thậm chí, họ còn từng đoán, có phải tinh linh đã chết hay bỏ đi rồi không? Có thể bây giờ đã không còn ai trông giữ trong tòa tháp ngược nên ác ma trong tháp mới từ từ tỉnh giấc.
Nghe xong thì Kalinger hiểu chuyện gì xảy ra với cửa tiệm, nó không phải quán rượu mà vẫn kế thừa tên của quán rượu.
Nếu là vậy thì “thi nhân thường trú” chắc là giáo viên dạy trẻ.
Chủ quán kể chuyện không trọng tâm nên Kalinger phải tự kết luận vậy.
Theo Kalinger, thái độ của người viết không quan trọng, chữ viết mới đáng nghi ngờ, thậm chí chữ viết khác nhau thì cũng có thể vì biết đâu đấy trong rừng không chỉ có một tinh linh thì sao… quan trọng là từ các chi tiết có thể thấy người viết trước kia hay bây giờ đều thực sự quan tâm làng Cây Đen.
Tùy thuộc vào tình hình, người trước điềm đạm ôn hòa vì thời điểm đó không cần lo lắng về vấn đề an toàn còn người sau thì tức giận gần phát nổ.
“Rồi, tạm thời vậy đã, tôi đi kiểm tra xem sao.” – Kalinger trả bức thư ngoa ngoắt cho thi nhân rồi đứng dậy.
“Kiểm tra gì vậy?”
“Kiểm tra khu rừng.”
Cả thi nhân và chủ quán đều hoảng hốt chạy ra ngăn cản Kalinger đang chuẩn bị lấy áo choàng.
“Giờ không đi được?” – thi nhân can ngăn, “Đã tối rồi, vào rừng bây giờ không sáng suốt lắm đâu… có gì cũng đợi đến sáng mai hẵng đi!”
Kalinger tháo chiếc áo choàng treo trên cửa, “Trời tối mới là lúc quái vật hoành hành mà, đúng không nào?”
“Đúng vậy đúng vậy, nên…”
“Nên, đêm tối mới là cơ hội của thợ săn tiền thưởng.”
***
Kalinger không cưỡi ngựa.
Trước khi đi anh lấy một cây kiếm ngắn và chiếc rìu nhỏ trên lưng ngựa và giắt chúng ra sau lưng.
Đi thẳng về phía tây nam, qua trạm gác ở mé cánh đồng, càng đi sâu cây cối càng rậm rạp.
Làng Cây Đen vốn tọa lạc ở chân núi, không có ranh giới rõ ràng giữa trên và dưới núi.
Cánh rừng vào ban ngày đã âm u, đêm đến thì không một ánh trăng lọt.
Trận mưa lúc xế chiều không làm mặt đất của cánh rừng lầy lội đủ thấy tán cây dày đến cỡ nào, hệt một mái vòm bảo hộ.
Bóng tối và mặt đất gồ ghề không làm trở ngại tốc độ của Kalinger, chẳng mấy chốc anh đã tới sườn núi nơi cắm móc đầy các biển cảnh báo.
Y như trong bức thư mắng chửi, chỉ cần không đui thì kiểu gì cũng thấy mớ cảnh báo này.
Giữa các gốc cây cắm đầy bia gỗ, còn bia đá thì đứng tràn giữa các lối mòn miễn là có thể đi lại, trên cây rủ xuống vô số dây thừng và ở một đầu của chúng thì buộc đầy biển báo… các tấm biển cảnh báo chạy dài nên dù lên núi bằng các con đường khác nhau thì kiểu gì cũng thấy ít nhất vài cái.
Tuy đã vào đêm nhưng chữ viết trên các tấm biển vẫn rất rõ ràng, là nhờ ánh sáng từ đàn đom đóm bay lên từ các gốc cây chiếu sáng phạm vi chữ viết.
Kalinger nhìn chúng chằm chằm, hiển nhiên đó không phải những con đom đóm tự nhiên mà là kết quả của ma pháp.
Dân làng không nhắc đến có lẽ vì chả ai dám mò lên núi vào giữa đêm.
Pháp sư tinh linh này thật chu đáo khi lo liệu cả đến việc chiếu sáng vào ban đêm.
Kalinger vòng qua đống biển báo, tiếp tục dấn sâu vào trong rừng, tay đè lên chuôi kiếm bên hông.
Khu vực cảnh báo tạo thành một vùng đệm trải rộng và phải đi mất một lúc lâu mới thoát khỏi.
Kalinger cứ nghĩ càng lên trên sẽ càng tối nhưng sự thật thì hoàn toàn ngược lại.
Ánh trăng lọt qua các tán cây cao, ban đầu chỉ le lói như những đốm sáng xuyên qua các hốc cây hẹp, nhưng càng tiến về phía trước thì càng sáng tỏ đến mức mắt thường hoàn toàn có thể nhìn rõ bốn phía.
Khung cảnh bị nhuộm thành màu xanh lành lạnh, trông giống như khu rừng đang nằm giữa biển khơi.
Kalinger “chà” lên cảm thán, nhưng chả có thời gian ngắm cảnh vì phía sau anh đang có thứ gì đó lặng lẳng tới gần.
Kalinger đã nhận ra từ ban nãy nhưng không ngoái lại, cũng không thay đổi tốc độ.
Ẩn nấp trong lùm cây phía trước bất chợt lóe lên một màu đỏ.
Hai mắt Kalinger nhạy bén bắt giữ được nó, khóa chặt nó, nhìn nó trườn lên một cây cổ thụ và biển mất sau tán cây.
Một cơn gió nhẹ thoảng qua, cả cánh rừng vang dội tiếng rì rào.
Kalinger phẩy chiếc mũ, rút thanh kiếm dài bên hông ngay khi một chiếc bóng đen đúa bổ xuống từ tán cây phía trên đỉnh đầu.
Thanh kiếm vẽ nên một vầng trăng bạc chặt đứt đường đi của bóng đen, con quái vật tru tréo rồi trốn phắt ra ngoài.
Kalinger không đuổi theo, anh xoay phắt người đối diện với một cái mồm đỏ au chực bổ nhào đến từ sau lưng.
Ánh kiếm lại chớp lên, một chất lỏng đen đặc hôi khủng khiếp bắn lên áo choàng của Kalinger.
Giờ thì anh đã nhìn rõ hai con quái vật.
Con đánh lén phía sau là một động vật màu đen trông giống sói, hai mắt đỏ và phần ngực thì to một cách bất thường.
Con nấp trong tán cây phía trên thì là một loại họ nhà chuột nhưng hiển nhiên là to hơn bất kỳ con chuột nào anh từng gặp, đầu chuột nhưng không có lông, da nó nứt toác như bị cháy với những đường nứt nẻ ửng đỏ lên như đang bị thiêu cháy.
Hai con quái vật lại lao về phía Kalinger.
Lần này chúng quyết định không tập kích trong yên lặng nữa, mà vừa khoe bộ răng lởm chởm vừa gào lên dữ tợn.
Kalinger quyết định đối phó với con quái vật không lông trước, khi nó xông về phía anh thì một kiếm đã đâm thủng cổ họng nó, sau đó Kalinger xoay người quăng con quái vật chuột vào con sói đen đang chực nhào tới.
Con chuột trượt ra khỏi thanh kiếm, rơi “phịch” ra đất rồi nằm yên bất động, con sói hất nó ra chuẩn bị đợt tấn công tiếp theo, nhưng Kalinger nhanh hơn, anh lao đến trước đầu nó và chém ngang một đường, con sói đen đổ “rầm” xuống đất, giữa đầu và cổ nó chỉ còn một lớp da thịt mỏng là còn nối liền.
“Đây không phải ác ma.” – anh lẩm bẩm.
Kalinger không cất vũ khí, anh cầm kiềm tiếp tục đi về phía trước, thanh kiếm dài bị nhuộm bởi dòng máu đen nhưng nhanh chóng nhỏ xuống hết sạch, dưới ánh sáng xanh của rừng cây, nó càng tòa ra sát ý lạnh lẽo.
Rừng cây nhiều tạp âm hơn, những thứ ẩn nấp trong mỗi góc khuất bắt đầu xao động, chúng đang tụ tập lại đây từ bốn phương tám hướng.
Kalinger im lặng đếm đến năm, một con dã thú đen đúa xồ ra từ cánh phải, ngay sau đó cũng từ hướng đó xuất hiện thêm một con khác, ở một góc tối khác cũng xuất hiện những đôi mắt đỏ quạch.
Sau khi xử lý gọn gàng ba con dã thú, Kalinger lao về phía con thứ tư, lúc này, một loạt những tiếng bò “loạt xoạt” tiếp cận anh từ sau lưng, chúng hành quân theo hình cánh quạt.
Kalinger bật nhảy lên tránh con quái vật gần nhất, đồng thời bám vào một cành cây đủ chắc chắn, đu người trèo lên.
Phía sau nơi mà Kalinger vừa đứng là một bầy động vật lông lá, to hơn sâu và nhỏ hơn thỏ hay chuột.
Không bắt được Kalinger, chúng cũng không thèm đuổi theo mà chuyển mục tiêu sang con quái vật to béo và bắt đầu rỉa thịt nó điên cuồng.
Kalinger chăm chú quan sát, nhận ra bầy động vật này không phải cùng một loài, một số con tương tự sâu lông nhưng ở phiên bản khổng lồ, một số khác lại là những con kiến đầy gai nhọn.
Con quái vật to lớn rú lên thảm thiết rồi đổ rầm xuống đất, một số con trong bầy bắt đầu bò lên cây.
Kalinger nhảy xuổng, bầy động vật bò được nửa đường cũng quay đầu bò xuống đất rào rào.
Khi Kalinger đang tự hỏi “Dùng chân dẫm liệu có chậm quá không” thì trên mặt đất bỗng nhiên lan tràn một luồng ánh sáng trắng.
Ánh sáng phát ra từ sâu trong cánh rừng và nhanh chóng trườn lên các nhánh cây, trông giống như chớp sáng trên mặt đất.
Ánh sáng đi đâu là trong các hốc cây hay bụi cỏ lại phát ra hàng loạt các tiếng rít the thé.
Lũ động vật trước mặt Kalinger cũng bị ánh sáng cắt ngọt như thái rau.
Từ thi thể chúng bốc lên một luồng khí nóng, không một giọt máu nào được chảy ra.
Cánh rừng lặng ngắt như tờ, tiếng cỏ cây lay động cũng biến mất tăm.
Một lúc lâu sau, một trận loạt xoạt cuối cùng vang lên rồi mọi thứ trở về yên tĩnh.
Kalinger nhìn theo hướng nguồn sáng.
Bên đó cũng có thứ đang nhìn anh chằm chằm.
Hai bên theo dõi nhau, sau cùng người cất bước trước vẫn là Kalinger.
Trong bụi cây vang tiếng xột xoạt trước khi một con nhện khổng lồ đứng nhổm lên.
Nó cao cỡ một người trưởng thành, toàn thân đen nhánh, những chiếc chân nhỏ như cành cây đỡ cơ thể tròn lẳn.
Nhìn kỹ Kalinger xác định đó không phải nhện, vì chỉ có bốn chân và không có đầu.
Con nhện không có bất cứ hành động tấn công hay phòng bị, nó không mắt, nhưng Kalinger vẫn có cảm giác đang bị nó nhìn chằm chằm.
“Đây là một loại golem máy, tôi nhận ra đấy,” – Kalinger nhìn con nhện và nói, “Người làm phép ở gần đây không? Tôi muốn nói chuyện với ngài.”
“Mời lại gần.”
Là âm thanh phát ra từ con golem.
Không phải giọng của con người, đó là chất giọng đều đều cứng ngắc, không có vần điệu ngắt nghỉ, cũng không phân biệt được giới tính, chỉ phát âm từng từ mà thôi.
Kalinger hơi chần chừ, con golem lại phát ra âm thanh, “Mời lại gần, mời lại gần.”
Kalinger bước tới, khi đến gần, bốn chiếc chân của con golem gập ngắn lại, cơ thể tròn lẳn hạ thấp đến tầm ngực của con người.
Kalinger cúi đầu thì thấy trên đỉnh cơ thể tròn lẳn của nó có một nút hình tròn màu đỏ.
“Mời ấn vào đây,” – âm thanh đều đều của golem vang lên, “Mời ấn vào đây, để nói chuyện.”
Ngộ thật! – Kalinger ấn ngón trỏ vào nút đỏ, golem lại nói, “Xin chờ trong giây lát, không di chuyển ngón tay.
Xin chờ trong giây lát… đã thông, có thể nhấc tay ra.”
Kalinge nhấc tay ra theo hướng dẫn, thử hỏi một câu, “Alo, tôi đang nói chuyện với người thật chứ?”
Golem trả lời: “Vào rừng lúc nửa đêm nửa hôm, ngươi muốn chết hay muốn vừa chết vừa khóc? Ngươi không giống người làng Cây Đen, ngươi là ai?”
Vẫn là giọng điệu máy móc nhưng chí ít Kalinger có thể nhận ra có cảm xúc trong đó.
Vậy đây không phải âm thanh được thiết lập sẵn, hẳn là người làm phép đối thoại với anh thông qua hệ thống phát thanh của golem.
Kalinger lờ đi phần mỉa mai, chỉ tự giới thiệu, “Tôi là thợ săn tiền thưởng, ngài cứ gọi tôi là Kalinger.”
Đối phương im lặng một lúc, nếu đối phương là pháp sư thì kiểu gì cũng thừa hiểu sự khác nhau giữa một thợ săn tiền thưởng và một thợ săn bình thường.
“Vậy ra đám thiếu thông minh ở làng Cây Đen thuê ngươi?” – golem lại phát ra tiếng, dùng giọng điệu đầy máy móc phát ra một tràng từ ngữ cay nghiệt, “Nếu ngươi muốn sống để thấy mặt trời mọc vào ngày mai thì tốt nhất là ngoan ngoãn nghe theo lời ta.
Bây giờ cỗ máy này sẽ dẫn đường đưa ngươi xuống núi, cố mà mở to mắt, chớ buồn ngủ cũng đừng chạy lung tung, cố mà đuổi kịp, ta cam đoan ngươi sẽ an toàn.”
Kalinger đáp: “Không được, tôi chưa đi được.
Tôi đến để hoàn thành công việc, chưa xong việc sao đi được?”
“Có phải ngươi cho là mình mạnh lắm phải không? Thợ săn tiền thưởng thì hay lắm ha? Làm như dũng sĩ diệt rồng ha?”
“Người trong làng nói ngài là tinh linh pháp sư,” – Kalinger cười nói, “Tôi thấy ngài vừa mệt vừa bận, ngài không cần giúp đỡ sao? Tôi muốn gặp mặt ngài cùng bàn bạc về sự việc xảy ra ở đây, chúng ta hợp tác.”
Âm thanh của golem tuôn ra nhanh hơn, “Hợp tác cái con khỉ! Ngươi không thấy xấu hổ sao? Ngươi không có vợ ư? Không mẹ ư? Ngươi chết thì thôi, nhưng ngươi không nghĩ lại xem? Những thứ ngươi vừa gặp chỉ là sinh vật bị dị giới đồng hóa sơ cấp thôi, mới có ba con, ngươi đã tự cho là mình giỏi lắm phải không? Nếu ngươi vẫn lảng vảng trong rừng thì ngươi không chỉ gặp ba mươi con, ba trăm con thôi đâu! Chúng sẽ xé ngươi thành ba trăm mảnh mà vợ với mẹ ngươi phải cầm kim khâu ngươi ba ngày ba đêm mới xong!”
Tối nay, Kalinger bị chấn động lần thứ ba.
Ai cũng nói, đám pháp sư lúc nào cũng cáu kỉnh, đầu óc nhanh nhạy, mồm mép cay nghiệt, xem ra là thật.
Vị pháp sư này… sao lại có văn hóa như thế chứ? Đến mắng chửi người cũng văn minh và tao nhã thế nhỉ?
Golem chuyển động mấy cái chân tong teo đổi hướng, muốn để Kalinger đi theo, nhưng Kalinger không đi, anh không đi theo golem mà tiếp tục lên núi.
Golem đuổi theo phát ra những tiếng xột xoạt giục Kalinger đi xuống, âm thanh máy móc liên tục phát ra cả tá từ ngữ vô cùng “tao nhã”.
Kalinger mặc kệ và tiếp tục đi về phía trước.
Sâu bên trong rừng không còn lối đi hoàn chỉnh nào, Kalinger dùng kiếm liên tục chém vào các nhánh cây chìa ra mở đường, đi gần nửa dặm thì đến một mảnh đất tương đối trống trải.
Miếng đất không rộng, dài rộng chỉ cỡ mấy chục bước.
Nhờ ma pháp chiếu sáng trên tán cây, Kalinger trông thấy một bóng người đi ra từ sau rừng cây đối diện.
Người đến mặc chiếc áo choàng xanh xám, dáng người mảnh khảnh, lộ ra ngoài chiếc mũ chùm là mấy lọn tóc vàng óng, dưới cổ tay áo thùng thình có một con lắc cảm xạ bằng thủy tinh rủ xuống, bao quanh con lắc là một vòng ánh sáng ấm áp quý giá nhất trong cánh rừng tối tăm.
“Chào buổi tối, ngài pháp sư.” – Kalinger mỉm cười đi về phía người đó.
___________
– Golem: Trong truyền thuyết Do Thái, Golem là tên của con quái vật được làm từ bùn cũng giống như con người nhưng mạnh và khỏe hơn loài người.
Đấy là định nghĩa nhe, còn trong truyện Golem là một dạng máy móc được thiết kế với nhiều tác dụng khác nhau và cũng từ nhiều nguyên liệu khác nhau chứ không chỉ bùn, chúng nó thể được làm từ máy móc, hoặc máy móc kết hợp với số vật liệu khác như đất, đá, gỗ, cũng có golem bằng máu, thịt, hay 1 số chất khác nhưng hiếm hơn.
Golem bằng đá:
Golem bằng máy móc:
.