Ba ngày sau, trong tuyết trắng mênh mang, chỉ thấy tiếng chim không thấy mùi hoa.
Phượng Cửu bấm bụng bỏ một món tiền lớn bao trọn tửu lầu Túy Lý Tiên, mời vũ nữ nổi tiếng lần trước đến góp vui, mời Đông Hoa uống rượu. Thực ra theo hiểu biết của nàng về Đông Hoa, Đế Quân hình như thích uống trà hơn. Nhưng trong vương thành Tỷ Dực Điểu không có nơi giải trí nào sang hơn tửu lầu này. Tiểu Yến gợi ý, đã mời khách, nên mời đến những nơi sang trọng mới thể hiện thành ý của mình, xiêu lòng bởi lời Tiểu Yến, Phượng Cửu hồ đồ gật đầu chọn Túy Lý Tiên.
Vì sao Phượng Cửu mời Đông Hoa uống rượu, chuyện này phải truy về hai ngày trước. Hai ngày trước đầu óc nàng vẫn luẩn quẩn quanh chuyện làm thế nào có được quả bần bà, lại thêm sau đó hàng ngày bận rộn phục dịch Đông Hoa, cộng thêm sáng sớm chưa hết ngái ngủ đã bước thấp bước cao đến học phủ, vừa ngẩng đầu đã nhìn thấy Tế Hàn phu tử cũng đang bước nhanh đến.
Do vẫn còn buồn ngủ, không có tâm trạng hàn huyên với phu tử, nàng ngoan ngoãn cúi đầu tránh sang bên. Nhưng Tế Hàn phu tử lại chạy thẳng đến trước mặt nàng, hân hoan nụ cười khoan hậu từ bi, cả đôi mắt nhỏ xuất chúng cũng chan chứa nụ cười, Phượng Cửu rùng mình, hết buồn ngủ, đầu óc lập tức tỉnh táo, đã thấy phu tử cúi mình, ánh mắt quan tâm trìu mến nhìn nàng: “Danh sách dự thi năm nay… mấy hôm trước tiểu quan sơ suất để sót, tối qua Đế Quân nhắc lão phu mới phát hiện bỏ sót tên cô nương”. Lại vuốt bộ râu dê tươi cười nịnh: “Thứ lỗi lão phu thiển cận, ha ha, thứ lỗi lão phu thiển cận”.
Phượng Cửu bàng hoàng nghe tin mình được dự thi đấu, có hy vọng đoạt được quả bần bà, đúng là đại hỷ. Lại nghe phu tử vừa nhắc gì hình như là Đế Quân, lại còn cười gian tự nhận mình thiển cận. Lập tức hiểu ra nguyên do, phu tử lại nhầm lẫn chi đây. Trong đời, lần đầu tiên nàng suy nghĩ nhanh nhạy trong hoàn cảnh như thế. Tuy nhiên Tế Hàn phu tử dù đã cao tuổi nhưng hành động còn nhanh hơn suy nghĩ của nàng, Phượng Cửu đang định giải thích, vừa ngẩng lên, trong tầm mắt chỉ còn bóng lưng ông già như hạt đậu đen biến mất trong sương mù.
Phượng Cửu cảm thấy Đông Hoa đã giúp nàng toại nguyện. Khi người ta có lòng giúp, bất luận là ai cũng nên mời người ta bữa rượu cảm ơn. Nhưng Đông Hoa, từ khi gặp lại, cũng khiến nàng gặp không ít xúi quẩy, bây giờ xem xét kỹ lại đối với nàng, chàng công lớn hơn tội, tội lớn hơn công hay là công tội như nhau, nàng rất băn khoăn. Phân vân suốt buổi học, sau đó vẫn phân vân, vậy là đưa vấn đề ra thỉnh giáo Yến Tri Ngộ.
Hôm trước Tiểu Yến mặt mũi hớn hở vẫy chào nàng, chuyển đến tẩm cư lộng lẫy của Đông Hoa, đương nhiên nhất cử lưỡng tiện, gặp được Cơ Hoành – người trong mộng của mình. Cơ Hoành gặp Tiểu Yến, được biết Đông Hoa đổi chỗ ở cho chàng, sững sờ một hồi, trên khuôn mặt xinh đẹp đoan nhã đột nhiên lăn ra hai giọt nước mắt. Hai giọt nước mắt của công chúa Cơ Hoành tựa hai hòn đá tảng đè lên lòng Tiểu Yến, khiến chàng đột nhiên nhận ra con đường đến trái tim người trong mộng vẫn còn vô vàn chông gai, chàng muôn phần phiền muộn.
Tối đó, Tiểu Yến mang hai bình rượu ra sân, đối ẩm với vầng trăng tới nửa đêm. Sau ly rượu cuối cùng chàng đột nhiên thức ngộ, mặc dù trước đây, khi biết Phượng Cửu là nữ vương Thanh Khâu, chàng rất kinh ngạc, không thể tin vị nữ vương được chúng tiên ở Đông Hoang sùng bái lại có vẻ như vậy, nhưng Phượng Cửu quả thật có dung mạo tuyệt trần, bây giờ lại sớm chiều sống bên Đông Hoa… đương nhiên Tiểu Yến chàng cũng từng cùng Phượng Cửu sớm chiều bên nhau không ít thời gian, nhưng chàng là người chung tình, một người như Đông Hoa đương nhiên không chung thủy bằng chàng, nếu Đông Hoa và Phượng Cửu sống chung trong một lạc viên… Lần này trái tim Cơ Hoành đã bị Đông Hoa làm tổn thương như vậy, chàng nhân cơ ngọt ngào an ủi, nhất định thành công!
Còn về Đông Hoa và Phượng Cửu, lần đầu gặp Phượng Cửu, quả thật chàng tưởng nàng là người trong lòng của Đông Hoa, nhưng lúc đó không mấy để ý đến nhan sắc của nàng. Về sau, khi đã để ý, đồng thời cũng biết nàng là nữ vương Thanh Khâu, chẳng có quan hệ gì với Đông Hoa, cũng không nghĩ nàng và Đông Hoa có hợp hay không. Bây giờ nhìn lại, hai người bên nhau, quả rất xứng đôi. Tiểu Yến hình dung ra một cảnh rất tốt đẹp, cả mừng. Có cơn lạnh thổi qua, chàng đột nhiên lại nghĩ ngày trước lúc ở cùng Phượng Cửu, chàng đã nói xấu Đông Hoa không ít… lòng đột nhiên ngán ngẩm. Tiểu Yến cầm chiếc chén không suy nghĩ đến nửa đêm, làm thế nào sửa lại hình ảnh Đông Hoa trong ấn tượng của Phượng Cửu. Nghĩ đến khi trời sáng, bị cảm thương hàn, vẫn không nghĩ ra diệu kế gì. Nhưng trong buổi học sáng hôm sau, Phượng Cửu lại chủ động chạy đến thỉnh chàng tham vấn làm sao hóa giải khúc mắc giữa nàng và Đông Hoa. Yến Trì Ngộ ngẩng cao đầu, hít nước mũi, ông trời đúng là anh minh!
Tiểu Yến một lòng tác hợp cho Phượng Cửu và Đông Hoa, trước thành ý xin thỉnh giáo của Phượng Cửu, chàng nho nhã nói trái lòng mình: “Mặt lạnh, à không, ý huynh nói là Đông Hoa, Đông Hoa xưa nay là người nghiêm cẩn, tiếng thơm không chỉ ở xứ thần của muội, ngay Ma tộc của huynh cũng biết. Nhưng hôm nay vì muội người ta lại có thể hạ mình có lời với vị phu tử kia, ân tình đó không đơn giản. Muội nói nào là nửa năm không đến cứu muội, nào là biến thành cái khăn lừa muội, tất cả chỉ là chuyện vặt, so với đại ân đại đức này quả thật không đáng nói!”. Nói đến đây, lòng thầm nghĩ phỉ báng bản thân, nhưng nghĩ tới hạnh phúc tương lai, lại tiếp tục: “Muội nên biết, Đông Hoa Đế Quân vì muội đã cam lòng hy sinh danh dự, thứ mà những bậc nam tử thành đạt như ta và Đế Quân coi trọng nhất. Chàng ta đối tốt với muội như vậy, muội nhất thiết phải mời chàng bữa rượu báo đáp, hơn nữa bữa rượu này phải mời ở Túy Lý Tiên đắt nhất kinh thành, mời cả vũ nữ đẹp nhất đến góp vui”. Chàng nghiêm trang nhìn Phượng Cửu: “Chúng ta phải hiểu đạo lý chịu ân tất báo, nếu người ta từng có lỗi nhỏ với mình, mình lại hẹp hòi chấp nê, không biết tri ân, thì khác chi loài súc sinh vô tình, chưa từng tu tiên?
Phượng Cửu hoàn toàn bất ngờ: “Vậy những gì muội nói với huynh, chuyện chàng ta bắt nạt muội, hóa ra chỉ là chuyện vặt? Đối những người ngoài cuộc, thực ra không đáng nói? Thì ra xưa nay muội là kẻ hẹp lòng?”. Lại rầu rĩ tự hỏi: “Muội hẹp lòng ư? Như thế đâu xứng là nữ vương của Đông Hoang?”.
Tiểu Yến thầm mắng Mặt lạnh đúng là vô liêm sỉ, ngay bản thân chàng cũng thế. Nhìn thần sắc Phượng Cửu bàng hoàng như thể cả thế giới sụp đổ, lại nghĩ đến nhan sắc và vẻ dịu dàng của Cơ Hoành, chàng nghiến răng, vẫn thành khẩn nghiêm trang thuyết phục: “Đương nhiên không đáng nói, Đông Hoa làm thế, rõ ràng có ý muốn kết giao với muội. Được giao du với người như vậy, muội nên trân trọng. Theo quan sát lâu nay của huynh, trước đây huynh hiểu lầm Đông Hoa quá sâu, thực ra Đông Hoa Đế Quân là… người tốt hiếm thấy”. Chàng lại lần nữa thầm phỉ báng bản thân.
Phượng Cửu cau mày trầm tư một lát, Tiểu Yến nheo mắt nhìn đám mây lơ lửng cuối trời, rồi thẫn thờ bỏ đi. Sau đó, ngày thứ ba là có bữa tiệc ngàn vàng mời khách ở Túy Lý Tiên sang trọng nhất kinh thành.
Tiệc, lại là bữa tiệc giá ngàn vàng. Vũ nữ nhảy múa mua vui kia cũng ngàn vàng một điệu khúc, dưới mỗi gót sen uyển chuyển là một đồng bạc trắng xòe hoa. Phượng Cửu nhìn mà xót, bởi hồi đầu, nàng thân không cắc bạc rơi xuống cái vực này, suốt nửa năm nay thu nhập chỉ có chút bạc vụn tiền công nấu ăn cho Tiểu Yến, bữa tiệc hôm nay tiêu hết nửa gia tài tích cóp của nàng.
Đông Hoa ngồi chính giữa lầu hai, lơ đãng nghịch chung rượu trong tay, tỏ ra không mấy hứng thú với vũ nữ mà Phượng Cửu đã chi khối bạc thuê đến. Bên phải chàng là Yến Trì Ngộ không mời mà đến, đang xem rất hào hứng, cạnh chàng là công chúa Cơ Hoành cũng không mời mà đến, mắt thu ba sóng sánh vô tình hay hữu ý luôn liếc về phía Đông Hoa. Nhìn cảnh đó Phượng Cửu thở dài, thực ra hai vị khách không mời mà đến kia cũng chẳng sao, chẳng mấy khi nàng vung tay một trận, thêm hai người chứng kiến cũng tốt. Chỉ có điều, Tam điện hạ Liên Tống ở cung Nguyên Cực trên Cửu Trùng Thiên, ngồi mé trái gõ phách theo nhạc công và biểu đệ của nàng, A Ly Cục bột nhỏ cầm chiếc quạt gõ nhịp… hai người này sao lại cũng xuất hiện ở đây, là nàng hoa mắt hay chưa tỉnh ngủ?
Bởi vì tuy nàng là chủ nhân nhưng lại đến sau cùng, lúc đến đã thấy hai người an tọa trên lầu hai, mọi người cơ hồ cũng không mấy mặn mà trước sự xuất hiện của Liên Tống và A Ly. Vừa nhìn thấy nàng, A Ly đã đứng dậy, ánh mắt ngây thơ lo lắng dừng trên mặt nàng giây lát, lại giả bộ ngó quanh một lượt, giả bộ ho một tiếng, sau đó ngồi xuống.
Phượng Cửu nghi hoặc đi lên lầu, gật đầu với tân khách coi như lời chào. Đông Hoa đang nghịch cốc rượu trong tay, nhìn thấy nàng, liền đưa mắt sang chiếc ghế bên cạnh mình, nàng hiểu ý, bối rối gãi đầu, ngoan ngoãn thư thả bước đến ngồi xuống chiếc ghế chàng đã chỉ.
Vừa ngồi xuống, tiểu nhị đứng hầu một bên đã vội dâng ly trà còn đang bốc khói. Đằng sau bức rèm trắng đối diện vẳng ra tiếng đàn dạt dào như sóng, lượn lờ như cá bơi quanh những xà, cột chạm trổ, phía bên kia, khuôn mặt tròn vành vạnh đáng yêu của A Ly thấp thoáng sau làn khói trà nhàn nhạt.
Phượng Cửu nhấp ngụm trà, thầm rên, cảm giác tất cả giống như giấc mơ. Nhưng cách mấy người, ánh mắt nóng bỏng của Cơ Hoành nhìn Đông Hoa lại rất thật. Phượng Cửu nhất thời không biết thực hay mơ, nghĩ một lát, lặng lẽ giơ tay cấu mạnh vào đùi mình… không thấy đau, trời ơi, quả nhiên là mơ, lại cấu lần nữa thì có tiếng Đông Hoa vang trên đầu: “Cấu có thuận tay không?”. Ngón tay cứng lại, Phượng Cửu cúi đầu nhìn thấy bàn tay mình đặt trên đùi Đế Quân, lặng lẽ rụt về, cười gượng: “Là tiểu bối thấy trang phục của Đế Quân bị nhăn, chỉnh lại giúp chàng”.
Mắt Đông Hoa hình như thoáng cười, Phượng Cửu còn chưa nhìn chính xác, nhưng thấy chàng bỏ qua, liền cúi đầu nhìn kỹ đùi mình, lại cấu mạnh một cái, đau quá, suýt bật kêu thì nghe thấy Liên Tống bên kia ngừng gõ phách bỗng bật cười khe khẽ: “Xem ra công chúa Cửu Ca nhìn thấy bản quân và điện hạ A Ly quả nhiên kinh ngạc. Thực ra bản quân đi chuyến này là mang đến cho Đông Hoa bình đan dược Lão Quân mới luyện xong, A Ly vô ý làm mất người chơi với mình, suốt ngày ủ rũ nên ta đã đưa đến đây cho khuây khỏa. Có điều…”. Tam điện hạ cười cười liếc Đông Hoa: “Có lẽ bản quân đã mang đến hơi muộn, lúc này e là Đông Hoa Đế Quân đã không còn cần dùng đến nó?”.
Phượng Cửu nghe Liên Tống gọi nàng là Cửu Ca, mới hiểu vì sao lúc nàng lên lầu A Ly trông có vẻ lo lắng như vậy, xem ra họ cũng biết Tỷ Dực Điểu có quan hệ với Thanh Khâu, cần giúp Phượng Cửu giấu thân phận. Hóa ra Liên Tống Quân mặc dù luôn phong lưu, khi có việc vẫn tương đối chu đáo.
Đông Hoa hình như đã chán nghịch cốc rượu vừa giơ ống tay áo rộng, chiếc bình ngọc trắng bóng trên tay Liên Tống đã nhảy sang tay chàng, chàng xoay nó một vòng nói: “Bây giờ mặc dù không cần dùng, nhưng sau này biết đâu có lúc cần”.
Liên Tống gõ chiếc quạt: “Đã sớm biết hiền huynh sẽ như vậy”.
Mấy lời trao đổi của họ nghe như câu đố, Phượng Cửu rất hiếu kỳ, đang định ngó xem chiếc bình ngọc trong tay Đông Hoa đựng linh đan diệu dược gì, thì thấy A Ly nãy giờ bị mọi người bỏ rơi, đang sầm mặt giận dỗi.
Hôm nay A Ly mặc áo chẽn ngắn màu lam bóng, chạy vụt đến như một làn khói lóng lánh.
Phượng Cửu cảm giác ánh mắt A Ly nhìn mình có gì rất buồn, nửa năm không gặp, tiểu tử đó đã biết buồn rồi ư! A Ly buồn rầu nhìn Phượng Cửu một lát, đột nhiên vụng về cởi cái tay nải giắt ở thắt lưng, tay nải trong tay bỗng phồng to gấp mười lần, đè lên người làm A Ly ngã uỵch xuống sàn, Phượng Cửu vội đỡ lên. Miệng tay nải tuột ra, một luồng sáng trắng chói mắt, dạ minh châu từ bên trong tràn ra trùm hết cả tay nải, Phượng Cửu trố mắt sững sờ.
A Ly da diết nhìn nàng, cao giọng: “Cô nương, cô nương xinh đẹp tuyệt trần, quả là chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa hờn, bản thiên tôn rất ngưỡng mộ, túi ngọc mình châu này là quà gặp mặt”. Phượng Cửu lảo đảo, A Ly giơ tay đỡ nàng, nói thầm vào tai: “Phượng Cửu tỷ tỷ, tiền của tỷ hôm đó đệ mang đi đánh cược rồi, nhưng nghe nói, cuộc sống ở đây cần tiền, đệ liền đem tất số tiền được mừng tuổi từ nhỏ đến giờ mang đến cứu trợ khẩn cấp. Vừa rồi đệ diễn rất đạt phải không…”. Phượng Cửu ngồi tựa vào A Ly, cũng nói nhỏ vào tai: “Diễn rất tốt, rất hào hiệp”.
Nhưng, hôm nay không chịu được cô đơn không chỉ một mình A Ly. Vừa rồi lúc lên lầu, Phượng Cửu đã nghĩ người đông đủ như vậy, bao cả lầu hai, không diễn mấy tấn trò hay e có lỗi với ngân lượng mình bỏ ra. Trên bục cao bằng đá tùng vân, vũ điệu của đào nương vừa dừng theo tiếng nhạc, công chúa Cơ Hoành quả nhiên không phụ mong đợi, vội vàng vòng qua mọi người, bê một âu sứ trắng hoa văn màu lam chìa trước mặt Đế Quân.
Nắp âu vừa mở, một mùi thơm kỳ diệu, bay vào mũi, lọt vào cổ họng, Phượng Cửu nhận ra đây là mùi canh cá ngân tuyết nấu với mộc liên tử và đằng trường sinh. Tài nấu bếp của Cơ Hoành đương nhiên không bằng nàng, có điều về món canh, coi như nàng ta cũng nấu tàm tạm. Phượng Cửu còn nhớ, Đông Hoa đặc biệt thích món canh mộc liên tử, bằng ấy năm, khẩu vị của chàng vẫn không thay đổi.
Trong phòng chợt yên ắng, chỉ nghe thấy tiếng lách cách của chiếc muôi trong tay Cơ Hoành va vào thành âu. Phượng Cửu ghé mắt nhìn sang, Đông Hoa đang cúi đầu nhìn Cơ Hoành múc canh, trên đôi tay mảnh dẻ trắng như tuyết của nàng ta không hiểu sao lại nổi những nốt mẩn đỏ rất rõ, Cơ Hoành múc xong canh, chìa trước mặt Đông Hoa. Chàng bỗng nói: “Chẳng phải đã bảo, nàng không thể động tay vào đằng trường sinh?”. Hai người ngồi cạnh chàng, bên này Phượng Cửu tay đang rót trà chợt dừng, bên kia Liên Tống Quân ung dung phe phảy cái quạt.
Vai Cơ Hoành dường như cứng lại, lát sau, khẽ đáp: “Sư phụ vẫn còn nhớ nô tỳ dị ứng với đằng trường sinh”. Nói xong, ngẩng đầu cười bẽn lẽn: “Nô tỳ sợ sư phụ dùng bữa ở chỗ công chúa Cửu Ca không quen, nhân tiện hôm nay hầm canh mang đến. Canh mộc liên tử nếu không có vị đằng trường sinh e mất hương vị mà sư phụ đã quen, nhưng nô tỳ cũng không động nhiều vào đằng trường sinh, không sao cả”. Lại ngừng, sắc hồng bỗng hiện trên má: “Nhưng, sư phụ lo lắng cho nô tỳ như vậy, nô tỳ cũng thấy…”.
Nửa câu sau có lẽ đang không biết nên nói hay nên dừng, Phượng Cửu đặt ấm xuống bàn đánh “cạnh”, khẽ ho một tiếng: “Tiểu bối đi ra xem họ chuẩn bị thế nào”. Tiểu Yến buồn rầu đứng dậy, “Ta đi cùng”. A Ly nhìn phải nhìn trái, đứng lên góp vui: “Đệ cũng muốn đi, đệ cũng muốn đi!”.
Tay Đông Hoa đang cầm bát canh bỗng dừng, ngẩng nhìn Phượng Cửu lúc này đã đứng lên, tâm tư Phượng Cửu còn đang đặt cả vào vật gì trong ống tay áo, tìm mãi mới lôi ra gói bánh rất đẹp, bóc ra, tiện tay rút hai cái đưa cho A Ly đang đòi đi cùng: “Đệ ở đây ăn bánh, đừng đi theo vướng chân”. Ngoái đầu lại đưa cho Tiểu Yến hai chiếc: “Huynh cũng ăn bánh đi, đừng đi theo vướng chân”. Tay chìa ra, nghĩ sao lại thu về: “Ồ, nhưng mà huynh nhiều bệnh, không nên ăn bánh củ cải”. Tiện tay đưa luôn cho A Ly, Cục bột nhỏ nhìn chiếc bánh củ cải hồi lâu, cảm thấy hơi bất tiện nếu ngồi đây ăn, bởi xưa nay A Ly ăn bánh luôn thích cắn, gặm thoải mái, nghĩ một lát, ngại ngần nói: “Đệ vừa ăn vừa đi theo tỷ, đệ muốn ra ngoài dạo một lát, bánh vẫn ăn như thường”.
Phượng Cửu lừ mắt với tiểu tử đó, rồi liếc đến Tiểu Yến đang ngồi im như tượng. Trong ấn tượng của nàng, Tiểu Yến lúc nào cũng sôi nổi, giờ lại thấy ngồi yên quả thật có hơi lạ lùng, không nén được lại nhìn lần nữa.
Khi Phượng Cửu liếc nhìn Tiểu Yến, lòng chàng đang rất giận, ba bốn lần liếc về phía âu canh trước mặt Đông Hoa. Phượng Cửu đột nhiên vỡ lẽ, Tiểu Yến nhất định đang thích bát canh Cơ Hoành nấu cho Đông Hoa, lại buồn vì nàng ta không nấu cho mình. Vẻ tội nghiệp đó làm Phượng Cửu mủi lòng, vừa thầm thở than, vừa rút gói bánh định an ủi chàng.
Ngắm nghía gói bánh thầm nghĩ, không thể dỗ Tiểu Yến bằng gói bánh này, lại thở dài nói với chàng: “Buổi sáng muội đã làm ít bánh củ cải, bánh đậu xanh, đậu đỏ và bánh hoa mai để ăn dần, bánh đậu xanh, đậu đỏ huynh không thích ăn, bánh hoa mai muội lại cho vị gừng huynh không thích”. Lại thở dài, “Thôi, huynh cứ đi theo làm vướng chân muội vậy”.
Tiểu Yến đang ủ rũ chợt phấn chấn, vòng qua bàn lẩm bẩm: “Muội không thể làm món bánh huynh thích sao?”. Lại nghĩ tới điều gì, nhìn nàng bằng ánh mắt tội nghiệp: “Có phải muội đã quên huynh thích ăn bánh gì?”.
Chưa bao giờ thấy Tiểu Yến tủi thân, đáng thương như vậy, sâu trong lòng Phượng Cửu có gì đó sụp đổ, giọng bất giác dịu dàng xen lẫn xót thương: “Nhớ chứ, bánh hoa mai lạnh, thêm vị cam thảo”. Nàng trầm ngâm lại tiếp: “Hay là, hôm nay gọi một đĩa bánh này, Manh thiếu gia nói, đầu bếp ở đây nấu ăn rất giỏi, có lẽ sẽ hợp khẩu vị của huynh”. Tiểu Yến vẫn chưa hết rầu rĩ, nói: “Được, vậy bảo họ làm thử xem”.
Lại rầu rầu nói thêm: “Dạo này huynh thích vị mặn, hay là bảo họ cho thêm chút muối đừng cho cam thảo”. Lại tiếp: “Nếu không ngon thì làm vị cũ, hoặc cho thêm lòng đỏ trứng gà huynh cũng miễn cưỡng nếm thử”. Phượng Cửu nghe vậy choáng đầu, bình thường nếu Tiểu Yến đưa ra nhiều yêu sách như vậy đã bị nàng bóp chết, nhưng lúc này nể tình chàng đang thất vọng yếu đuối, nàng đành nín nhịn nhẫn nại nói: “Được, sẽ bảo họ làm bánh mặn để huynh nếm”. Lời vừa dứt đã nghe tiếng Cơ Hoành ngạc nhiên khẽ kêu: “Sư phụ, canh đổ kìa”.
Phượng Cửu ngừng lời nhìn sang, đúng lúc bắt gặp ánh mắt Đông Hoa. Cơ Hoành đang ngoan ngoãn thu dọn chỗ canh tràn ra bàn, Đông Hoa hơi ngẩng đầu, đăm đăm nhìn Phượng Cửu. Bị chàng nhìn như thế, Phượng Cửu cảm thấy hơi băn khoăn. Canh mộc liên tử vẫn bốc khói, Liên Tống Quân ho khan một tiếng, phá vỡ không khí trầm lắng: “Đã sớm nghe đồn tài nấu ăn của công chúa Cửu Ca, bản quân xưa nay thích nhất bánh đậu xanh, đậu đỏ, không biết hôm nay liệu có được vinh hạnh thưởng thức tài của công chúa?”.
Phượng Cửu bị Đông Hoa nhìn đến tê cả da đầu, đang muốn tìm cớ thoát khỏi ánh mắt đó mà lại không khiếm nhã, nghe Liên Tống Quân nói vậy cười tươi, thầm khen chàng xen lời đúng lúc, lập tức lấy túi bánh chìa ra mấy chiếc còn lại. Tiếng đàn lại vang, ánh mắt Đông Hoa vô tình liếc lại, Cơ Hoành nãy giờ bị bỏ bẵng, chợt lên tiếng: “Sư phụ, ăn thêm bát canh nữa chứ?”. Yến Trì Ngộ đã đi ra cửa lầu, đứng tựa cầu thang đưa mắt giục Phượng Cửu đi nhanh. Nhạc sư chơi khúc mới, trên đài vũ nữ lại biểu diễn vũ khúc khác, Phượng Cửu thầm rên, lại một món tiền phải chi! Tay nâng váy quay ra, đi ngang qua Đông Hoa đột nhiên nghe tiếng chàng nói nhỏ: “Cô nương rất hiểu khẩu vị của ta”.
Phượng Cửu vô thức cúi đầu, ánh mắt lại gặp mắt chàng lần nữa. Thái độ Đế Quân càng lạnh nhạt, Phượng Cửu bỗng giật mình, thái độ của chàng như thế lẽ nào vừa rồi mình có gì đắc tội với chàng? Bắt đầu điểm lại mọi sự vừa rồi, tưởng là đã hiểu ra, nói: “Ồ, thì ra chàng cũng muốn thưởng thức tay nghề của tiểu bối? Thực ra tiểu bối làm bánh không có gì đặc sắc, nấu canh cá là ngon nhất, chẳng phải đã nấu cho chàng ăn rồi?”.
Nói một thôi, sắc mặt Đông Hoa vẫn không thay đổi, Phượng Cửu gãi đầu, lát sau lại tiếp: “Ồ, thì ra chàng cũng muốn ăn thật… nhưng bánh đã hết mất rồi” bối rối nhìn A Ly: “Hay là hỏi điện hạ có bằng lòng chia cho Đế Quân một miếng…”. Lời còn chưa nói hết, A Ly điện hạ đã nhanh trí “soạt” một tiếng giấu chiếc bánh ra sau lưng, cảnh giác nói: “Tam điện hạ có sáu miếng, tiểu bối chỉ có bốn miếng nên để tam điện hạ chia cho, tại sao bắt tiểu bối chia”. Nghĩ một lát lại bổ sung: “Hơn nữa, tiểu bối nhỏ người, nhất định phải ăn nhiều mới cao lên được”.
Phượng Cửu xen vào: “Tỷ thấy ăn thêm hay bớt một cái bánh cũng không ảnh hưởng nhiều đến phát triển chiều cao của đệ…”.
A Ly cau mày, không chịu: “Nhưng tam điện hạ có sáu cái, đệ có bốn cái, nhất định không chia cho Đông Hoa… ca ca”. Chợt ngừng, lại nói chữa: “…à, Đông Hoa Đế Quân”.
Liên tam điện hạ chỉ thích chọc cho thiên hạ đại loạn, tay cầm sáu cái bánh, miệng cười tươi, ghé lại, không mấy khi có cơ hội công kích Đông Hoa, tam điện hạ rất khoái trá, phấn khởi nói với Đế Quân: “Mặc dù công chúa Cửu Ca rất hiểu khẩu vị của Yến Trì Ngộ, nhưng có lẽ không hiểu lắm khẩu vị của Đông Hoa Đế Quân, cũng như mấy cái bánh này rất hợp khẩu vị của tiểu đệ, nhưng chưa hẳn hợp khẩu vị của Đông Hoa Đế Quân, hà tất Đế Quân phải tranh với tiểu đệ cái bánh chưa chắc hợp khẩu vị của mình, chúng ta là chỗ bằng hữu lâu năm, hà tất phải thế?”.
Đông Hoa: “…”.
Tiểu Yến đứng ở cầu thang, đã chờ sốt ruột, to tiếng giục Phượng Cửu: “Có đi không, nếu đầu bếp ở đây không làm kịp bánh cho huynh, muội phải làm đền đó!”. Lời vừa dứt, có vật gì bay đến, Tiểu Yến ngã nhào xuống cầu thang, sau một loạt tiếng động, bên dưới một giọng rên rẩm tức tối vọng lên: “Kẻ nào định ám sát ta!”.
Âu canh vốn trong tay Đông Hoa bỗng không cánh mà bay, chàng thản nhiên nói từ xa: “Xin lỗi, ta tuột tay”.
A Ly miệng nhét đầy bánh củ cải, lúng búng khen: “Ôi, lăn xa thế!”.
Liên Tống: “…”.
Phượng Cửu: “…”.
Ngày thứ hai sau bữa tiệc ở Túy Lý Tiên, Phượng Cửu không thể ngờ nàng dốc sạch toàn bộ tài sản mời được Đông Hoa bữa tiệc xa xỉ đó, cuối cùng lại rơi vào cảnh bị cầm tù. Thực ra, sáng sớm nàng đã dậy trang điểm, men theo con đường nhỏ trong lạc viên đi thẳng ra cổng, định đến học phủ, một chân vừa ung dung đặt lên đường, bỗng “pằng” một tiếng, va vào bức tường kính bị hất trở lại.
Phượng Cửu từ nhỏ cùng sống với cô cô Bạch Thiển, được cô cô cưng chiều, cho nên từ khi còn là hồ ly bé tý nàng đã ương bướng không chịu nghe ai, mấy lần bị phụ thân tức giận nhốt lại, nàng đều phá cửa chính, hoặc phá cửa sổ trốn ra. Lúc nhỏ, quả thật nàng rất khí phách, cũng rất có kinh nghiệm đối phó mọi hình phạt. Nhưng lần này, trí thông minh trước đây hoàn toàn vô dụng, Đông Hoa lại tệ đến mức đưa toàn bộ Tật Phong Viên vào kết giới do chàng hóa ra. Tu luyện của nàng không thể phá được kết giới, bằng này tuổi cuối cùng nàng vẫn bị người ta giam giữ thật sự. Nàng tức đầy ruột đầy gan xông thẳng đến tẩm phòng của Đông Hoa hỏi tội. Đế Quân vừa ngủ dậy, đang thắt dải áo ngoài, mắt vừa ngước, bắt gặp ánh mắt bừng bừng hỏa khí của nàng, giọng uể oải của người vừa ngủ dậy: “Hình như nghe nói, cô nương rất hứng thú với quả bần bà, giải thưởng của cuộc đua tài”.
Phượng Cửu không hiểu.
Đế Quân thư thả nói: “Ta dùng danh nghĩa của mình đưa cô nương vào dự cuộc đua tài, nếu cô nương không thắng, chẳng sẽ làm ta mất mặt?”.
Phượng Cửu vừa cảm thấy lạ bởi bao nhiêu năm nghe đồn cái gọi là thể diện đối với Đế Quân đều như phù vân, chàng bắt đầu quan tâm đến thể diện từ bao giờ? Vừa không hiểu, hỏi lại: “Nhưng chuyện này có gì liên quan đến tiểu bối?”.
Đế Quân ngước nhìn nàng, đã thắt xong dây lưng, thong thả nói: “Giam lại để đích thân ta dạy cô nương”.
Bên ngoài có tiếng cành cây khô gãy vì tuyết đọng quá dày, mấy con chim kinh động bay ra va vào vòm kính kết giới rơi xuống. Đông Hoa Đế Quân từ Bích Hải hóa sinh vạn vạn năm, chưa từng nghe chàng thu nhận đồ đệ, được chàng chỉ giáo càng là chuyện xa vời, mặc dù Cơ Hoành gọi chàng là sư phụ, nhưng Phượng Cửu không tin chàng có thể thực sự dạy nàng ta điều gì. Một Đông Hoa như thế, lần này lại có nhã hứng đích thân dạy nàng, Phượng Cửu cảm thấy chuyện quá lạ kỳ.
Nhưng xưa nay nàng tự nhìn nhận mình là vị tiên thông tỏ sự đời, biết lẽ thiệt hơn, nếu có thể được Đông Hoa chỉ giáo riêng, học được vài tuyệt chiêu diệu thức, trong cuộc đua tài quần hùng tranh bá sắp tới, quả bần bà khó gì không vào tay mình? Vậy là xua đi nộ khí vừa rồi, trở mặt làm tươi nghe theo.
Phượng Cửu thay đổi thái độ như vậy, thực ra còn một nguyên nhân sâu xa nữa, nàng đặc biệt coi trọng cuộc đua tài sẽ diễn ra sau mười ngày nữa. Tự cổ tới giờ, phàm những cuộc so tài không ngoài đấu kiếm đấu thương, hai ngày trước, nghe nói nơi thi đấu lần này sẽ là bên ngoài vương thành. Theo quy chế của cốc Phạn Âm, ngoài thành không thể thực thi pháp thuật, cho nên, Phượng Cửu nghĩ, cuộc thi biết đâu sẽ chuyển thành đua tài gọt lê, bổ dứa nàng vốn không thạo. Cũng may đã hỏi Manh thiếu gia được tin, lần này không yêu cầu quá nhiều chiêu thức, vẫn là đấu kiếm, nhưng do quy định cấm dùng phép thuật, cho nên khi đánh giá thắng thua sẽ chú trọng kiếm đạo và kiếm thuật.
Trò đấu kiếm, đối với Phượng Cửu quá đơn giản, từ nhỏ nàng đã chơi với thanh kiếm Đào Chú. Nhưng khi Manh thiếu gia phất ống tay áo chỉ cho nàng xem sàn đấu trên không, trên sườn núi trơ trụi, một trận địa cọc băng ẩn hiện trong sương mù, nàng quá bất ngờ, đứng ngây như tượng. Nghe Manh thiếu gia nói, các đối thủ sẽ đấu kiếm trên trận địa cọc băng đó, ai rơi xuống trước coi như thua, nàng lại càng sửng sốt, ở Thanh Khâu không có trò chơi đó. Cho nên mới sáng sớm nàng đã đến học phủ, định nhờ Manh thiếu gia dạy cho tuyệt chiêu nào chế phục đối thủ. Không ngờ bị Đế Quân chặn lại, Đông Hoa lại như uống nhầm thuốc, muốn đích thân dạy nàng.
Phượng Cửu được vận may rơi trúng đầu, kinh ngạc mừng rơn, ngơ ngẩn một phen, khi định thần trở lại, thấy mình đang đứng trong bếp nhặt đậu đũa nấu bữa sáng cho Đông Hoa, mải miết nhặt mãi, lý trí dần dần quay về, lòng đột nhiên trầm xuống. Đông Hoa giam mình ở đây, có đúng là để dạy mình giành phần thắng trong cuộc đua tài sắp tới? Chàng ta tốt bụng thế sao? Hay là uống nhầm thuốc? Nhưng Đế Quân dù uống nhầm thuốc cũng chưa chắc tốt bụng như thế.
Phượng Cửu lòng đầy tâm sự, hầu Đông Hoa xong bữa sáng, trong bữa đó nàng cũng chỉ động mấy miếng, mà ăn gì cũng không biết, lúc thu dọn bát đũa, loáng thoáng nghe tiếng Đông Hoa nói kế hoạch luyện tập mười ngày tới. Ba ngày đầu hình như là tập đi lại vững vàng ở nơi nào đó. Cảm thấy, Đông Hoa quả nhiên đang giỡn mình, qua kinh nghiệm xương máu mấy ngày nay, nàng đã hiểu ra, cho dù biết Đế Quân đùa giỡn cũng không thể tỏ ra cứng rắn với chàng, trước tiên cần tìm hiểu, nắm được mọi ý đồ của chàng, sau đó sẽ tìm cơ hội lặng lẽ chuồn khỏi đây, đó mới là thượng sách.
Cuối giờ Thìn, Phượng Cửu thủng thẳng đi đến hậu viên chỗ hẹn với Đông Hoa, vừa bước qua ô cửa vòm, mắt bỗng trợn tròn. Khu hậu viên vốn rộng thênh thang đã trở thành đấu trường cọc băng sáng lóa hắt lên không. Những cọc băng cao bằng hai thân người, chôn thành hàng, ngang dọc vuông vắn, giống hệt đấu trường trên sườn núi mà Manh thiếu gia đã chỉ cho nàng. Trong hậu viên ngoài chỗ đó, những nơi khác mọi ngày ngập trong tuyết, bây giờ là cảnh xuân sắc tưng bừng, cành đầy lộc biếc, hoa nở trắng như sương sa, nắng sớm nhảy nhót rắc vàng trên vòm kết giới trong veo, trên ghế băng, dưới gốc cây cổ thụ Đế Quân đang ung dung ngả mình lên thành ghế. Phượng Cửu cảm thấy, để có thể thư nhàn sưởi nắng giữa trời băng, Đông Hoa quả thực rất công phu.
Khi ánh mắt băn khoăn lần nữa liếc về phía trận địa cọc băng, đột nhiên toàn thân nhẹ bẫng, lúc sực tỉnh, đã thấy gió mang bụi tuyết rào rào quét qua mặt, cúi đầu thấy một mình đang đứng trên ngọn cọc băng. Đông Hoa đã rời khỏi ghế từ lúc nào, hôm nay chàng một thân áo trắng thanh khiết, dáng cao tuấn lãm khoanh tay đứng ngoài đấu trường, ngẩng đầu nhìn nàng một hồi, chậm rãi nói: “Trước tiên bỏ ra một ngày để tập đi đứng trên đó, nếu ngày mai ngày kia có thể bịt mắt mà vẫn đi lại bình thường như đi trên mặt đất thì ba ngày sau sẽ bắt đầu luyện kiếm đạo, kiếm thuật”.
Lại nhìn nàng một hồi: “Tiên thuật của cô nương đã bị thu hồi, vẫn có thể đứng trên đó lâu như vậy, kể ra tư chất không tồi”.
Phượng Cửu cố giữ thăng bằng, đứng yên, giọng run run một cách đáng ghét: “Tiểu bối… tiểu bối chưa nói với chàng, không có pháp thuật, tiểu bối rất sợ độ cao, ôi… Đế Quân cứu với…”.
Lời vừa ra khỏi miệng, chân đã trượt nhưng rơi xuống đất cũng không thấy đau lắm như tưởng tượng. Phượng Cửu chớp chớp mắt nhìn Đông Hoa đang đỡ nàng, lát sau hỏi: “Này, có phải chàng cố tình để tiểu bối lên đó muốn tiểu bối rơi xuống thừa cơ lợi dụng tiểu bối?”.
Tay Đế Quân vẫn giữ thắt lưng nàng, nghe vậy ngây ra hỏi: “Cô nương đang nói mơ chăng?”.
Phượng Cửu cụp mắt khẳng khái nói: “Vậy sao chàng vẫn còn ôm tiểu bối? Nhìn kìa tay chàng vẫn giữ chặt thắt lưng tiểu bối đây này”.
Đế Quân quả nhiên nhìn vào tay mình, lại nhìn nàng một lượt từ đầu xuống chân, xong xuôi, tuyên bố: “Nói vậy là cô nương đã đứng vững rồi?”. Không đợi Phượng Cửu trả lời thản nhiên buông tay, người Phượng Cửu vốn đang tựa vào chàng lập tức mất chỗ dựa, tay chàng vừa buông, liền ngã uỵch xuống đất, may mặt đất đầy tuyết, ngã cũng không đau lắm, nàng nghiến răng lồm cồm bò dậy, ngửa đầu thấy bàn tay kiêu kỳ chìa ra cho nàng. Đôi mắt Đông Hoa xưa nay vốn tĩnh lặng hơi lóe lên tia sáng ranh mãnh, khiến Phượng Cửu tức điên, ngoảnh mặt hừ một tiếng, đẩy tay chàng tự bò dậy, vừa phủi tuyết bám trên người, phẫn nộ nói: “Chỉ đùa chàng một chút, sao phải hẹp lòng như thế”. Nghĩ ra điều gì, càng phẫn nộ: “Thực ra chàng đang giỡn tiểu bối, sao có thể trong một ngày, nhắm mắt đi lại bình thường trên đó. Có tuyệt chiêu nhưng không chịu dạy tiểu bối. Đúng là hẹp hòi, cũng may xưa nay chàng không thu nạp đệ tử, làm đệ tử của chàng có khi suốt ngày bị chàng bỡn cợt, tiên thọ hao tổn một năm cũng chưa chắc học được gì”.
Nàng ngẩng đầu, nói rất hùng hồn, khiến chiếc nơ hoa trắng trên tóc mai vốn cài không chắc, lắc lư sắp rơi, cuối cùng không phụ mong đợi, tuột khỏi mái tóc, Đông Hoa chờ mãi, giơ tay bắt được. Cúi đầu nhìn chiếc nơ kết bằng tơ trắng trên tay, mắt chợt sáng hình như nhớ ra điều gì: “Nghe nói, khi người ta đang độ xuân xanh gặp được vị sư phụ có thể bỡn cợt mình, thực ra là chuyện có lợi suốt đời”.
Phượng Cửu không biết nói sao: “Chàng đừng tưởng tiểu bối không đọc sách, sách viết rõ ràng, sư phụ nghiêm không bao giờ đùa bỡn học trò”.
Đông Hoa tỏ vẻ ngạc nhiên: “Ồ, thì ra sách viết vậy? Ta quên mất, hình như cũng đại khái như thế”. Nói đoạn cầm nơ bước đến cài ngay ngắn lên tóc cho nàng, ngắm nghía xong lại nói: “Cô nương nếu muốn có quả bần bà, cứ làm theo lời ta, không sai đâu. Mặc dù có thể mập mờ trong quy chế cho cô nương thắng, nhưng không may lần này họ mời ta làm quan chủ khảo, cô nương có thấy ta là người có thể dung túng cho những trò mập mờ không?”.
Những lời như thế từ miệng Đông Hoa nói ra quả thực kỳ lạ, Phượng Cửu giơ tay ấn quai hàm nãy giờ vẫn há không ngậm lại được: “Những chuyện thế này trước đây chàng từng làm nhiều lần rồi ư…”.
Đế Quân hình như có vẻ không thật hài lòng với chiếc nơ trên tóc Phượng Cửu, lại lấy xuống trở tay làm ra một đóa hoa màu phấn hồng, vừa cài lại lên đầu nàng vừa nói: “Vậy thì coi như dạo này ta đột nhiên trở nên đặc biệt thận trọng”.
Mặc dù Đông Hoa nói vậy, nhưng nghĩ lại, Phượng Cửu vẫn hiểu chàng dạy nàng theo trình tự thực ra là rất đúng. Thân phận nàng có phần đặc biệt, nghe đồn nữ vương Tỷ Dực Điểu cũng đến dự, nếu chuyện mập mờ bị phát hiện, sẽ liên lụy đến thân thế của nàng, tiểu sự lại thành đại sự, nhất định ảnh hưởng đến tình bang giao của Thanh Khâu và Phạn Âm. Đế Quân không giỡn nàng, Đế Quân nghĩ rất thấu đáo, trong lòng lại thấy ngọt ngào.
Nhưng, Đế Quân không nói rõ, nàng cũng không nhạy cảm hiểu hàm ý ngoắt ngoéo, lặng lẽ sờ chiếc nơ mới trên tóc, ho khan một tiếng: “Nói vậy là, còn phải cảm ơn chàng đã coi trọng tiểu bối, chịu bỏ công sức chỉ giáo tiểu bối”. Lời vừa dứt, thầm nghĩ mặc dù đã hiểu ý Đông Hoa, nhưng nói vậy quả thực hơi thất lễ, đang xấu hổ định nói câu gì cứu vãn, Đế Quân đã ung dung nói: “Không cần khách khí, có điều xưa nay khó gặp ai đầu óc trì trệ như cô nương, muốn khai sáng một chút”. Phượng Cửu không biết nói sao, lập tức thu hồi chút áy náy lởn vởn trong đầu, lại nổi đóa: “Tiểu bối không tin tư chất của mình kém Tri Hạc, chẳng phải chàng vẫn dạy nàng ta!”.
Bộ dạng tức giận của nàng cơ hồ khiến Đông Hoa cảm thấy rất thú vị, ngắm nghía một hồi mới hỏi lại: “Tri Hạc? Nhiều năm trước, quả thật do bổn phận ta có dạy tiểu muội đó một dạo, nhưng sư phụ của Tri Hạc không phải là ta, sau khi theo học ta không được, tiểu muội bái Đẩu Mẫu Nguyên Quân làm sư phụ”. Lại tiếp: “Chuyện này, nàng rất để bụng phải không?”.
Phượng Cửu bị thu hút chú ý bởi ba chữ “do bổn phận”, câu sau chàng nói gì nàng nghe không vào, cũng quên là mình đang giận, vô thức lặp lại ba chữ đó “Do bổn phận?”. Vừa rồi có cơn gió cuốn tung bụi tuyết, làm mắt nàng vướng làn sương mỏng.
Đông Hoa ngây người, mãi mới trả lời: “Lúc nhỏ ta không cha không mẹ, khi mới hóa sinh, linh khí chưa đủ, suýt bị hổ sói ăn thịt, song thân của Tri Hạc thương tình mang về nhà, có công nuôi dưỡng ta. Chín vạn năm sau, trước lúc sắp vũ hóa, họ mới sinh được Tri Hạc, trao cho ta chăm sóc, ta đương nhiên không thể từ chối…”.
Có lẽ thời gian đã quá lâu, không dễ nhớ ra, chàng trầm ngâm: “Có điều, hình như Tri Hạc không học được gì từ ta. Nghe Trọng Lâm bảo, Tri Hạc nói, đã có ta nên không cần phải học gì hết”. Gần đây, mặc dù xem ra Đông Hoa có vẻ không muốn tiến thủ, nhưng là bởi vì không còn không gian tiến thủ nữa, từ xưa đến nay, chàng luôn không thích người thiếu chí khí, về mặt này chàng nổi tiếng khắt khe, cho nên rất có thể chàng không hài lòng với Tri Hạc.
Nhưng, Phượng Cửu tự nhận mình cũng không thuộc loại có chí tiến thủ bao nhiêu. Nghe chàng nói vậy không khỏi có chút cảm thông với Tri Hạc, hắng giọng nói: “Thực ra, nếu là Tri Hạc, tiểu bối cũng cảm thấy đã có chàng, không cần phải học gì hết”.
Phía xa, hoa hạnh theo gió bay tới, mấy cánh hoa lướt qua đầu Phượng Cửu. Nàng giơ tay vén món tóc xõa xuống trán, nghe tiếng Đông Hoa: “Nàng thì khác, Tiểu Bạch”. Phượng Cửu kinh ngạc ngẩng đầu, bắt gặp ánh mắt chàng. Đông Hoa lặng lẽ nhìn nàng một lát: “Nói nhiều như vậy, sẽ khát nước, ta đi pha trà, nàng tranh thủ tập đi”.
Phượng Cửu: “…”.
Đông Hoa: “Nàng có uống một chén không?”.
Phượng Cửu: “…”.
....
Ngày đầu tiên bị cầm cố trong kết giới, có nắng nhạt và gió nhẹ, Phượng Cửu tập đi tập lại mấy trăm lần trên cọc băng, lúc đầu vô cùng sợ hãi, rơi xuống hai lần, nhưng không thấy đau, dần dần yên tâm. Một ngày tổng cộng rơi xuống mười bảy, mười tám lần, bàn chân bị xước ba miếng da, trán có hai cái bướu. Cổ ngữ có câu, thầy nghiêm có trò giỏi, mặc dù bị mấy vết thương, nhưng hiệu quả đúng như Đông Hoa nói, khi mặt trời xuống núi, vốn rất sợ độ cao, Phượng Cửu đã có thể đi lại bình thường trên cọc băng.
Đông Hoa pha ấm trà, ngồi bên ngoài đấu trường, chơi cờ một mình suốt cả ngày.
Ngày thứ hai, thời tiết khá hơn ngày đầu, gió tuyết đỡ lồng lộn, Đế Quân quả nhiên giữ lời, lấy một dải lụa trắng bịt mắt nàng, ném vào đấu trường để nàng tập đi lại trên cọc băng.
Phượng Cửu loạng choạng tập đi lại theo con đường trong trí nhớ, được một nửa, bỗng thấy dưới chân đất rung núi lở, tưởng là phép thuật của Đông Hoa thử thách, vội quờ tay bám lấy vật gì để khỏi ngã. Không ngờ cọc băng phía sau đột nhiên gẫy gục, cái vật mà nàng đang bám lại ôm nàng sang một bên, trong hoảng loạn, chân không biết thế nào bước hụt ngã nhào xuống đất, môi va vào vật gì mềm mềm.
Nàng vô thức cắn vào vật đó, trong bóng tối nghe thấy Đế Quân hừ một tiếng. Phượng Cửu giật mình vội lột dải lụa bịt mắt, đập vào mắt là khuôn mặt Đế Quân gần trong gang tấc, môi dưới chàng có mấy dấu răng nổi bật, mặt Phượng Cửu đột nhiên trắng bệch rồi đỏ ửng.
Trên không trung, Liên tam điện hạ phe phẩy chiếc quạt cười ha hả: “A Ly làm ầm ĩ đòi ta dẫn đi tìm tỷ tỷ của nó, ta thấy hai vị bố trí kết giới ở đây, đành miễn cưỡng mở ra, không ngờ làm phiền hai vị, đắc tội đắc tội”.
A Ly quả nhiên đứng trên không nhìn họ, hai mắt trợn tròn, miệng há to đến mức nhét đủ hai con gà, kinh ngạc hỏi: “Vừa rồi có phải Phượng Cửu tỷ tỷ hôn Đông Hoa ca ca?”, rồi lại băn khoăn: “Có phải đệ sắp có cháu?”. Rồi lại hoảng hốt nói thêm: “Làm sao bây giờ, đệ vẫn chưa chuẩn bị tâm lý bế cháu”. Nói xong giận dỗi vọt lên một đám mây ngũ sắc bay đi, Liên Tống sợ A Ly gây chuyện, cúi nhìn hai người bên dưới vẫn ngồi co ro, đành đi theo A Ly, nhưng mắt vẫn tiếc rẻ muốn xem tiếp trò hay.
Phượng Cửu lặng lẽ bò khỏi người Đông Hoa, lặng lẽ quay trở lại đấu trường, vừa được ba bước, nghe giọng Đế Quân phía sau: “Tiểu Bạch, có phải ít nhất nàng cũng nên nói một câu xin lỗi đã cắn ta?”. Giọng nghiêm túc nhưng nghe rõ ràng hàm ý trêu chọc, trêu chọc người ta mà vẫn có thể thẳng thắn như vậy đích thực là phong cách của Đế Quân. Phượng Cửu không ngoái lại, nói khô khan: “Xin lỗi đã cắn tiền bối”. Đông Hoa lặng lẽ một hồi, đột nhiên dịu dàng nói: “Có thật lòng xin lỗi không?”. Phượng Cửu vấp một cái, tức giận ngoái đầu: “Lừa chàng được lợi gì?”. Đông Hoa tư lự một lát, nghi hoặc hỏi: “Đã đánh lừa người khác còn mong được gì? Chẳng phải mong mình sung sướng sao?”.
Phượng Cửu: “…Tiểu bối chịu thua”.
Ngày thứ ba, qua hai ngày vất vả tập luyện, Phượng Cửu cơ bản đã nắm được bí quyết “nhắm mắt đi trên cọc tuyết như đi trên mặt đất” trong nắng ấm và gió nhẹ, thận trọng nghiêm túc từng bước dần dần đi vững. Dù gì cũng từng đọc sách, Phượng Cửu vẫn nhớ không biết cuốn sách nào đã viết câu này: “Tâm sở đáo sở, thị vi không, thị vi giả tướng, thị dĩ giả tướng nãi không, ngộ thử kính giới, đạo đại thành”[1] luận từ câu Phật ngữ đó, suy ra trong bối cảnh này cái gọi là “giả tướng” chính là cọc băng, có thể tung hoành thể hiện kiếm pháp trên đỉnh cọc băng mà không bị chúng trói buộc chân tay mới gọi là hảo hán, điều hôm nay nàng cần luyện là làm sao coi vạn vật như không. Nàng nói ý nghĩ này với Đông Hoa, chàng rất tán thưởng, cho phép nàng cởi dải lụa bịt mắt, đi lại mấy vòng trên trận địa cọc băng, cảm thấy không có gì trở ngại.
[1] Tạm dịch nghĩa: Cái mà tâm cần đạt tới là coi vạn vật như không, những gì nhìn thấy trước mắt cũng là không, ngộ ra được đạo này, sự ắt thành.
Những phiến hoa hạnh trắng muốt như rẻo mây lơ lửng trên không. Có lẽ Đế Quân hai ngày liền đánh cờ một mình chán rồi, hôm nay không biết kiếm đâu được ít đất hảo hạng, ngồi ngoài đấu trường đang nhào nặn gì. Trước đây Phượng Cửu đã nhìn thấy chàng làm đồ gốm, trông rất chăm chú cơ hồ tập trung mọi tinh lực vào công việc, nhưng hôm nay thần sắc rất khác, nàng vừa tập luyện vừa thỉnh thoảng liếc nhìn, một lần, hai lần, ba lần, đến lần thứ tư thì ngã nhào từ cọc băng cao cả trượng xuống đất, nhưng dù sao cũng đã kịp nhìn rõ Đế Quân đang làm gì, hình như đang nặn một con rối.
Ngày hôm nay nàng chỉ bị rơi duy nhất lần đó, tiến bộ hơn nhiều so với hai ngày đầu, trong bữa tối, Đế Quân gắp thêm cho nàng mấy đũa cá hấp, coi như phần thưởng. Đang nghĩ nhân lúc ăn cá định làm như vô tình hỏi Đế Quân ban ngày rốt cuộc làm con rối gì, không ngờ mải nghĩ, nuốt phải một cái xương cá, mắc trong họng, bị Đế Quân bóp mũi đổ vào nửa bát dấm mới nuốt xuôi, sau việc đó lại quên mất vấn đề định hỏi.
Rốt cuộc Đế Quân làm con rối gì, trước lúc ngủ Phượng Cửu vẫn băn khoăn. Theo nàng biết, Đông Hoa đã tự tay làm rất nhiều đồ gốm, nhưng con rối gốm thì chưa thấy chàng làm bao giờ. Ban ngày do nàng nhìn trộm chàng làm nên mới bị ngã, Đông Hoa sau khi phát hiện, đầu tiên trầm ngâm nhìn nàng một hồi, sau dứt khoát, đổi hướng xoay lưng lại phía nàng, Phượng Cửu không hiểu rốt cuộc chàng định làm gì. Nhưng, càng không biết càng tò mò muốn biết. Vậy có nên nửa đêm nhân lúc Đông Hoa ngủ lẻn vào phòng chàng ngó trộm? Mặc dù nàng là nữ nhi nửa đêm canh ba vào phòng nam nhân có vẻ không hợp lễ, nhưng phòng ngủ của Đông Hoa, nàng cũng vào không biết bao nhiêu lần, ngay giường của chàng cũng hân hạnh chiếm một hai lần, quả thật gần như là hậu viên nhà mình, vậy thì nửa đêm đến đó lần nữa chắc cũng không sao.
Nửa vầng trăng chiếu qua song cửa, Phượng Cửu đầu nhức lưng mỏi vừa ngủ gật vừa suy nghĩ chuyện đó. Vốn định chỉ chợp mắt một lúc rồi sẽ lẳng lặng lẻn vào phòng Đông Hoa, nhưng do cả ngày luyện tập mệt vừa nằm xuống giường mắt đã díp lại, mơ màng chìm vào giấc ngủ.
Tuy nhiên do trong đầu vẫn lởn vởn chuyện kia nên ngủ không sâu, quá nửa đêm, láng máng nghe thấy ngoài cửa có tiếng chân đi đến gần, lát sau lại có tiếng đẩy cửa và tiếng chân đến bên giường. Tiếng bước chân dù trong hoàn cảnh nào cũng toát ra vẻ trầm tĩnh uy nghiêm mà nàng từng nghe không biết bao lần hồi còn ở cung Thái Thần. Trong mơ màng Phượng Cửu thử mở mắt, nhưng cơn buồn ngủ đè lên mí nặng trĩu như bị quỷ ám.
Trong phòng yên lặng một lát, Phượng Cửu chập chờn cảm giác đang mơ, trước lúc ngủ nàng định nửa đêm lẻn vào phòng Đông Hoa, cho nên mới mơ như thế, liền trở mình quấn chặt chăn quanh người, ngủ tiếp. Nhưng trong giấc chập chờn lại thấy một loạt tiếng động khe khẽ, trước khi lại chìm vào giấc ngủ, đột nhiên hít phải mùi hương an thần, mùi hương lọt vào phổi, trí não đang sáu bảy phần mơ hồ, cuối cùng tê hẳn. Nhưng vẫn có một sợi thần kinh còn tỉnh, thầm nghĩ loạt tiếng động khe khẽ vừa rồi có phải là Đế Quân đang thắp hương? Sáng mai tỉnh dậy phải nhìn lư hương xem có tàn hương an thần không thì sẽ biết có phải Đế Quân khó ngủ, nửa đêm dậy chăm sóc nàng.
Suy nghĩ đang phiêu du trong đêm tối, chiếc giường đột nhiên hơi trũng xuống, chiếc giường đã khá cũ, kêu cót két, trong tiếng cót két đó, Phượng Cửu cảm thấy có bàn tay lành lạnh đặt lên trán mình, nhẹ nhàng dịch xuống chỗ hai cái bướu sưng to do ngã lúc tập luyện ban ngày, khi ngón tay xoa lên đó, cảm giác hơi đau, lòng lại hồ nghi, sao mơ lại chi tiết, chân thực như vậy, nghiến răng hít một hơi, miệng lẩm bẩm câu gì, lại trở mình, bàn tay đó rụt lại, lát sau có mùi hương nhài thoang thoảng át mùi hương an thần lọt vào mũi. Nàng hắt hơi một cái, lại lẩm bẩm, xoay người, bàn tay vừa nãy quệt chất gì dinh dính tựa như loại cao nào đó xoa lên cái u trên trán nàng, ngón tay nhẹ nhàng xoa mãi, nàng thấy vô cùng dễ chịu, thì ra đây là giấc mơ đẹp, lập tức chìm vào giấc ngủ sâu.
À, đó là mùi bột hoa mộc phù dung, nàng nhớ ra rồi!
Bột mộc phù dung có thể thông kinh giảm đau, tán huyết tụ rất công hiệu, Phượng Cửu biết rõ điều đó. Ngày trước ở cung Thái Thần, khi còn là tiểu hồ ly, vào ngày gió êm, trời ấm nàng thường một mình chạy đến mảnh vườn trong khu rừng nhỏ hái hoa mộc phù dung. Hồi đó trên bức tường bao cạnh cây bồ đề trong vườn có mấy cây mộc phù dung trồng làm cảnh, gặp gió thổi hoa rơi đầy đất, nàng dùng móng nhặt những cánh hoa gói vào chiếc khăn lụa do Trọng Lâm tặng, nhặt đủ số hoa tìm sợi dây ghé răng buộc lại, phấn khởi chạy đến con suối nhỏ gần đó, tìm tảng đá nhẵn, đổ hoa lên, dùng hòn đá trứng ngỗng đập nát, chế thành bột hoa, mang đến cho Đông Hoa đắp vào vết thương. Hồi đó không hiểu sao, tay Đông Hoa thường bị nứt do rất nhiều nguyên nhân. Nàng đem bột hoa đến cho chàng, Đông Hoa âu yếm vuốt tai nàng, Phượng Cửu rất vui, nàng vốn không sính văn chương, nhưng cũng làm một câu thơ nhỏ rất văn chương để kỷ niệm tâm trạng đó của mình, “Hoa nở hoa tàn hoa tán bột, thuận hòa yên ấm mãi bên nhau”. Khi nàng dùng móng viết lại câu thơ đó đưa cho Ti Mệnh xem, Ti Mệnh ôm bụng cười ngặt nghẽo, ngã rụng cả răng, nàng hừ hừ hai tiếng dùng móng viết một câu: “Rụng răng ngươi, không rụng răng ta”, sau đó ngạo nghễ vẫy đuôi bỏ đi. Lại nghĩ cả đời nàng chỉ làm duy nhất một câu thơ tình như vậy mà chưa kịp đọc cho người ấy nghe. Trong phút mơ màng đột nhiên thấy nỗi lạnh lẽo và sầu bi vô hạn.
Bỗng thấy cánh tay bị nhấc lên, chiếc áo lụa mỏng dính vào thân bị kéo đến tận bả vai, cái lạnh trong lòng bỗng chốc lan đến ngón tay. Lễ giáo bắt buộc nam nữ thụ thụ bất thân, Phượng Cửu là nữ thần, không câu nệ lễ giáo như người phàm. Nhưng không câu nệ đến mức này quả thật hơi quá, đến khi bàn tay người đó giữ vai nàng, những ngón tay hơi lạnh xoa cao vào vết bầm do va đập trong lúc luyện tập ban ngày. Phượng Cửu rùng mình, giấc mơ này quá thật. Ý thức hỗn độn bỗng tỉnh ra mấy phần sau cái rùng mình đó, nhưng vẫn không sao mở được mắt. Tuy mí mắt vẫn nặng trịch, nhưng hé ra một khe sáng. Cảm giác này càng giống trong mơ. Cái bóng rõ dần trong khe sáng đó, quả nhiên là Đế Quân, đầu hơi cúi, tay vẫn để trên vai nàng, mái tóc dài màu bạc, như ánh trăng đổ xuống chăn gấm, trên khuôn mặt anh tú là vầng trán cao tư lự, dưới ánh đuốc hồng, ánh mắt đó thư thái nhìn nàng.
Đế Quân có thói quen, bất luận trong hoàn cảnh nào, tư thế ngủ luôn nghiêm ngắn đoan trang, nhưng mái tóc trắng thường buông xõa, trước đây Phượng Cửu cảm thấy điểm này của chàng lại rất đáng yêu. Lúc này lòng lại thầm nghĩ nếu đây đúng là giấc mơ thì giấc mơ này thực đến khó tin. Tuy nhiên, dù là giấc mơ cũng phải có nguyên do.
Nàng muốn hỏi Đông Hoa, nửa đêm đến thăm có việc gì quý hóa, lại tự trả lời, có lẽ đang giúp nàng đếm xem có bao nhiêu vết bầm bị thương lúc ban ngày. Lại muốn hỏi, tại sao nhất định phải đến vào nửa đêm, rồi lại tự trả lời, trị thương bằng mộc phù dung nên tiến hành lúc cơ thể thư thái hoàn toàn mới cho hiệu quả tốt nhất. Lại muốn hỏi, tại sao phải cởi xiêm y của nàng, lẽ nào không biết lễ giáo nam nữ thụ thụ bất thân, lòng lại thở dài tự trả lời, người ta quả thực coi những thứ đó là hư không, mình lại nói ra người ta lại tưởng mình phong tình. Nhưng ngoài mấy câu đó, không có gì để hỏi nữa.
Lẽ ra, nàng nên kinh ngạc hét lên rồi lùi tận góc giường, quấn chặt chăn vào người, vẻ hốt hoảng, phẫn nộ vì bị xúc phạm, quắc mắt nhìn Đế Quân. Điều này không phải nàng chưa nghĩ đến, nhưng như vậy càng tỏ ra phong tình, càng khiến người ta chê cười.
Phàm việc gì gặp phải Đế Quân cũng không thể hành xử theo lẽ thường, phải dửng dưng, phải ung dung, phải độ lượng và phong độ hết mực.
Phượng Cửu cứng người mặc cho tay Đế Quân đặt lên bờ vai hơi sưng của mình, thầm nhẩm bảy lần, hai từ đường hoàng, phong độ, rồi bình tĩnh cất tiếng: “Tiểu bối tỉnh rồi”.
Trong ánh đuốc, Đông Hoa nhìn nàng một lát, thu tay về, lại dùng ngón tay quệt cao trong chiếc bát gốm bôi lên vai nàng, nói: “Vừa hay, tự cởi hai nút áo ngực đi, cô nương cài chặt quá, ta không bôi được phía sau bả vai”.
Chàng lại có thể thản nhiên như vậy bảo nàng cởi cúc áo, Phượng Cửu quả thực sửng sốt hết nỗi, lát sau, lặng lẽ kéo chăn lên tận cằm, trở mình quay lưng lại: “Tiểu bối ngủ đây”.
Đang quay đi, đã bị Đông Hoa giơ tay cản, tay chàng nắm đầu vai trái nàng, chỗ không có vết bầm, nghiêng người ghé lại gần: “Cô nương sợ ta làm gì chăng?”. Giọng nói cơ hồ có gì buồn cười thú vị, Phượng Cửu kinh ngạc ngoái lại, thấy mặt Đông Hoa cách mình không quá một tấc, viên bảo thạch màu huyền lam trên trán in hình bóng đuốc, ánh mắt tươi cười. Nàng ngớ ra.
Trong khoảng cách đó, Đế Quân điềm nhiên nhìn nàng từ trên xuống dưới: “Cô nương bị thương như vậy, ta còn có thể làm gì?”.
Phượng Cửu co người lùi về sau, nghĩ một lát, tức giận nói: “Chàng đã biết tiểu bối bị thương không nhẹ, sao ban ngày không lấy cho ít nước?”. Nửa đêm tỉnh giấc, giọng nói nát như bột mỳ nhão, bồi thêm: “Lúc này lại đến giả làm người tốt”. Khi đầu nghẹo về sau, cằm chạm vào vết thương trên vai, rên một tiếng, mới biết vừa rồi không nhận thấy các vết bầm trên người đều đã được xử lý, chỉ còn vết sau vai là chưa, cũng chỉ có chỗ đó còn đau.
Đế Quân hơi nhích ra xa một chút, nói: “Luyện tập đương nhiên bắt buộc phải tự đứng dậy sau mỗi lần ngã, như thế mới có hiệu quả, ta không phải lúc nào cũng ở bên hỗ trợ cô nương mới là tốt”. Nói đoạn, giơ tay hất cúc cổ áo nàng, lại lấy gối chèn vào lưng kê cao người nàng, một loạt động tác chàng làm rất mau lẹ, không chần chừ, khi lớp cao mát lạnh bôi lên vết bầm phía sau bờ vai trắng tuyết của mình, Phượng Cửu lại cứng người.
Thực ra, Đông Hoa nói rất có lý, đó mới là suy nghĩ đúng đắn, mặc dù trong lòng tín phục, nhưng vì sĩ diện, nàng vẫn cứng cổ hừ một tiếng: “Nói cứ như tiểu bối là đồ bỏ đi, tiểu bối rơi xuống cốc Phạn Âm này không có chàng giúp chẳng phải vẫn sống rất tốt?”. Lại thêm một câu: “Thậm chí trước khi gặp lại chàng, cả người không hề bị xây xước! Về sau thương tích đầy mình đều là do chàng gây ra!”.
Đông Hoa hình như cố ý dừng tay hơi lâu trên vai nàng, nhướn mày: “Không có lồng Thiên Cương của ta trùm lên người, khi cô nương rơi xuống cổng vương cung Phạn Âm đã xương tan thịt nát rồi, còn đâu để ta dày vò nữa”.
Phượng Cửu không chịu, phản bác: “Đó là do Tiểu Yến tình nghĩa giúp tiểu bối…”. Mới nói đến đó liền im bặt, trong thời gian ở cốc Phạn Âm, ngoài một số nơi không thể thực thi pháp thuật như cổng vương cung chỗ họ rơi xuống, nàng và Tiểu Yến hai lần rơi từ vách đá, trong đó, ngoài lần thứ hai rơi đúng vào Manh thiếu gia, đầu óc choáng váng, quả thật đều khá suôn sẻ, không có gì trở ngại, nàng cũng nghĩ không biết mình may mắn hay Tiểu Yến may mắn, thì ra là do lồng Thiên Cương của Đông Hoa bảo vệ ư? Phát hiện này khiến Phượng Cửu có phần cứng lưỡi, cắn môi không biết nên nói gì, thì ra không phải Đế Quân bỏ mặc nàng, lồng Thiên Cương đối với tôn thần quan trọng thế nào nàng cũng nghe nói, vậy mà chàng lại để ở chỗ nàng, bảo vệ nàng bình an, thật là chí tình chí nghĩa, nhưng sao chàng không nói sớm?
Hơn nữa, một vật quan trọng như vậy để nàng mang cũng không thỏa đáng, nàng chỉ nhìn thấy lồng Thiên Cương một lần trong trận đấu giữa Đông Hoa và Tiểu Yến, khí trường của nó khác hẳn linh vật khác, không biết chàng giấu nó chỗ nào trên người nàng. Phượng Cửu rất băn khoăn, ngẩng đầu hỏi Đế Quân: “Vậy nó… ở chỗ nào?”. Lại bối rối ho khan một tiếng, ngoảnh mặt đi: “Lồng Thiên Cương bảo vệ lâu như vậy rất cảm kích, nhưng một thứ quý giá quan trọng thế để ở chỗ tiểu bối e là không thỏa, vẫn nên lấy ra trả lại chàng”.
Tay Đế Quân cầm cây nến, vừa soi xoa vết bầm sau vai nàng vừa nói: “Trả ta làm gì, vật đó chỉ là tiên lực diễn sinh của ta, khi ta vũ hóa tự khắc tiêu tan”.
Chàng nói rất tự nhiên, Phượng Cửu càng băn khoăn, vội hỏi: “Chàng cũng sẽ vũ hóa? Vì sao phải vũ hóa?”.
Mặc dù nói thần tiên tuổi thọ ngang trời, nhưng chỉ được như vậy nếu thiên địa không có đại họa, tai ương. Tuy nhiên, tứ hải bát hoang, trên Cửu Trùng Thiên, dưới phàm trần có biết bao tai ương, tự thượng cổ đến nay rất nhiều tôn thần vũ hóa đều có căn nguyên từ tai ương của tạo hóa.
Phượng Cửu từng nghe nói, cuối thời hồng hoang, giữa thiên địa tồn tại ba thiên thế lớn và rất nhiều phàm thế, tộc người yếu đuối nhất bị đuổi đến phàm thế, nhưng phàm thế mới kiến tạo, có bao nhiêu hành luật không được kiểm soát, hồng hoang hạn hán, lũ lụt, băng tuyết triền miên, khiến tộc người khó bề sinh sống, một số đấng tạo thế trước Đông Hoa đã mất nhiều thời gian để điều phục tự nhiên phù hợp điều kiện cho tộc người an cư, cuối cùng thần lực cạn kiệt mà vũ hóa, thân quy vào hỗn mang, đến nay tứ hải bát hoang không còn nhìn thấy dấu vết các vị thần sáng thế. Phượng Cửu cũng hiểu sơ sơ, những vị lão thần thời hồng hoang do tiên lực cao siêu nên phải gánh vác trọng trách nặng nề nguy hiểm, hơn nữa đa phần vũ hóa thân mình mới giữ cho thiên địa bình an. Nhưng Đông Hoa vẫn sống đến ngày nay, nàng tưởng chàng khác họ, cho dù có ngày vũ hóa nhưng cũng là chuyện xa vời, giờ nghe chàng nói vậy, tưởng như chuyện sắp xảy ra, bỗng dưng kinh hãi, toàn thân lạnh ngắt, cổ họng khô chát, liếm môi, lắp bắp: “Nếu nhất định phải thế… khi nào chàng sẽ…?”.
Hương an thần rất đậm, có mấy con đom đóm lọt vào qua khe cửa, hình như Đông Hoa hơi ngạc nhiên trước câu hỏi của nàng, giơ tay cài cúc ngực cho nàng, nghĩ một lát, nói: “Từ ngày khai thiên lập địa, vẫn chưa có thảm họa nào của tạo hóa nguy hại đến tồn vong của tứ hải bát hoang, nếu có ngày xảy ra thảm họa đó có lẽ cũng là ngày ta vũ hóa”. Nhìn nàng một hồi, ánh mắt vui cười: “Có điều chuyện này ít nhất cũng mấy chục vạn năm nữa. Ồ, bây giờ cô nương chưa cần lo đến phát khóc”.
Bị hấp dẫn bởi mùi hương an thần đặc biệt, đom đóm bay vào phòng mỗi lúc một nhiều, trông như những viên ngọc bích điểm xuyết trong màn đêm màu xám. Đông Hoa vốn bị Yến Trì Ngộ và những kẻ không ưa chàng gọi là Mặt lạnh, thực ra rất có lý, nhưng không có ý ám chỉ tính cách chàng lạnh lùng, mà ám chỉ vẻ an nhiên trầm như mặt nước cho dù châm biếm người khác và khuôn mặt hầu như không mỉm cười của chàng. Nhưng đêm nay chàng cười nhiều như vậy, mặc dù chỉ là cười trong mắt hoặc trong giọng nói, cũng khiến Phượng Cửu nhất thời choáng váng. Có điều, vừa rồi chàng nói gì nàng vẫn nghe rất rõ, yếu ớt phản bác: “Tiểu bối không thèm lo lắng”. Nhưng thấy chàng nói vậy, lại thầm thở phào. Cười cười nhìn Đông Hoa, im lặng một lát, rồi lảng sang chuyện khác: “Nhưng mà, gần đây tiểu bối có thấy tay chàng bị vết thương nào nữa đâu, sao lại mang bột mộc phù dung bên người?”.
Đông Hoa nghe nàng hỏi, im lặng một lát, mới nói: “Sao cô nương biết tay ta hay bị thương?”.
Phượng Cửu bỗng toát mồ hôi, lẽ ra chuyện tay chàng thường có vết thương ngoài người hầu thân cận nhất và con tiểu hồ ly năm xưa, không ai biết, ngay đến cô cô Bạch Thiển của nàng có quan hệ thân thiết nhất với Cửu Trùng Thiên cũng không nghe nói, huống hồ là nàng, may lúc nguy cấp lại sinh mưu trí vội nói chữa: “À, mộc phù dung chẳng phải chuyên trị vết thương ở tay và lưng sao?”. Sau đó giả bộ thò đầu ngó vào chiếc bát gốm trên tay chàng: “Bột hoa này là chàng làm ư? Trộn rất đều, lại còn…”.
Đông Hoa vừa đảo chỗ bột hoa còn lại trong bát, vừa cúi nhìn nàng, trả lời: “Trước đây ta có nuôi một tiểu hồ ly, bột này là nó làm”.
Phượng Cửu hào phóng tự khen: “Con hồ ly đó móng vuốt cũng khéo thật, bột hoa làm vừa mịn, vừa thơm… à, mà chàng xoa lên mặt tiểu bối làm gì?”.
Đông Hoa khom người đem bôi chỗ bột hoa còn lại lên mặt nàng, thản nhiên đáp: “Còn thừa một ít, nghe nói thứ này có công dụng dưỡng nhan, không nên lãng phí”.
Phượng Cửu giãy giụa vùng ra, tay quệt ít bột hoa trong bát gốm trắng, lao đến trả thù, nhe răng cười: “Nào, có phúc cùng hưởng, chàng cũng bôi một ít…” thuận tay đè Đông Hoa xuống, tay kia xoa bột phù dung lên trán Đế Quân, lại nhìn thấy mắt chàng lóng lánh. Mấy con đom đóm đậu trên vai chàng, mấy con khác đậu trên bức bình phong phía trước, khiến bức họa đầm sen đìu hiu mùa sen tàn trở nên sinh động. Phượng Cửu quỳ trên người chàng, một tay đè cánh tay chàng dưới chăn, bàn tay kia tháo dải lụa buộc trên trán chàng, lần đầu tiên nhìn mắt Đông Hoa ở khoảng cách gần như vậy, đây là vị thần tôn quý nhất thế gian, người nàng sùng bái nhất. Đột nhiên nhận ra hai người trong tư thế này thật kỳ khôi, chợt sững ra. Đế Quân bị nàng hành hạ nhưng cũng không phản kháng, chỉ thong thả nói: “Không phải vừa nói có phúc cùng hưởng sao? Không bôi đi?”. Vừa nói vậy vừa nắm cổ tay vốn định rụt lại của Phượng Cửu, đặt lên mặt mình, trong suốt quá trình, vẫn thản nhiên nhìn vào mắt nàng.
Phượng Cửu cảm thấy mặt mình nóng đỏ. Lát sau hốt hoảng tụt khỏi người chàng, chân tay luống cuống lủi vào góc giường, trùm chăn kín người, gối lên chiếc gối sứ, cả người nằm thu lu trong góc, giả bộ ngáp: “Tiểu bối buồn ngủ quá, phải ngủ đây, chàng đi ra nhớ đóng cửa giúp”. Giọng không hiểu sao run run.
Đế Quân hình như tiếc rẻ nói: “Chưa rửa tay đã định đi ngủ?”.
Phượng Cửu: “…Không cần, ngày mai giặt chăn”.
Đông Hoa ngồi dậy, lưu lại trong phòng một lát, có cơn gió lùa vào, ngọn đuốc bỗng tắt phụt, giống như có tiên pháp trùm lên, Phượng Cửu hơi căng thẳng, cảm thấy hơi hướng của Đế Quân lại gần, tóc đã chạm vào má nàng, nhưng không có động tác nào khác, hình như chỉ định kiểm tra xem, rốt cuộc nàng buồn ngủ thật hay giả bộ.
Trong bóng tối tiếng bước chân càng rõ, đến khi nghe thấy tiếng cửa mở, rồi lại đóng, mới thở phào, quay người lại mở mắt nhìn trong phòng vẫn còn mấy con đom đóm đậu trên bàn ghế, trông chúng lờ đờ không sinh động như lúc trước, hình như cũng buồn ngủ.
Phượng Cửu cảm thấy Đông Hoa đêm nay có gì rất lạ, nghĩ đến những gì vừa diễn ra, tim bỗng đập thình thình, vội ấp tay lên ngực, chợt nghĩ tay vừa rồi còn quệt bột hoa, cúi nhìn, trong ánh đom đóm lập lòe, lại nhìn thấy đôi tay trắng muốt, làm gì có dấu bột hoa, có lẽ trước lúc đi Đông Hoa dùng phép thuật xóa đi. Lòng vui vui, khóe miệng hơi nhếch, mỉm cười mà bản thân cũng không biết, nhắm mắt niệm một hồi “Đại định thanh tâm chú”[2] mới bình yên đi vào giấc mộng.
Cuối giờ dần, ống tay áo Phượng Cửu bị ai lay mạnh, mắt lờ đờ vừa trở mình vừa lẩm bẩm: “Đế Quân, ban đêm đừng có lắm chuyện, để cho người ta…” chữ “ngủ” chưa kịp nói đã chìm nghỉm trong ánh mắt kinh ngạc long lanh của Tiểu Yến đang cúi xuống giường.
Sao mai treo tít trên trời, miệng Tiểu Yến há to đến nỗi có thể nhét vừa quả trứng vịt, ấp úng hỏi: “Muội và Mặt lạnh đã… đã tiến triển đến bước đó ư?”. Đập hai tay vào nhau: “Quả nhiên huynh không nhìn nhầm ông ta!”. Cười ha hả: “Vậy là, Cơ Hoành cũng nên dứt tình với ông ta thôi, huynh đã biết ông ta không chung tình như huynh, không cưỡng nổi mỹ nhân kế của muội”. Nói xong phấn khởi gãi đầu: “Lúc này huynh nên đi an ủi Cơ Hoành thế nào để nàng tự nguyện lao vào lòng huynh mà không hối hận?”.
.....
Trong phòng chỉ có một viên dạ minh châu chiếu sáng, Phượng Cửu thấy Tiểu Yến đứng tựa chân giường ngước nhìn ánh trăng, lúc vui, lúc tư lự, lúc lo lắng đăm chiêu, nàng ngơ ngác, không hiểu chuyện gì, sau khi dụi mắt, giơ tay cấu Tiểu Yến một cái, hỏi: “Đau không?”.
Tiểu Yến nhảy dựng lên: “Đừng cấu, muội không nằm mơ đâu! Huynh cố tình chọn thời cơ mở một lối nhỏ đi vào kết giới của Mặt lạnh vào đây là để đưa muội đi khuyên bằng hữu của chúng ta!”.
Tiểu Yến hình như cuối cùng cũng nhớ ra mục đích đến đây, vẻ mặt nghiêm túc nói: “Muội có biết Lý Manh xảy ra chuyện không?”.
Phượng Cửu bị nhốt ở Tật Phong Viên ba ngày, đến cả một con muỗi bên ngoài nàng cũng không thể giao du được, đương nhiên làm sao biết, nhưng thần sắc nghiêm trọng của Tiểu Yến lập tức xua hết nửa cơn buồn ngủ, nàng giật mình hỏi lại: “Lý Manh?”.
Thần thái Tiểu Yến càng nghiêm trọng: “Tướng quân Thường Thắng mà thiếu gia yêu thương nhất vừa qua đời tại phủ đệ, thiếu gia đau buồn thương tiếc uống rượu say mềm ở Túy Lý Tiên chẵn một ngày một đêm, không ai khuyên can được, đường muội Khiết Lục sợ hoàng huynh say chết ở đó, không biết làm thế nào, chạy đến tìm huynh nhờ khuyên giải, nhưng muội xem, huynh có thể khuyên giải được người khác không? Những chuyện đó, suy cho cùng vẫn là nữ nhi làm hợp lý hơn…”.
Phượng Cửu khoác áo ngoài, hỏi: “Chưa nghe nói Lý Manh còn nuôi cả trai ở trong phủ đệ, chàng ta có thị hiếu đó vậy mà trước đây chúng ta sống ở đó không phát hiện ra, thực oan uổng là chỗ bằng hữu thân tình. Ôi dào, người trong lòng đột ngột tạ thế, bất luận thế nào cũng là một đòn tổn thương nặng nề, Manh thiếu gia quả đáng thương”. Vừa nói xong, lại sực nhớ chuyện đêm qua vẫn không biết là mơ hay thực, bèn đến cạnh chiếc án cao sát tường nhấc lư hương có hình kỳ lân đúc nổi đưa lên ngửi, không thấy mùi an thần, lại mượn viên dạ minh châu của Tiểu Yến soi kỹ, cũng không thấy tàn hương mới, nhìn vào gương đồng, hai cái u trên trán cũng biến mất, nhưng lại không có dấu vết bột hoa mộc phù dung. Hay đúng là nằm mơ? Nhưng sao lại mơ như vậy?
Tiểu Yến đón viên dạ minh châu nàng trả, ngạc nhiên hỏi: “Muội sao thế?”.
Phượng Cửu trầm ngâm một lát, nói: “Vừa có một giấc mơ”. Dừng một lát lại tiếp: “Không có gì”. Nói đoạn, đi ra gần cửa lại quay về mở chiếc tủ cạnh cửa sổ, lấy ra một bình sứ màu xanh, nói: “Bình mật ong thượng hạng lần trước mượn Lý Manh, định làm bánh mật, ai dè chưa kịp làm đã phải trả để giải rượu cho chàng ta, tiếc quá, tiếc quá!”.
Tiểu Yến chau mày: “Mật ong là bình bên phải, chiếc bình trong tay muội vẫn còn ghi hai chữ xì dầu kìa”. Nhìn nàng một hồi, thở dài: “Huynh thấy hôm nay muội rất kỳ cục, hay là muội cứ ngủ tiếp đi, nếu quả thực không khuyên giải được Lý Manh, huynh sẽ một gậy đánh ngất chàng ta, tình dài ý dài không bằng một gậy là xong!”.
Phượng Cửu xoa trán, nói: “Có lẽ ngủ không đủ nên đầu hơi váng, đã tỉnh rồi muộn vẫn nên đi một chuyến”. Rên rẩm một lát lại tiếp: “Nhưng mà, nhân tiện chúng ta vẫn nên mang theo cái gậy”.
Nhờ ánh sao đêm đi một mạch tới Túy Lý Tiên, Manh thiếu gia nước mắt, nước mũi hòa với rượu đang nhìn thi thể tướng quân Thường Thắng nằm trong chiếc hộp sành, một đám thị nữ quỳ xung quanh, nước mắt ngắn dài khuyên giải chàng, rằng dù gì người cũng đã chết nên sớm được bình an nhập thổ, hoàng tử điện hạ cần phấn chấn lên mới khiến tướng quân yên lòng. Manh thiếu gia mắt đỏ hoe, ba hồn bảy vía cơ hồ chỉ còn một, vẫn đăm đăm nhìn tướng quân, nước mắt, nước mũi, hòa với rượu, cảnh tượng đến nát lòng!
Phượng Cửu sững sờ, Tiểu Yến cũng sững sờ. Thì ra tướng quân Thường Thắng khiến nhị hoàng tử Lý Manh đau buồn muốn chết uống rượu quên sầu lại là một con dế đầu đỏ to tướng.
Quận chúa Khiết Lục thần sắc mệt mỏi, được hai hầu nữ dìu đến, Tiểu Yến gãi đầu hồi lâu, bối rối nói với nàng: “Manh huynh đệ tâm hồn nhạy cảm đến mức vì một con dế mà đau lòng đến vậy, quả thực ta không biết nên khuyên giải thế nào”.
Phượng Cửu liếc chiếc quách sành để thi thể tướng quân Thường Thắng, cảm thấy chiếc hộp đó không hiểu sao có vẻ quen quen, trên thành vẽ chùm hoa rụng trong mưa, giống đồ dùng của các tiểu thư, rất không hợp với công tử Lý Manh. Nhìn kỹ lần nữa, tướng quân Thường Thắng chân duỗi cứng đờ nằm trong hộp, từ di thể của nó có thể nhận ra lúc còn sống nó là một con dế dũng mãnh uy phong. Phượng Cửu cau mày nói với Khiết Lục: “Có phải con dế này sống lâu trong cốc, hút được linh khí tiên tu, nửa đêm biến thành thiếu lang mỹ miều mới được Manh thiếu gia yêu mến như vậy?”.
Khiết Lục kinh ngạc hét một tiếng vội bịt tai, trợn mắt nói: “Công chúa dám xúc phạm thanh danh đường huynh ta như vậy?”.
Phượng Cửu bất lực nói: “Ta cũng muốn đoán con dế này nửa đêm biến thành một tiên nga, nhưng đây lại là con dế đực… a, vương huynh nhìn xem, có phải là con dế đực không?”.
Tiểu Yến nghe lời, ghé lại nhìn, trả lời: “Theo kinh nghiệm chọi dế lâu năm của ta con dế đầu đỏ này đích thực là dế đực!”.
Khiết Lục tức tím mặt, giơ tay chỉ hai người, mãi không nói được, định quay đi. Hầu nữ biết ý vội bưng đến cốc trà để quận chúa hạ hỏa. Lát sau cơn giận của Khiết Lục hơi dịu, thất vọng nhìn hai người nói: “Thôi, mặc dù bây giờ ta không thật tin hai vị, nhưng lúc này cũng chỉ có hai vị có thể thuyết phục được đường huynh, có lẽ huynh ấy sẽ nghe lời hai vị. Con dế này chỉ là con dế. Nửa đêm không thể biến thành thiếu lang mỹ miều, cũng không thể biến thành tiên nga diễm lệ”. Lại liếc xéo hai người lần nữa: “…nhưng người tặng đường huynh con dế là người đặc biệt, chính người trong lòng huynh ấy”.
Phượng Cửu và Tiểu Yến lập tức dỏng tai ghé lại nghe.
Tỷ Dực Điểu xưa nay không liên hôn với các tộc khác là do tộc quy ràng buộc, mà tộc quy từ xưa luôn là sinh mệnh của bộ tộc này. Trong các linh cầm linh thú có thể hút linh khí của thiên địa để tu tiên, thành thần, thành tiên hơn nữa một khi kinh qua kiếp nạn là có tuổi thọ ngang trời như Long tộc, Phượng tộc, Hồ ly tộc là rất hiếm, các tộc khác đều có tuổi thọ giới hạn, ngàn năm hoặc vạn năm. Trong đó tuổi thọ của tộc Tỷ Dực Điểu là ngắn nhất, không quá ngàn năm, so với tuổi thọ mấy vạn năm của thần tiên bên ngoài cốc Phạn Âm có thể coi là ngắn như sáng sinh tối tử, liên hôn với các tộc có tuổi thọ cao rất dễ dẫn tới bi kịch cho nên bộ tộc mới có cấm chế liên hôn với ngoại tộc. Đối với bộ tộc Tỷ Dực Điểu, sáu mươi tuổi coi như thành niên, có thể kết hôn. Nghe nói hai tiểu đệ và ba tiểu muội của nhị hoàng tử Lý Manh đã kết hôn, nhất là tam hoàng tử đã lần lượt sinh bảy người con, nhưng nhị hoàng tử hơn tam hoàng tử hai chục tuổi đến giờ vẫn một mình, sau bữa ăn Phượng Cửu và Tiểu Yến từng nhiều lần bàn luận chuyện này, nhưng không tìm ra lời giải
Cho nên, hôm nay mới dỏng tai chờ quận chúa Khiết Lục tiết lộ.
Quận chúa Khiết Lục uống thêm ngụm trà, hắng giọng, kể lại câu chuyện tình vô vọng bắt đầu từ bảy mươi năm trước. Chàng thiếu niên tuấn tú tình cờ gặp một thiếu nữ, sau về tương tư không thiết ăn uống rồi sinh bệnh, nhưng vẫn một mực nếu không lấy được nàng chàng quyết đơn thân suốt đời, cho đến tận bây giờ.
Nghe nói, thiếu nữ năm xưa đã tặng tướng quân Thường Thắng và chiếc hộp sành cho chàng thiếu niên, chàng thiếu niên sau khi hồi hương ngày đêm nhìn vật nhớ người. Đương nhiên, thiếu niên đó chính là hoàng tử Lý Manh hào hoa của cốc Phạn Âm hôm nay. Lý Manh ngày đêm ngắm tướng quân Thường Thắng và chiếc hộp sành, tương tư cô thiếu nữ năm xưa, đối với chàng tướng quân Thường Thắng giống như sứ giả của tình yêu. Hôm nay tướng quân đã quy tiên, từ nay Lý Manh biết lấy gì gửi gắm nỗi niềm? Lấy gì hoài niệm nụ cười của thiếu nữ năm xưa? Cho nên hoàng tử đau lòng ngày đêm mua say ở tửu lầu.
Câu chuyện tình bi lụy đó khiến Phượng Cửu và Tiểu Yến động lòng trắc ẩn, thở dài thương cảm.
Tiểu Yến nói: “Thiếu nữ mà Manh huynh tương tư hẳn là người ngoại tộc? Nhưng nếu nàng còn sống, theo suy nghĩ của ta, có thể tác hợp, cho dù vi phạm tộc quy cũng chẳng phải chuyện gì lớn. Ở bộ tộc của mình, ta cũng thường vi phạm tộc quy, các bậc trưởng bối cũng chẳng làm gì được. Ngày ngày nhìn con dế, sầu héo chết mòn đâu phải là phong độ của bậc đại công tử!”.
Phượng Cửu thầm nghĩ các trưởng lão Ma tộc ai dám làm gì quân vương của Thanh chi, tộc quy của Ma tộc thì ra định ra chỉ để chơi, nhưng những lời khác của Tiểu Yến nàng vẫn rất tán đồng, gật đầu lia lịa, sau đó rất thành tâm nói với Khiết Lục: “Thiếu nữ đó không biết là thiên kim của bộ tộc nào, danh tính gì, chúng ta sẽ đi thăm dò giúp, nếu có thể viên tròn nguyện ước của nhị hoàng tử, là chỗ bằng hữu chúng ta cũng yên lòng”.
Khiết Lục lại uống một ngụm trà nữa, hình như có phần cảm động trước tấm lòng của hai người: “Đế cơ Thanh Khâu Bạch hồ tộc chín đuôi, nữ vương Đông Hoang, điện hạ Phượng Cửu, không biết hai vị có từng nghe danh, chính là người trong lòng của đường huynh”.
Phượng Cửu choáng váng lăn từ trên ghế xuống, Tiểu Yến há miệng: “Cái gì?”.
Khi Phượng Cửu bám tay Tiểu Yến đứng lên, nhìn khuôn mặt trông nghiêng của Lý Manh đang uống rượu một mình cách đó hai chiếc bàn dài, đột nhiên có một hạt giống rơi xuống ký ức nàng, nảy mầm trổ hoa. Nàng đã nhớ ra, tại sao chiếc hộp sành trông lại quen như vậy.
Có một câu chuyện thế này, cũng quả thật đã xảy ra bảy mươi năm trước.
Bảy mươi năm trước, một bằng hữu vong niên của thượng thần Chiết Nhan đến rừng đào mười dặm của ngài, tình cờ gặp Phượng Cửu đến hái đào, lập tức khuynh đảo vì dung nhan của nàng vừa gặp đã si mê. Người bạn vong niên của thượng thần Chiết Nhan là chúa tể sơn thần, cai quản vạn vạn sơn hà dưới trần thế, sống ở Chức Việt tiên sơn linh địa bậc nhất Bắc Hoang, tôn xưng là Thương Di Thần Quân… Thương Di Thần Quân không xuất thân từ thượng cổ Thần tộc hiển hách, được phong đệ nhất sơn thần là do chiến tích lẫy lừng mấy vạn năm nay, cho nên Chiết Nhan rất kính trọng, đánh giá ngài là vị thần tiểu bối mạnh nhất sau thời hồng hoang.
Thương Di Thần Quân tính tình rất quả quyết, sau khi ưng Phượng Cửu, không hề đắn đo, thành tâm thành ý thỉnh cầu thượng thần Chiết Nhan đến Thanh Khâu làm mối, Chiết Nhan nhận lời.
Không ngờ công lao to lớn mấy vạn năm trợ giúp trần thế sơn hà thịnh vượng và bản tính phóng khoáng của ngài, lập tức vừa ý thượng thần Bạch Dịch phụ thân của Phượng Cửu. Sau khi Phượng Cửu kế thừa vương vị Đông Hoang, đại sự đầu tiên mà Bạch Dịch lo liệu là tìm cho nàng một phu quân xứng đáng để củng cố vương vị, đôi mắt lão luyện tinh tường, qua ngàn vạn sàng lọc cuối cùng ưng Thương Di. Nhưng Phượng Cửu không đồng ý hôn sự đó, mặc dù cực lực phản đối, nhưng đương nhiên không chống lại được phụ thân, khi đoàn đón dâu của núi Chức Việt tiến vào Thanh Khâu, nàng bị phụ thân cho người trói lại, đưa vào kiệu tám người khiêng, theo đường núi khúc khuỷu về nhà chồng.
Thương Di Thần Quân lúc đó đang bận lo một việc quan trọng ở trần thế, đến đón dâu là một viên mãnh tướng dưới quyền, Phượng Cửu từ kiệu hoa nhìn ra thấy viên mãnh tướng thân cao chí ít mười thước, cảm giác không đánh nổi chàng ta, nên ngoan ngoãn án binh bất động suốt dọc đường, dự định khi kiệu đến Thần Cung mới hành sự. Nàng sẽ làm loạn Thần Cung, nhất định không chịu xuống kiệu lấy Thương Di để cho cả thiên hạ trên dưới đều biết, để xem phụ thân có ép được nàng. Sắp đặt như vậy, lòng bỗng nhẹ nhõm, suốt dọc đường đến núi Chức Việt vô cùng ngoan ngoãn ngồi yên trong kiệu. Kiệu hoa được phu khiêng đi rất nhanh nửa ngày đã tới chân núi Chức Việt.
Đoàn đón dâu đang rồng rắn đi vào sơn môn, đột nhiên bên ngoài kiệu có tiếng kêu thảm thiết, Phượng Cửu vén rèm nhìn ra, thấy viên mãnh tướng thân cao mười thước kia đang vung chiếc roi chín đốt đánh một thiếu niên mảnh khảnh có vẻ là tùy tùng trong đoàn. Giữa thanh thiên bạch nhật một hảo hán to khỏe bắt nạt một thiếu niên yếu ớt khiến Phượng Cửu không chịu nổi, vội rút chiếc trâm vàng phóng tới chặn cây roi, rồi sai hầu nữ đi hỏi nguồn cơn. Thì ra sự rất đơn giản, thiếu niên đó không phải ở Thần Cung, có lẽ là giữa đường lọt vào đoàn đón dâu, muốn đến núi Chức Việt không biết định làm gì. Núi Chức Việt có lệ, không phải là đệ tử của sơn môn không được vô cớ vào trong, chàng thiếu niên vừa bước qua sơn môn, chuông ngũ sắc đã ngân vang, vậy là bị lôi ra đánh.
Hai chân chàng thiếu niên hình như bị đánh rất đau, máu thấm ướt ống quần, yếu ớt phân trần: “Tiểu bối bị lạc mất ca ca, đang đi tìm thì nhìn thấy đoàn đón dâu, vì chưa bao giờ nhìn thấy tân nương ngoại tộc cho nên hiếu kỳ muốn xem mặt, tiểu bối không có dụng ý gì”.
Phượng Cửu từ xa nhìn chàng thiếu niên đau đớn phục trên đất, trông rất thảm thương. Tạm thời chưa cần biết chàng ta nói thật hay không, nếu là thật, một đứa trẻ muốn xem trò hay, núi Chức Việt hà tất hẹp hòi. Nếu là giả, ngày mai mình gây sự đại náo Thần Cung núi Chức Việt, nhân sự này trong cung càng náo loạn, lại có lợi cho mình… nghĩ vậy, Phượng Cửu vội vén rèm kiệu bước nhanh đến, đỡ chàng thiếu niên đứng dậy, làm bộ ngạc nhiên nói to: “Ôi, Tiểu Minh phải không, vừa rồi nhìn từ xa tỷ đã thấy giống đệ, nhưng ca ca đệ lúc này có lẽ đang ở chỗ Chiết Nhan hoặc ở Thanh Khâu chúng ta, sao đệ lại bị lạc? Ồ, hay là đệ theo tỷ xuống núi, hai ngày nữa tỷ sẽ cho người đưa đệ về Thanh Khâu đoàn tụ với ca ca”. Vừa đỡ chàng ta đứng lên, càng kinh ngạc thất sắc kêu to: “Ôi chà, sao lại bị thương nặng thế này, không được! Ngươi ngươi ngươi, cả ngươi nữa, mau dìu Minh thiếu gia vào kiệu của ta”. Chàng thiếu niên ngơ ngác bị một đám người hầu hốt hoảng dìu đi, lúc yên vị trên kiệu, vẫn chưa hiểu rốt cuộc xảy ra chuyện gì.
Trong ấn tượng của Phượng Cửu, chàng thiếu niên được nàng cứu trông vô cùng nhút nhát, từ khi vào kiệu chỉ yên lặng không nói. Vết thương ở chân tuy vẫn đau nhưng cũng đành chịu đựng đến khi vào Thần Cung núi Chức Việt mới được dùng bột giảm đau, băng bó chữa trị. Thấy chàng nhăn nhó cắn răng chịu đau, nàng rút trong ống tay áo một ống trúc trong có con dế đầu đỏ, các thiếu niên thường thích chọi dế, có lẽ con dế này có thể làm chàng ta chú ý, mà đỡ đau hơn. Nàng lại biến hóa ra một cái hộp sành, đổ con dế vào đó tặng tất cho chàng. Nàng không vô tư cứu chàng ta, lòng cũng có phần áy náy, tặng chàng món quà nhỏ coi như bù đắp, thiếu niên đỏ mặt đón lấy, miệng lí nhí cám ơn, ngẩng đầu liếc nàng một cái, lại lập tức cúi xuống: “Cô nương đã có lòng cứu ta, sau này nhất định báo đáp”.
[2] Bài chú để lòng thanh tĩnh.
....
Cuối giờ dần, ống tay áo Phượng Cửu bị ai lay mạnh, mắt lờ đờ vừa trở mình vừa lẩm bẩm: “Đế Quân, ban đêm đừng có lắm chuyện, để cho người ta…” chữ “ngủ” chưa kịp nói đã chìm nghỉm trong ánh mắt kinh ngạc long lanh của Tiểu Yến đang cúi xuống giường.
Sao mai treo tít trên trời, miệng Tiểu Yến há to đến nỗi có thể nhét vừa quả trứng vịt, ấp úng hỏi: “Muội và Mặt lạnh đã… đã tiến triển đến bước đó ư?”. Đập hai tay vào nhau: “Quả nhiên huynh không nhìn nhầm ông ta!”. Cười ha hả: “Vậy là, Cơ Hoành cũng nên dứt tình với ông ta thôi, huynh đã biết ông ta không chung tình như huynh, không cưỡng nổi mỹ nhân kế của muội”. Nói xong phấn khởi gãi đầu: “Lúc này huynh nên đi an ủi Cơ Hoành thế nào để nàng tự nguyện lao vào lòng huynh mà không hối hận?”.
Trong phòng chỉ có một viên dạ minh châu chiếu sáng, Phượng Cửu thấy Tiểu Yến đứng tựa chân giường ngước nhìn ánh trăng, lúc vui, lúc tư lự, lúc lo lắng đăm chiêu, nàng ngơ ngác, không hiểu chuyện gì, sau khi dụi mắt, giơ tay cấu Tiểu Yến một cái, hỏi: “Đau không?”.
Tiểu Yến nhảy dựng lên: “Đừng cấu, muội không nằm mơ đâu! Huynh cố tình chọn thời cơ mở một lối nhỏ đi vào kết giới của Mặt lạnh vào đây là để đưa muội đi khuyên bằng hữu của chúng ta!”.
Tiểu Yến hình như cuối cùng cũng nhớ ra mục đích đến đây, vẻ mặt nghiêm túc nói: “Muội có biết Lý Manh xảy ra chuyện không?”.
Phượng Cửu bị nhốt ở Tật Phong Viên ba ngày, đến cả một con muỗi bên ngoài nàng cũng không thể giao du được, đương nhiên làm sao biết, nhưng thần sắc nghiêm trọng của Tiểu Yến lập tức xua hết nửa cơn buồn ngủ, nàng giật mình hỏi lại: “Lý Manh?”.
Thần thái Tiểu Yến càng nghiêm trọng: “Tướng quân Thường Thắng mà thiếu gia yêu thương nhất vừa qua đời tại phủ đệ, thiếu gia đau buồn thương tiếc uống rượu say mềm ở Túy Lý Tiên chẵn một ngày một đêm, không ai khuyên can được, đường muội Khiết Lục sợ hoàng huynh say chết ở đó, không biết làm thế nào, chạy đến tìm huynh nhờ khuyên giải, nhưng muội xem, huynh có thể khuyên giải được người khác không? Những chuyện đó, suy cho cùng vẫn là nữ nhi làm hợp lý hơn…”.
Phượng Cửu khoác áo ngoài, hỏi: “Chưa nghe nói Lý Manh còn nuôi cả trai ở trong phủ đệ, chàng ta có thị hiếu đó vậy mà trước đây chúng ta sống ở đó không phát hiện ra, thực oan uổng là chỗ bằng hữu thân tình. Ôi dào, người trong lòng đột ngột tạ thế, bất luận thế nào cũng là một đòn tổn thương nặng nề, Manh thiếu gia quả đáng thương”. Vừa nói xong, lại sực nhớ chuyện đêm qua vẫn không biết là mơ hay thực, bèn đến cạnh chiếc án cao sát tường nhấc lư hương có hình kỳ lân đúc nổi đưa lên ngửi, không thấy mùi an thần, lại mượn viên dạ minh châu của Tiểu Yến soi kỹ, cũng không thấy tàn hương mới, nhìn vào gương đồng, hai cái u trên trán cũng biến mất, nhưng lại không có dấu vết bột hoa mộc phù dung. Hay đúng là nằm mơ? Nhưng sao lại mơ như vậy?
Tiểu Yến đón viên dạ minh châu nàng trả, ngạc nhiên hỏi: “Muội sao thế?”.
Phượng Cửu trầm ngâm một lát, nói: “Vừa có một giấc mơ”. Dừng một lát lại tiếp: “Không có gì”. Nói đoạn, đi ra gần cửa lại quay về mở chiếc tủ cạnh cửa sổ, lấy ra một bình sứ màu xanh, nói: “Bình mật ong thượng hạng lần trước mượn Lý Manh, định làm bánh mật, ai dè chưa kịp làm đã phải trả để giải rượu cho chàng ta, tiếc quá, tiếc quá!”.
Tiểu Yến chau mày: “Mật ong là bình bên phải, chiếc bình trong tay muội vẫn còn ghi hai chữ xì dầu kìa”. Nhìn nàng một hồi, thở dài: “Huynh thấy hôm nay muội rất kỳ cục, hay là muội cứ ngủ tiếp đi, nếu quả thực không khuyên giải được Lý Manh, huynh sẽ một gậy đánh ngất chàng ta, tình dài ý dài không bằng một gậy là xong!”.
Phượng Cửu xoa trán, nói: “Có lẽ ngủ không đủ nên đầu hơi váng, đã tỉnh rồi muộn vẫn nên đi một chuyến”. Rên rẩm một lát lại tiếp: “Nhưng mà, nhân tiện chúng ta vẫn nên mang theo cái gậy”.
Nhờ ánh sao đêm đi một mạch tới Túy Lý Tiên, Manh thiếu gia nước mắt, nước mũi hòa với rượu đang nhìn thi thể tướng quân Thường Thắng nằm trong chiếc hộp sành, một đám thị nữ quỳ xung quanh, nước mắt ngắn dài khuyên giải chàng, rằng dù gì người cũng đã chết nên sớm được bình an nhập thổ, hoàng tử điện hạ cần phấn chấn lên mới khiến tướng quân yên lòng. Manh thiếu gia mắt đỏ hoe, ba hồn bảy vía cơ hồ chỉ còn một, vẫn đăm đăm nhìn tướng quân, nước mắt, nước mũi, hòa với rượu, cảnh tượng đến nát lòng!
Phượng Cửu sững sờ, Tiểu Yến cũng sững sờ. Thì ra tướng quân Thường Thắng khiến nhị hoàng tử Lý Manh đau buồn muốn chết uống rượu quên sầu lại là một con dế đầu đỏ to tướng.
Quận chúa Khiết Lục thần sắc mệt mỏi, được hai hầu nữ dìu đến, Tiểu Yến gãi đầu hồi lâu, bối rối nói với nàng: “Manh huynh đệ tâm hồn nhạy cảm đến mức vì một con dế mà đau lòng đến vậy, quả thực ta không biết nên khuyên giải thế nào”.
Phượng Cửu liếc chiếc quách sành để thi thể tướng quân Thường Thắng, cảm thấy chiếc hộp đó không hiểu sao có vẻ quen quen, trên thành vẽ chùm hoa rụng trong mưa, giống đồ dùng của các tiểu thư, rất không hợp với công tử Lý Manh. Nhìn kỹ lần nữa, tướng quân Thường Thắng chân duỗi cứng đờ nằm trong hộp, từ di thể của nó có thể nhận ra lúc còn sống nó là một con dế dũng mãnh uy phong. Phượng Cửu cau mày nói với Khiết Lục: “Có phải con dế này sống lâu trong cốc, hút được linh khí tiên tu, nửa đêm biến thành thiếu lang mỹ miều mới được Manh thiếu gia yêu mến như vậy?”.
Khiết Lục kinh ngạc hét một tiếng vội bịt tai, trợn mắt nói: “Công chúa dám xúc phạm thanh danh đường huynh ta như vậy?”.
Phượng Cửu bất lực nói: “Ta cũng muốn đoán con dế này nửa đêm biến thành một tiên nga, nhưng đây lại là con dế đực… a, vương huynh nhìn xem, có phải là con dế đực không?”.
Tiểu Yến nghe lời, ghé lại nhìn, trả lời: “Theo kinh nghiệm chọi dế lâu năm của ta con dế đầu đỏ này đích thực là dế đực!”.
Khiết Lục tức tím mặt, giơ tay chỉ hai người, mãi không nói được, định quay đi. Hầu nữ biết ý vội bưng đến cốc trà để quận chúa hạ hỏa. Lát sau cơn giận của Khiết Lục hơi dịu, thất vọng nhìn hai người nói: “Thôi, mặc dù bây giờ ta không thật tin hai vị, nhưng lúc này cũng chỉ có hai vị có thể thuyết phục được đường huynh, có lẽ huynh ấy sẽ nghe lời hai vị. Con dế này chỉ là con dế. Nửa đêm không thể biến thành thiếu lang mỹ miều, cũng không thể biến thành tiên nga diễm lệ”. Lại liếc xéo hai người lần nữa: “…nhưng người tặng đường huynh con dế là người đặc biệt, chính người trong lòng huynh ấy”.
Phượng Cửu và Tiểu Yến lập tức dỏng tai ghé lại nghe.
Tỷ Dực Điểu xưa nay không liên hôn với các tộc khác là do tộc quy ràng buộc, mà tộc quy từ xưa luôn là sinh mệnh của bộ tộc này. Trong các linh cầm linh thú có thể hút linh khí của thiên địa để tu tiên, thành thần, thành tiên hơn nữa một khi kinh qua kiếp nạn là có tuổi thọ ngang trời như Long tộc, Phượng tộc, Hồ ly tộc là rất hiếm, các tộc khác đều có tuổi thọ giới hạn, ngàn năm hoặc vạn năm. Trong đó tuổi thọ của tộc Tỷ Dực Điểu là ngắn nhất, không quá ngàn năm, so với tuổi thọ mấy vạn năm của thần tiên bên ngoài cốc Phạn Âm có thể coi là ngắn như sáng sinh tối tử, liên hôn với các tộc có tuổi thọ cao rất dễ dẫn tới bi kịch cho nên bộ tộc mới có cấm chế liên hôn với ngoại tộc. Đối với bộ tộc Tỷ Dực Điểu, sáu mươi tuổi coi như thành niên, có thể kết hôn. Nghe nói hai tiểu đệ và ba tiểu muội của nhị hoàng tử Lý Manh đã kết hôn, nhất là tam hoàng tử đã lần lượt sinh bảy người con, nhưng nhị hoàng tử hơn tam hoàng tử hai chục tuổi đến giờ vẫn một mình, sau bữa ăn Phượng Cửu và Tiểu Yến từng nhiều lần bàn luận chuyện này, nhưng không tìm ra lời giải
Cho nên, hôm nay mới dỏng tai chờ quận chúa Khiết Lục tiết lộ.
Quận chúa Khiết Lục uống thêm ngụm trà, hắng giọng, kể lại câu chuyện tình vô vọng bắt đầu từ bảy mươi năm trước. Chàng thiếu niên tuấn tú tình cờ gặp một thiếu nữ, sau về tương tư không thiết ăn uống rồi sinh bệnh, nhưng vẫn một mực nếu không lấy được nàng chàng quyết đơn thân suốt đời, cho đến tận bây giờ.
Nghe nói, thiếu nữ năm xưa đã tặng tướng quân Thường Thắng và chiếc hộp sành cho chàng thiếu niên, chàng thiếu niên sau khi hồi hương ngày đêm nhìn vật nhớ người. Đương nhiên, thiếu niên đó chính là hoàng tử Lý Manh hào hoa của cốc Phạn Âm hôm nay. Lý Manh ngày đêm ngắm tướng quân Thường Thắng và chiếc hộp sành, tương tư cô thiếu nữ năm xưa, đối với chàng tướng quân Thường Thắng giống như sứ giả của tình yêu. Hôm nay tướng quân đã quy tiên, từ nay Lý Manh biết lấy gì gửi gắm nỗi niềm? Lấy gì hoài niệm nụ cười của thiếu nữ năm xưa? Cho nên hoàng tử đau lòng ngày đêm mua say ở tửu lầu.
Câu chuyện tình bi lụy đó khiến Phượng Cửu và Tiểu Yến động lòng trắc ẩn, thở dài thương cảm.
Tiểu Yến nói: “Thiếu nữ mà Manh huynh tương tư hẳn là người ngoại tộc? Nhưng nếu nàng còn sống, theo suy nghĩ của ta, có thể tác hợp, cho dù vi phạm tộc quy cũng chẳng phải chuyện gì lớn. Ở bộ tộc của mình, ta cũng thường vi phạm tộc quy, các bậc trưởng bối cũng chẳng làm gì được. Ngày ngày nhìn con dế, sầu héo chết mòn đâu phải là phong độ của bậc đại công tử!”.
Phượng Cửu thầm nghĩ các trưởng lão Ma tộc ai dám làm gì quân vương của Thanh chi, tộc quy của Ma tộc thì ra định ra chỉ để chơi, nhưng những lời khác của Tiểu Yến nàng vẫn rất tán đồng, gật đầu lia lịa, sau đó rất thành tâm nói với Khiết Lục: “Thiếu nữ đó không biết là thiên kim của bộ tộc nào, danh tính gì, chúng ta sẽ đi thăm dò giúp, nếu có thể viên tròn nguyện ước của nhị hoàng tử, là chỗ bằng hữu chúng ta cũng yên lòng”.
Khiết Lục lại uống một ngụm trà nữa, hình như có phần cảm động trước tấm lòng của hai người: “Đế cơ Thanh Khâu Bạch hồ tộc chín đuôi, nữ vương Đông Hoang, điện hạ Phượng Cửu, không biết hai vị có từng nghe danh, chính là người trong lòng của đường huynh”.
Phượng Cửu choáng váng lăn từ trên ghế xuống, Tiểu Yến há miệng: “Cái gì?”.
Khi Phượng Cửu bám tay Tiểu Yến đứng lên, nhìn khuôn mặt trông nghiêng của Lý Manh đang uống rượu một mình cách đó hai chiếc bàn dài, đột nhiên có một hạt giống rơi xuống ký ức nàng, nảy mầm trổ hoa. Nàng đã nhớ ra, tại sao chiếc hộp sành trông lại quen như vậy.
Có một câu chuyện thế này, cũng quả thật đã xảy ra bảy mươi năm trước.
Bảy mươi năm trước, một bằng hữu vong niên của thượng thần Chiết Nhan đến rừng đào mười dặm của ngài, tình cờ gặp Phượng Cửu đến hái đào, lập tức khuynh đảo vì dung nhan của nàng vừa gặp đã si mê. Người bạn vong niên của thượng thần Chiết Nhan là chúa tể sơn thần, cai quản vạn vạn sơn hà dưới trần thế, sống ở Chức Việt tiên sơn linh địa bậc nhất Bắc Hoang, tôn xưng là Thương Di Thần Quân… Thương Di Thần Quân không xuất thân từ thượng cổ Thần tộc hiển hách, được phong đệ nhất sơn thần là do chiến tích lẫy lừng mấy vạn năm nay, cho nên Chiết Nhan rất kính trọng, đánh giá ngài là vị thần tiểu bối mạnh nhất sau thời hồng hoang.
Thương Di Thần Quân tính tình rất quả quyết, sau khi ưng Phượng Cửu, không hề đắn đo, thành tâm thành ý thỉnh cầu thượng thần Chiết Nhan đến Thanh Khâu làm mối, Chiết Nhan nhận lời.
Không ngờ công lao to lớn mấy vạn năm trợ giúp trần thế sơn hà thịnh vượng và bản tính phóng khoáng của ngài, lập tức vừa ý thượng thần Bạch Dịch phụ thân của Phượng Cửu. Sau khi Phượng Cửu kế thừa vương vị Đông Hoang, đại sự đầu tiên mà Bạch Dịch lo liệu là tìm cho nàng một phu quân xứng đáng để củng cố vương vị, đôi mắt lão luyện tinh tường, qua ngàn vạn sàng lọc cuối cùng ưng Thương Di. Nhưng Phượng Cửu không đồng ý hôn sự đó, mặc dù cực lực phản đối, nhưng đương nhiên không chống lại được phụ thân, khi đoàn đón dâu của núi Chức Việt tiến vào Thanh Khâu, nàng bị phụ thân cho người trói lại, đưa vào kiệu tám người khiêng, theo đường núi khúc khuỷu về nhà chồng.
Thương Di Thần Quân lúc đó đang bận lo một việc quan trọng ở trần thế, đến đón dâu là một viên mãnh tướng dưới quyền, Phượng Cửu từ kiệu hoa nhìn ra thấy viên mãnh tướng thân cao chí ít mười thước, cảm giác không đánh nổi chàng ta, nên ngoan ngoãn án binh bất động suốt dọc đường, dự định khi kiệu đến Thần Cung mới hành sự. Nàng sẽ làm loạn Thần Cung, nhất định không chịu xuống kiệu lấy Thương Di để cho cả thiên hạ trên dưới đều biết, để xem phụ thân có ép được nàng. Sắp đặt như vậy, lòng bỗng nhẹ nhõm, suốt dọc đường đến núi Chức Việt vô cùng ngoan ngoãn ngồi yên trong kiệu. Kiệu hoa được phu khiêng đi rất nhanh nửa ngày đã tới chân núi Chức Việt.
Đoàn đón dâu đang rồng rắn đi vào sơn môn, đột nhiên bên ngoài kiệu có tiếng kêu thảm thiết, Phượng Cửu vén rèm nhìn ra, thấy viên mãnh tướng thân cao mười thước kia đang vung chiếc roi chín đốt đánh một thiếu niên mảnh khảnh có vẻ là tùy tùng trong đoàn. Giữa thanh thiên bạch nhật một hảo hán to khỏe bắt nạt một thiếu niên yếu ớt khiến Phượng Cửu không chịu nổi, vội rút chiếc trâm vàng phóng tới chặn cây roi, rồi sai hầu nữ đi hỏi nguồn cơn. Thì ra sự rất đơn giản, thiếu niên đó không phải ở Thần Cung, có lẽ là giữa đường lọt vào đoàn đón dâu, muốn đến núi Chức Việt không biết định làm gì. Núi Chức Việt có lệ, không phải là đệ tử của sơn môn không được vô cớ vào trong, chàng thiếu niên vừa bước qua sơn môn, chuông ngũ sắc đã ngân vang, vậy là bị lôi ra đánh.
Hai chân chàng thiếu niên hình như bị đánh rất đau, máu thấm ướt ống quần, yếu ớt phân trần: “Tiểu bối bị lạc mất ca ca, đang đi tìm thì nhìn thấy đoàn đón dâu, vì chưa bao giờ nhìn thấy tân nương ngoại tộc cho nên hiếu kỳ muốn xem mặt, tiểu bối không có dụng ý gì”.
Phượng Cửu từ xa nhìn chàng thiếu niên đau đớn phục trên đất, trông rất thảm thương. Tạm thời chưa cần biết chàng ta nói thật hay không, nếu là thật, một đứa trẻ muốn xem trò hay, núi Chức Việt hà tất hẹp hòi. Nếu là giả, ngày mai mình gây sự đại náo Thần Cung núi Chức Việt, nhân sự này trong cung càng náo loạn, lại có lợi cho mình… nghĩ vậy, Phượng Cửu vội vén rèm kiệu bước nhanh đến, đỡ chàng thiếu niên đứng dậy, làm bộ ngạc nhiên nói to: “Ôi, Tiểu Minh phải không, vừa rồi nhìn từ xa tỷ đã thấy giống đệ, nhưng ca ca đệ lúc này có lẽ đang ở chỗ Chiết Nhan hoặc ở Thanh Khâu chúng ta, sao đệ lại bị lạc? Ồ, hay là đệ theo tỷ xuống núi, hai ngày nữa tỷ sẽ cho người đưa đệ về Thanh Khâu đoàn tụ với ca ca”. Vừa đỡ chàng ta đứng lên, càng kinh ngạc thất sắc kêu to: “Ôi chà, sao lại bị thương nặng thế này, không được! Ngươi ngươi ngươi, cả ngươi nữa, mau dìu Minh thiếu gia vào kiệu của ta”. Chàng thiếu niên ngơ ngác bị một đám người hầu hốt hoảng dìu đi, lúc yên vị trên kiệu, vẫn chưa hiểu rốt cuộc xảy ra chuyện gì.
Trong ấn tượng của Phượng Cửu, chàng thiếu niên được nàng cứu trông vô cùng nhút nhát, từ khi vào kiệu chỉ yên lặng không nói. Vết thương ở chân tuy vẫn đau nhưng cũng đành chịu đựng đến khi vào Thần Cung núi Chức Việt mới được dùng bột giảm đau, băng bó chữa trị. Thấy chàng nhăn nhó cắn răng chịu đau, nàng rút trong ống tay áo một ống trúc trong có con dế đầu đỏ, các thiếu niên thường thích chọi dế, có lẽ con dế này có thể làm chàng ta chú ý, mà đỡ đau hơn. Nàng lại biến hóa ra một cái hộp sành, đổ con dế vào đó tặng tất cho chàng. Nàng không vô tư cứu chàng ta, lòng cũng có phần áy náy, tặng chàng món quà nhỏ coi như bù đắp, thiếu niên đỏ mặt đón lấy, miệng lí nhí cám ơn, ngẩng đầu liếc nàng một cái, lại lập tức cúi xuống: “Cô nương đã có lòng cứu ta, sau này nhất định báo đáp”.
Sau khi lên núi, Phượng Cửu được người hầu đưa vào tư phòng nghỉ ngơi, còn chàng thiếu niên được đưa vào gian phòng khác trị thương, Phượng Cửu ngồi trong phòng uống trà, nghĩ đến lời hứa trả ơn của chàng thiếu niên, rốt cuộc chàng ta lên núi vì lẽ gì, về tình về lý quả thực nàng đã cứu chàng một phen, chàng trả ơn, báo đáp là đương nhiên. Nhưng nàng hơi băn khoăn, từ đầu tới cuối mình đều trùm khăn hồng tân nương, thiếu niên còn chưa nhìn mặt mình, nếu trả ơn nhầm thì sao?
Lòng đang rối bời thì người hầu vào báo Thương Di Thần Quân hồi cung. Phượng Cửu càng cuống, vừa phải đối phó với Thương Di vừa phải nghĩ cách ra tay đại náo Thần Cung trước khi bái đường thành thân, cả hai việc đều hao tâm tổn trí. Trước tiên phải dồn tâm sức ứng phó hai chuyện khẩn cấp này đã, không có thời gian nghĩ đến chàng thiếu niên được mình đã cứu mạng.
Sau đó, Phượng Cửu không gặp lại chàng nữa, hình ảnh chàng giống như cánh lục bình trong đầm sen bị nàng lãng quên ở một góc nào đó trong ký ức. Nếu không có gió làm gợn sóng, ký ức này có lẽ mãi mãi bị phong ấn trong yên lặng, chàng thiếu niên chẳng qua là một trong những khách qua đường tình cờ trong vô số khách đã gặp trên đường đời hơn ba vạn năm qua. Hôm nay sau bao nhiêu năm, do cơ duyên mặc dù nàng đã nhớ lại chuyện cũ, nhưng bất luận thế nào cũng không thể gắn chàng thiếu niên nhút nhát vừa nói đã đỏ mặt năm xưa với chàng công tử phong lưu luôn tự xưng là “bản thiếu gia” hôm nay. Bảy mươi năm qua, Lý Manh rốt cuộc đã trải qua những gì để từ một thiếu niên nhút nhát yếu ớt trở thành vị công tử phong lưu thu hút bao ong bướm hôm nay? Phượng Cửu có cả trăm điều khó hiểu, bất giác đưa mắt hồ nghi một lần nữa nhìn về phía Tương Lý Manh. Nhưng chỗ chàng vừa ngồi, chiếc ghế trống không, trên mặt bàn sau một tiếng “cạnh”, chiếc bình bạc đựng rượu lóng lánh lắc lư một hồi, rồi đứng yên, không còn gì khác, Lý Manh đã biến mất.
Nhị hoàng tử Lý Manh hai mắt đỏ ngầu vì rượu, loạng choạng bám vai Tiểu Yến. Bộ tộc Tỷ Dực Điểu nổi tiếng tai thính, những lời vừa rồi của Khiết Lục nói với Tiểu Yến và Phượng Cửu hình như đã lọt hết vào tai Manh thiếu gia, khiến chàng rất mực cảm kích, lớn tiếng nói: “Thật thế ư? Các vị cũng cảm thấy bản thiếu gia không nên tuân thủ tộc quy, dũng cảm theo đuổi tình yêu?”.
Nói đoạn, lại than thở: “Thực ra nửa năm trước bản thiếu gia không muốn chôn vùi mối tình lâu hơn nữa, đã muốn phá lồng son đi tìm người trong mộng, nhưng bản thiếu gia vừa ra khỏi cổng thành thì bị các người đè ngất, vì thế đột nhiên nghĩ, đó là ý trời, ý trời đã định bản thiếu gia và điện hạ Phượng Cửu vô duyên, cho nên dần dần từ bỏ ý định”. Mắt chàng lóe sáng nhìn Tiểu Yến và Phượng Cửu trong căn phòng tràn ngập ánh sáng: “Nhưng không ngờ, hôm nay các vị đã cổ vũ bản thiếu gia như thế, một người lấy mình làm gương khích lệ ta dũng cảm phá bỏ trói buộc của tộc quy, một người nhiệt thành giúp bản thiếu thăm dò tông tích điện hạ Phượng Cửu…”.
Phượng Cửu nhăn nhó liếc Tiểu Yến, chỉ muốn vả cho mình và chàng ta một cái, ấp úng nói chữa: “Chúng tôi lại đột nhiên cảm thấy nên nhìn xa một chút, suy nghĩ vừa rồi thực ra… thực ra có chỗ không ổn”. Ngoảnh sang Yến Trì Ngộ nháy mắt nói: “Vương huynh, muội thấy huynh đã tỏ ý hối hận vì những lời vừa rồi, có phải huynh cũng thấy kiến nghị vừa rồi của chúng ta hơi bồng bột, có chỗ không ổn?”.
Tiểu Yến hiểu ý Phượng Cửu, lập tức tỏ vẻ hối hận: “Đúng đúng, không ổn không ổn”. Giọng đầy ăn năn nói tiếp: “Mặc dù các vị trưởng bối xưa nay không trách phạt ta, nhưng vi phạm tộc quy khiến các vị đau lòng, bao nhiêu năm lòng ta luôn áy náy ân hận, mỗi lần nghĩ đến là lòng đau như cắt. Tộc quy vẫn không nên khinh suất vi phạm thì hơn để khỏi suốt đời lương tâm rắn rứt!”. Quận chúa Khiết Lục tròn mắt há mồm nhìn hai người, Lý Manh nhìn họ ánh mắt hoang mang.
Phượng Cửu nghiêm túc bổ sung: “Năm xưa điện hạ Phượng Cửu… khụ khụ… điện hạ Phượng Cửu tặng huynh con dế và chiếc hộp sành cớ chi huynh chỉ gửi tương tư vào con dế, cái hộp sành chẳng phải cũng như nhau? Con dế đã chết, nhưng hộp vẫn còn, phải chăng chứng tỏ ý trời là vẫn chưa đến lúc từ bỏ tất cả đi tìm điện hạ Phượng Cửu?”. Rồi lại dụ dỗ: “Nếu ý trời cho rằng huynh nên bất chấp tất cả đi tìm cô thiếu nữ thì khi gọi tướng quân Thường Thắng đi cũng sẽ đập luôn cái hộp sành, nhưng sao ông trời không làm vậy, bởi cho rằng vẫn chưa đến lúc, huynh nói xem, có phải không?”.
Vẻ hoang mang trong mắt Lý Manh càng đậm, lát sau mới lên tiếng: “Cô nương nói cơ hồ rất có lý, nhưng nghe kiến giải đó bản thiếu gia hơi choáng váng”.
Phượng Cửu nhẫn nại giải thích: “Đó là bởi vì huynh luôn uống rượu mua say, làm hao tổn trí tuệ minh mẫn”. Lại giải thích thêm: “Huynh xem, hay là huynh lên giường nằm nghỉ cho tỉnh rượu, khi đầu óc tỉnh táo sẽ thấy những lời muội nói rất có lý”.
Manh thiếu gia nghĩ một lát, cho là phải, sau một ngày một đêm uống rượu, cuối cùng lệnh cho người của tửu lầu lui, được quận chúa Khiết Lục cùng đám người hầu đưa đến phòng khách của Túy Lý Tiên, Khiết Lục thở phào trút được gánh nặng.
Mọi người đi hết, khi trong đại đường chỉ còn lại hai người bọn họ và hai tiểu nhị đang ngồi ngáp vặt, Tiểu Yến nãy giờ chứng kiến trò hay, khâm phục giơ ngón tay cái về phía Phượng Cửu, đang định nói gì, Phượng Cửu tranh lời: “Tại sao Lý Manh thích muội, muội cũng thấy lạ lùng, chuyện này huynh có hỏi, muội cũng chịu không nói ra được”.
Mặt Tiểu Yến lộ vẻ thất vọng. Phượng Cửu thận trọng nhìn quanh, nói với Tiểu Yến: “Huynh có cảm thấy từ khi chúng ta bước vào Túy Lý Tiên này hình như có con mắt nào đó luôn nhìn muội?”.
Tiểu Yến ngẩn ra, giả bộ hốt hoảng: “Còn… còn không phải sao, hai con mắt đó vẫn ở trên vai muội, đang cười với muội…” đúng lúc có cơn gió lạnh từ phía sau thổi qua, Phượng Cửu sởn da gà, kêu một tiếng nhào về phía Tiểu Yến, Tiểu Yến vỗ lưng nàng cười ha hả: “Lần trước ta ôm muội một cái, lần này muội ôm ta một cái, coi như hòa”.
“…”.
Trời không có gió, phía đầu hồi tửu lầu, khóm quỳnh lá xanh biếc tốt um đứng im trong nắng sớm đột nhiên lay động, một bóng người áo tím lặng lẽ lướt qua nhưng hai người bên trong không để ý.
Bảy ngày sau, cuộc đua tài ở học phủ được mong đợi cuối cùng đã khai mạc trên sườn núi phía tây vương thành. Nghe nói ngày trước, khi cốc Phạn Âm còn chia bốn mùa rõ rệt, sườn núi này mọc đầy thanh mai, cho nên được gọi là dốc Thanh Mai, nhưng gần hai trăm năm nay bị băng tuyết hủy hoại chỉ còn thưa thớt, nên vương cung chuyển hẳn thành đấu trường.
Phượng Cửu từ khi bước chân vào đấu trường luôn miệng hàn huyên với đồng môn. Bởi mười ngày trước Đế Quân đã ngụy tạo một triệu chứng thương hàn giúp nàng cáo bệnh với phu tử, bạn học thấy nàng vừa ra khỏi giường bệnh đã dũng cảm ra đấu trường dự thi, lấy làm khâm phục, đua nhau vây quanh trò chuyện. Phượng Cửu tranh thủ liếc nhìn đấu trường, trên đó quả nhiên cắm đầy cọc băng, chính là trận địa hôm xưa Lý Manh đã chỉ cho nàng. Những cọc băng nhọn hoắt loe lóe ánh bạc trong nắng sớm trắng đục nhờ nhờ, nhìn rất sợ, nhưng do được Đế Quân rèn rũa suốt mười ngày, hôm nay nàng không bận tâm đến những cọc băng đó, nhìn chúng tựa như đám phù vân. Lại nói đến nhị hoàng tử Lý Manh, chiều qua sau khi được Đông Hoa phóng thích khỏi kết giới, Phượng Cửu đã đi thăm dò, nghe nói mấy ngày nay chàng không còn dấu hiệu quá kích động, có phải đã nghĩ thông rồi? Lý Manh không còn tự dày vò bản thân khiến nàng cũng yên tâm.
Phượng Cửu đi men theo khán đài dựng bằng những cây tùng, cây bách xung quanh đấu trường, nhìn khán đài người đã ngồi kín. Cuộc đua tài ở học phủ mười năm mới có một lần nên bá tính kéo đến xem rất đông, mặc dù những lần trước người xem cũng nhiều, nhưng chưa năm nào dân chúng kéo đến nhiều như năm nay, chen chúc suýt sập khán đài bởi nghe đồn Đông Hoa Đế Quân cũng đến dự. Mặc dù Đế Quân nhiều lần đến cốc Phạn Âm giảng bài ở học phủ vương cung, nhưng dân chúng chưa từng có cơ hội ngưỡng vọng tiên nhan.
Tin Đế Quân có thể xuất hiện ở đấu trường vừa lan truyền, không chỉ dân chúng mà ngay nhiều tôn thần ở các chư thiên chưa có cơ duyên chiêm ngưỡng chàng cũng kéo nhau đến, vương thành nhất thời đông như trảy hội. Dân chúng thậm chí còn mang chiếu đến nhận chỗ trước, dốc Thanh Mai đìu hiu suốt hai trăm năm, trong một ngày bỗng trở nên náo nhiệt như chảo dầu sôi.
Ở chỗ cao nhất trên khán đài, nữ vương của Tỷ Dực Điểu đã an tọa, nhưng vị trí tôn quý nhất vẫn còn để trống, chắc hẳn để dành cho Đông Hoa Đế Quân. Trên nữ quân, dưới quần thần đều một thần sắc nghiêm cẩn gần như căng thẳng, sắp được gặp Đế Quân lại có thể cùng chàng uống rượu luận đàm kiếm thuật, không khỏi khiến họ thấy căng thẳng.
Phượng Cửu nghĩ, theo phong cách cố hữu của Đế Quân, những cuộc tỷ thí như thế này hầu như chàng không mấy bận tâm, thường đến sớm, hoặc đến muộn, hôm nay xem chừng sẽ đến muộn, nhưng đến muộn một hay hai tuần nhang nàng không đoán được. Sáng nay lúc chuẩn bị xuất phát, nàng đã nghĩ có nên đi thêm vài bước đến phòng chàng nhắc một câu, chân vừa đi hai bước lại quay về, thấy hơi ngại bởi mấy ngày nay quan hệ của nàng với Đông Hoa hình như có phần lạnh nhạt.
Lại nói chuyện hôm đó, chuyện giấc mơ Đông Hoa bôi thuốc cho nàng, sau khi tỉnh dậy đi đến Túy Lý Tiên khuyên giải Lý Manh trở về Phượng Cửu lại suy nghĩ một hồi, cảm thấy có thể chuyện là thật, có thể trước lúc rời phòng nàng, Đế Quân đã dùng tiên pháp xóa mọi dấu vết, không lưu lại dấu vết chưa hẳn chứng tỏ mình nằm mơ. Lòng không hiểu sao thấy vui vui, nhưng cũng không muốn tìm hiểu sâu hơn, chỉ vội vàng quyết định, phải đền ơn Đế Quân thật tốt, bữa bánh ngọt sáng chuẩn bị cho chàng có thể thêm mấy cánh hoa, còn phải trang trọng nói lời cảm ơn. Phượng Cửu vừa ngáp vừa ngân nga hát, tay vẫn nhanh nhẹn làm một bữa thịnh soạn, nhưng Đế Quân hôm nay phá lệ không đến ăn sáng. Nàng hơi thất vọng nhưng lòng đang vui nên đích thân mang bữa sáng đến phòng chàng, đáng buồn là trong phòng cũng tịnh không thấy bóng dáng Đông Hoa. Đã sắp đến giờ luyện kiếm, nàng vội mang thanh kiếm Đào Chú nhanh chóng chạy ra hậu viên, không ngờ dưới gốc cây hạnh đang trổ đầy hoa, Đông Hoa đang ngồi ngơ ngẩn với cuốn sách trong tay.
Phượng Cửu ghé đến gọi chàng, Đông Hoa ngẩng đầu nhìn, thần mắt bình lặng như ngọn núi yên ngủ phía xa. Nàng bỗng ngẩn người.
Theo lẽ thường, nếu mọi chuyện đêm qua là thật, ánh mắt Đế Quân nhìn nàng bất luận thế nào cũng nên dịu dàng một chút, hoặc là ít nhất cũng hỏi một câu tình hình vết thương thế nào. Nàng lặng lẽ thu lại nụ cười, cảm thấy quả nhiên mình mơ giấc mơ hoang đường, đêm qua thực ra chỉ là giấc mơ, không hề có chuyện gì xảy ra. Người ta bảo, ngày nghĩ gì đêm thường mơ cái đó, cho đến giờ nàng vẫn còn mơ giấc mơ như vậy, lẽ nào xưa nay trong những giấc mộng tình yêu nàng đều mơ thấy Đế Quân, cho nên dần dần thành thói quen?
Lòng thất vọng ê chề, không biết thất vọng về mình hay về chuyện khác, cúi đầu đi vào chỗ tập, bỗng nghe thấy tiếng Đế Quân từ phía sau: “Cô nương muốn có quả bần bà như vậy, là vì sao?”. Đang chán ngán, nghe chàng hỏi, Phượng Cửu cũng không ngẩng đầu, trả lời đối phó: “Chưa ăn bao giờ, muốn nếm xem mùi vị thế nào”. Đế Quân trầm ngâm một lát rồi hỏi một câu khiến nàng khó hiểu: “Định dùng để làm bánh bần bà ư?”. Phượng Cửu không biết nên trả lời thế nào, quả bần bà vốn để hoàn lại xương thịt cho người chết, nhưng đem làm bánh liệu có ảnh hưởng đến công hiệu của nó hay không thì chưa nghĩ đến, nàng hàm hồ trả lời đơn giản: “Có thể”. Sau đó, Đế Quân lại hỏi một câu khó hơn: “Dạo này Yến Trì Ngộ thích ăn bánh nhân bần bà ư?”. Phượng Cửu ngớ ra: “Tiểu Yến?”. Hình như đúng là Yến Trì Ngộ đã cười cười nói với nàng, rằng nếu chúng ta lấy trộm được quả bần bà đó hay là muội làm cái bánh mỗi người một nửa. Nàng băn khoăn nhìn đôi mắt đen như đầm sâu của Đông Hoa vẫn hàm hồ trả lời: “Tiểu Yến, có lẽ cũng thích ăn, nhưng huynh ấy không ăn bánh đậu xanh, đậu đỏ có vị gừng”. Rồi lại lẩm bẩm: “Thực ra huynh ấy cũng không kén ăn lắm”. Đột nhiên có trận gió lùa tới, cuốn sách lúc trước Đế Quân vừa để trên bàn đá, bị gió lật rào rào, chàng cau mày đặt tay lên chặn lại, Phượng Cửu không biết chàng có hài lòng với câu trả lời của nàng không, nhưng chàng không hỏi gì thêm.
Mấy ngày tiếp theo, Đế Quân hình như càng thất thường, hình như luôn suy tư gì đó, Phượng Cửu không hiểu nguồn cơn, sau mấy ngày nghiền ngẫm mới vỡ lẽ, nàng đã quên Đông Hoa lúc đầu đổi chỗ ở với Tiểu Yến, chuyển đến Tật Phong Viên là muốn dùng nàng để chọc tức Cơ Hoành, nay thấy Cơ Hoành không bực tức như mong đợi nên chàng vẫn nấn ná ở lại đây… đã vậy, giơ ngón tay tính đốt, bốn, năm ngày không gặp Cơ Hoành, chắc Đế Quân rất nhớ. Nhưng, cũng tại chàng ban đầu suy tính thiếu chu toàn, dùng kết giới phong ấn Tập Phong Viên, khiến Cơ Hoành tu luyện chưa đủ, không vào thăm chàng được. Bây giờ, nếu chủ động phá bỏ kết giới, e là hơi mất thể diện, Đế Quân hẳn đang vấn vương chuyện này, cho nên mấy ngày nay mới ngơ ngẩn mất hồn.
Vào cái đêm Phượng Cửu vỡ lẽ mọi chuyện đã chủ động khuyên Đông Hoa phá bỏ kết giới, nàng nghĩ hẳn Đế Quân chàng không muốn thiên hạ biết tâm tư của mình, muốn giữ bí mật mối quan hệ với công chúa Cơ hoành, cho nên Phượng Cửu khéo léo nói: “Đế Quân phá bỏ kết giới vừa tiện cho bằng hữu của chúng ta thỉnh thoảng đến thăm, như vậy, chúng ta yên tâm, mà bằng hữu chúng ta cũng yên tâm, nhất cử vẹn đôi đường”. Đế Quân nghe lời khuyên đó, ngay trong đêm lại vạch một kết giới khác trùm lên ngoài kết giới cũ, Tập Phong Viên bị phong ấn chặt hơn, đừng nói Tiểu Yến, mười Tiểu Yến cũng khó mở một lối nhỏ đi vào, những ngày sau Đông Hoa càng trầm lặng với nàng, tâm càng bất tại, càng lặng lẽ kiệm lời. Phượng Cửu nghĩ nát đầu cũng không hiểu căn nguyên. Nhưng về sau cũng lý giải được thái độ của Đế Quân, chàng đang chiến tranh lạnh với nàng. Đương nhiên tại sao lại chiến tranh lạnh, Phượng Cửu vẫn không thể hiểu.
Hôm nay có nắng nhẹ, trời xanh như được rửa, vài đám mây nhởn nhơ trôi, là một ngày đẹp trời. Các đệ tử tham gia đua tài, hai người một đội đã được phân bổ xong xuôi, chỉ đợi Đông Hoa Đế Quân đến là cuộc tỷ thí bắt đầu. Theo thể lệ cuộc thi, những người chiến thắng của vòng đầu, hai người một đấu với nhau, hết một tuần hương nhiều nhất chỉ để lại ba người, sau đó chia cặp đấu phân giải nhất, nhì, ba.
Đối thủ vòng đầu tiên của Phượng Cửu là một công tử không biết võ thuật, nàng không ngại. Thấy thời gian còn sớm, các đệ tử đua nhau lấy kiếm khởi động, nàng cũng rút thanh kiếm Đào Chú trong ống tay giả bộ đi vài đường, vừa đi kiếm vừa liếc mắt lên khán đài thấy Cục bột nhỏ không biết đến từ lúc nào đang đứng vịn lan can, sợ nàng không nhìn thấy còn nhảy lên vẫy tay, đứng sau Cục bột nhỏ là Liên Tống Quân miệng mủm mỉm cười, hai người đứng lẫn trong đám đông có lẽ là lén đến xem. Hình như Cục bột nhỏ đang lo lắng lẩm bẩm điều gì, Phượng Cửu chăm chú nhìn miệng tiểu đệ, đoán ra Cục bột nhỏ đang nói: “Phượng Cửu tỷ tỷ, tỷ phải thận trọng nhất định không được làm động thai, phải giữ mình, nếu giữa chừng thấy đau bụng nhất định phải dừng lại ra khỏi đấu trường ngay, hiểu không…”. Tay Phượng Cửu run lên, cầm thanh kiếm chỉ muốn phóng vào tiểu tử đó.
Cuối giờ Thìn, cuối cùng Đông Hoa Đế Quân cũng xuất hiện, khác với dự đoán của mọi người, chàng sẽ uy phong cưỡi gió đằng mây hoặc giẫm trên vạn tia sét mà đến, Đế Quân lại cực kỳ giản dị ung dung đi bộ tiến vào đấu trường, đi hết cả trăm bậc phía trước, lại ung dung bước lên bậc gỗ đi lên khán đài.
Nữ vương và các đại thần đã an tọa trên khán đài không thể hình dung Đông Hoa lại xuất hiện bằng cách đó, trong hình dung của họ, Đông Hoa dù cưỡi mây hay cưỡi gió đều từ trên không giáng xuống, lúc đó nữ vương sẽ dẫn quần thần quỳ bái suốt dọc lối đi dẫn tới đỉnh cao nhất trên khán đài nghênh đón… một nghi lễ vô cùng trang trọng, nhưng lúc này Đế Quân còn ở dưới khán đài, họ đã ung dung ngồi vào vị trí cao nhất quả thật hết sức bất kính. Phượng Cửu thấy nữ vương hốt hoảng, vội vàng dẫn quần thần hóa nguyên hình loài chim Tỷ Dực lén bay vòng phía sau khán đài, rồi hóa thành người vội quỳ bái trước mặt Đông Hoa đang bước lên bậc thứ năm, nhất tề hô: “Chúng thần cung nghênh Đế Quân tiên giá”.
Đông Hoa Đế Quân từng là bá chủ thiên địa, đương nhiên xứng đáng để chư vương mọi tộc xưng thần trước mặt.
Dân chúng trên khán đài xung quanh trố mắt nhìn cảnh tượng đó, đấu trường đang ồn ào, chớp mắt im phăng phắc, chỉ có tiếng cót két phát ra từ bậc gỗ dưới chân Đông Hoa. Không thấy Đế Quân dừng bước, từ quan giám trường thi đến tứ phía khán đài chúng dân đang im lặng bỗng nhất loạt đứng lên quỳ bái, tiếng hô: “Cung nghênh Đế Quân tiên giá” vang dội tứ phía sơn dã, Đế Quân vẫn gót tiên thư nhàn bước trên bậc gỗ khán đài, tiến thẳng tới bảo tọa trên cao, sau khi yên vị, mới thong thả phất ống tay áo, nói: “Quỳ làm gì, ta đến hơi muộn, khi nào cuộc thi bắt đầu?”. Nữ vương, quần thần và dân chúng vái một bái lần nữa mới đứng lên. Phượng Cửu cũng đứng lên với mọi người, khi ngẩng đầu nhìn về phía Đông Hoa, thấy chàng cũng đang thư thả lướt ánh mắt về phía nàng, dừng một lát, lại điềm nhiên quay đi.
Phượng Cửu hơi bàng hoàng, chiến tích và uy danh của Đông Hoa thế nào, đương nhiên nàng biết, nhưng từ ngày quen chàng, Đông Hoa đã ẩn dật, ngày ngày chế hương, làm gốm, câu cá, những thú vui giản dị đã khiến chàng trông rất thân thiện, chưa bao giờ nàng nghĩ xa xôi năm xưa khi chàng là bá chủ thiên địa được lục giới triều bái uy nghi thế nào. Thì ra đó chính là khí độ của đấng bá vương lục giới, lần đầu tiên nàng cảm thấy Đông Hoa xa vời ngàn trùng, cao không thể với. Tiếc là đến giờ nàng mới nhận ra, nếu năm xưa từ nhỏ đã nhận ra đạo lý này thì nàng đã sớm rút lui khỏi con đường theo đuổi chàng, cũng không phải chịu nhiều khốn khổ như vậy. Hồi đó nàng quả quá can trường. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, một người như Đế Quân có thể vướng vào chuyện hồng trần, yêu một thiếu nữ cũng thật là chuyện lạ kỳ. Nàng ngước nhìn Cơ Hoành xiêm y trắng muốt vẫn đi theo chàng, thầm nghĩ nàng công chúa này đã bỏ bao nhiêu tâm huyết vì chàng lại càng là sự lạ.
Tiếng trống vang rền như sấm, Tế Hàn phu tử chủ trì cuộc thi tài theo chỉ lệnh của nữ vương, oai phong xuất hiện trên đài cao mới dựng bên cạnh đấu trường, thay mặt nữ vương đọc lời khai mạc, tuyên bố thể lệ cuộc thi, sau đó hai thư đồng cùng đốt một cây hương dài tính giờ, coi như cuộc đua tài chính thức bắt đầu.
Lại một hồi trống vang trời, các đấu sĩ đứng thành hàng tay cầm lợi kiếm sải bước dài uy nghiêm tiến vào đầu trường trong tiếng trống thúc như sấm. Sau tiếng hô khởi lệnh, tiếng kiếm vung vun vút, ánh kiếm loang loáng chói mắt, đã có người đầu tiên từ đỉnh cột băng rơi xuống rừng tuyết. Phượng Cửu chỉ ba chiêu hai thức đã buộc đối thủ nhảy từ trên cột băng xuống, đành ngồi một bên xem thi đấu. Lần này mặc dù thừa lệnh nữ vương, phu tử đã sàng lọc kỹ, nhưng người tham dự vẫn rất đông, hết vòng đầu đã có bao nhiêu người bị ép nhảy khỏi trận địa cọc băng, quả thực rất oan uổng.
Hương cháy rất nhanh, hết tuần hương thứ nhất đấu trường chỉ còn một phần ba số người dự thi, phu tử đếm, tổng cộng có hai sáu người. Không có giải lao, tiếng trống dóng lên, vòng hai bắt đầu, Phượng Cửu do từ nửa vòng một đã ngồi một bên xem đấu, ngoài lúc đứng lên chân hơi tê, quả thực đã được nghỉ ngơi nhiều hơn người khác, ba chiêu hai thức lại ép đối thủ nhảy xuống, những người lọt vào vòng này kiếm thuật đều ngang ngửa, cuộc so tài diễn ra rất quyết liệt, tiếng hò reo tán thưởng thỉnh thoảng lại dội lên.
Bộ tộc Tỷ Dực Điểu do tuổi thọ ngắn nên trông người cũng già hơn, những đồng môn cùng đấu với Phượng Cửu không quá trăm tuổi, cho dù học kiếm thuật ngay từ lúc mới mọc răng sữa cũng mới chỉ trăm năm, không thấm tháp gì so với kiếm thuật đã luyện hai vạn năm có dư của nàng. Đông Hoa nói đúng, chỉ cần nàng có thể đi lại tự nhiên trên cọc băng, quả bần bà đã có thể nằm trong tay.
Vòng này, mặc dù thời gian không tính bằng tuần nhang, hai tiểu đồng vẫn đốt hai thẻ nhang để tiện so sánh với những cuộc thi sau này, nếu vẫn tiếp tục thi đấu kiếm. Nhưng điều khiến mọi người ở tứ phía khán đài nhất loạt trố mắt kinh ngạc là, thẻ hương còn chưa cháy hết, trên mặt đất phủ đầy tuyết dưới trận địa cọc băng, hai mươi nhăm người đã nằm ngổn ngang như những chiếc bánh chẻo lăn lóc tứ tung, trên trận địa cọc băng như những cây nấm ngọc chĩa lên trời, chỉ còn duy nhất một người hiên ngang đứng thẳng, chính là Phượng Cửu.
Trong ngoài đấu trường bỗng chốc im phắc như tờ, sau đó là tiếng vỗ tay rền như sấm, kết cục này quả thực rất hiếm gặp trong những cuộc đua tài trước đây. Phượng Cửu cầm kiếm thở phào một hơi, coi như đã thắng, chiếm được quả bần bà, không uổng mười ngày nay bị Đông Hoa hành hạ, mười ngày bị hành hạ cũng đáng. Từ cọc băng phi thân xuống, nàng chắp tay chào các đồng môn nằm la liệt trên mặt đất, coi như cảm ơn họ nhường nhịn. Tranh thủ liếc lên khán đài, Đông Hoa đang tựa mình vào thành ghế ung dung nhìn xuống trận địa cọc băng hỗn loạn, không biết nghĩ gì. Mặc dù được chàng hướng dẫn mà giành thắng lợi, vậy mà một ánh mắt động viên chàng cũng không dành cho nàng, khiến Phượng Cửu ngấm ngầm thất vọng, nhưng niềm vui được quả bần bà nhanh chóng lấn át nỗi thất vọng đó. A Ly và Liên Tống Quân chen vào đám đông đến chúc mừng nàng, Phượng Cửu cố kiềm chế niềm vui như sóng rộn trong lòng, thản nhiên khách sáo đáp lại hai câu, thì nghe thấy Tế Hàn phu tử từ trên đài cao tuyên bố kết quả cuộc tranh tài.
Qua giọng sang sảng của phu tử, Phượng Cửu nghe thấy tên mình, nghe thấy giải thưởng dành cho nàng là một lẵng đào tiên do chính tay Thiên Hậu nương nương hái, giải nhì và giải ba lần lượt là một thanh thần kiếm và một bình ngọc có công dụng đặc biệt nào đó, không nghe thấy quả bần bà nào hết.
Trong gió lạnh ù ù, Liên Tống Quân phe phảy chiếc quạt trong tay đột nhiên hiểu ra nói: “Hèn chi tối qua Đông Hoa vội vàng đến tìm ta, bảo nhất định phải mang gấp về một lẵng đào, thì ra là để dùng vào việc này”. Lại nhíu mày: “Tộc Tỷ Dực Điểu cũng thật lạ, giải nhất nên thưởng gì lẽ nào đến đêm trước cuộc tranh tài mới định ra?”. Nói đoạn lại cười: “Nhưng lẵng đào này rất ngọt, bình thường ta muốn ăn một trái còn bị mẫu hậu lườm mấy cái, lát nữa họ mang đến Tật Phong Viên hay là mở một tiệc nhỏ chúng ta cùng thưởng thức”. Phượng Cửu nhếch mép: “Rất phải”. Quay người bỏ đi, lại nhìn lên khán đài, người trên đó đã không thấy tăm hơi. A Ly ngây thơ hỏi: “Vậy đệ có thể mang hai quả về cho phụ thân và mẫu thân không?”. Liên Tống Quân nói: “Ta thấy ngươi vừa ăn vừa mang về thì không hay lắm”.
A Ly trầm ngâm một lát lại nói: “Cứ coi như đệ ăn liền một lúc ba quả không được sao?”. Liên Tống Quân nâng chiếc quạt, miệng mủm mỉm định nói gì, Phượng Cửu gượng cười: “Tỷ không hứng thú với mấy trái đào đó, phần của tỷ, nhường cho đệ”. Dứt lời, quay người bỏ đi, bước hai bước, không lưu ý va vào cọc băng, sực nhớ điều gì lại nói: “Tiểu bối thấy hình như người hơi khó chịu, hay là khi học mang đào đến, phiền tam điện hạ thay tiểu bối mở tiệc nhỏ, mời nhị hoàng tử Lý Manh, Tiểu Yến và Khiết Lục cùng đến thưởng thức quả ngon”. A Ly kéo tay áo Liên Tống: “Phượng Cửu tỷ tỷ làm sao thế?”. Liên Tống Quân chậm rãi thu cái quạt về: “Hình như có chuyện không ổn”.
Đi một mạch ra khỏi dốc Thanh Mai, chỉ thấy trên nền tuyết trắng mênh mang, dày đặc dấu chân xuôi về hướng vương thành, Phượng Cửu hít sâu một hơi, khí lạnh thấm vào phủ tạng. Tiểu Yến thường nói mỗi khi tâm trạng không vui thường đến Túy Lý Tiên uống rượu, dù sau khi tỉnh rượu vẫn không hết buồn nhưng có thể tạm thời quên đi, thời gian này đúng lúc Cơ Hoành không mặn mà với Tiểu Yến, những lời đó mặc dù bi quan, nhưng có lý.
Đang đi về phía vương thành, lục trong ống tay áo, phát hiện sáng nay đi vội, quên không mang ngân lượng, Phượng Cửu phân vân đứng giữa ngã ba đường, ngoài Túy Lý Tiên còn nơi nào có thể đi, bỗng không thể nghĩ ra. Sự việc đến giờ đã quá rõ ràng, Đông Hoa dùng một lẵng đào thay quả bần bà. Chàng đương nhiên biết nàng mong muốn có được quả bần bà thế nào. Để có nó, nàng đã bỏ công sức ra sao chàng có lẽ cũng biết, tại sao đến lúc chót lại đem đổi, Phượng Cửu nghĩ suốt dọc đường vẫn không tìm ra nguyên do, hay là có nên đích thân đi hỏi chàng? Nếu chàng không thực sự cần, có thể cầu xin chàng thưởng lại cho mình? Nghĩ đến đây thấy lòng chua chát, đang định quay về Tật Phong Viên, thì nghe thấy giọng oanh vàng từ phía sau lưng: “Công chúa Cửu Ca xin dừng bước!”.
Phượng Cửu ngoái đầu, người đang sải bước đi đến quả nhiên là Cơ Hoành. Lần gặp gần nhất là ở bữa tiệc ngàn vàng mười ngày trước nàng bỏ tiền túi mời khách, còn nhớ mang máng lúc đó tinh thần Cơ Hoành không được tốt, sắc mặt có phần ảo não, hôm nay thần sắc lại vô cùng rạng rỡ, thấp thoáng thấy lại hình bóng thiếu nữ hồn nhiên khi bước vào cung Thái Thần ba trăm năm trước.
Phượng Cửu liếc về phía sau lưng nàng ta, ánh mắt Cơ Hoành cũng nhìn theo, tươi cười nói: “Sư phụ không có ở đây, ta giấu chàng tìm gặp riêng công chúa. Bởi vì bất đắc dĩ cướp mất thứ công chúa thích, lòng lấy làm áy náy, đích thân đến xin lỗi”.
Thấy Phượng Cửu cơ hồ chưa hiểu, lại tiếp: “Kỳ thực, quả bần bà ở suối Giải Ưu năm nay ta cũng rất muốn có, cho nên tối qua đã thỉnh cầu sư phụ, sư phụ liền dùng lẵng đào ở chỗ Thiên Hậu đổi cho công chúa, nhưng vừa rồi gặp Yến Trì Ngộ, nghe nói lần này công chúa tham gia thi đấu là vì muốn có quả đó, ta suy đi nghĩ lại, cảm thấy chuyện này ít nhiều cũng có lỗi với công chúa…”.
Phượng Cửu vỡ lẽ, thì ra là thế, vậy là mọi chuyện đã sáng tỏ. Nhưng tại sao Cơ Hoành lại đích thân đến nói với nàng…
Phượng Cửu lặng lẽ nhìn Cơ Hoành, mặc dù không thích nàng ta lắm, nhưng trong ấn tượng, Cơ Hoành không phải là người xấu. Có điều lúc này nàng ta thật lòng áy náy đến xin lỗi nàng, hay là chọn đúng thời điểm, nói những lời bóng gió khiến nàng phải suy nghĩ, Phượng Cửu nhất thời chưa nắm được. Cơ Hoành xưa nay vẫn dịu dàng đối tốt với nàng, nhưng Phượng Cửu biết nàng ta không ưa mình.
Mà không biết Cơ Hoành cần quả bần bà dùng vào việc gì, có cần thiết bằng nàng hay không? Nếu Cơ Hoành không quá cần, lại thực lòng áy náy thì… nàng ngước mắt nói: “Công chúa có thể chia cho ta một nửa quả bần bà đó không? Muốn ta dùng thứ gì để đổi cũng được”.
Cơ Hoành sững người, dường như không ngờ Phượng Cửu trầm ngâm mãi, cuối cùng lại đề nghị như vậy, miệng khẽ nhếch: “Ta đến để xin lỗi công chúa, chính là bởi quả bần bà đó không thể chia cho công chúa, một nửa cũng không”.
Cơ Hoành xưa nay luôn giữ lễ, là trưởng công chúa của Ma tộc, mọi ngôn hành đều thậm xứng với tôn vị của mình, nói năng luôn đoan trang tế nhị, chưa từng thấy nàng ta nặng lời, thì ra khi nặng lời bộ dạng là như thế.
Nàng ta quả nhiên không phải đến tìm nàng để xin lỗi.
Cơ Hoành đi đến gần hơn một chút, giọng oanh vàng hạ rất thấp, rất điềm tĩnh, mắt vẫn dịu dàng lóng lánh cười: “Ngoài ra, còn có một lời thỉnh cầu khiếm nhã, từ nay, cảm phiền công chúa hãy tránh xa sư phụ”.
Phượng Cửu hiểu ra, có lẽ đây mới là vấn đề chính Cơ Hoành muốn nói, lời xin lỗi chẳng qua là cái cớ giữ nàng đứng lại. Gần đây nàng đã không mấy chấp nhặt lời nói của người khác, lại thêm vừa rời đấu trường còn đang bàng hoàng bởi những diễn biến đột ngột, thực sự đã quá mệt, lùi sau một bước, cách Cơ Hoành xa hơn một bước, đứng lại nói: “Xin thứ lỗi, ta không hiểu tại sao công chúa nói như vậy, quả bần bà công chúa không bằng lòng chia sẻ, hai ta hà tất phải nói nhiều?”.
Cơ Hoành không cười nữa, giọng nghiêm túc: “Ta biết những lời đó khiến công chúa không vui. Nhưng ta nói vậy cũng là muốn tốt cho công chúa, gần đây ánh mắt sư phụ với công chúa có khác, hẳn làm công chúa xao lòng?”. Liếc nàng một cái lại tiếp: “Sư phụ tuổi thọ ngang trời khiến chàng thấy vô vị buồn tẻ, luôn thích những gì mới mẻ, công chúa quả thật thông minh dung mạo như hoa, cảm giác sư phụ có tình cảm với mình cũng là đương nhiên, nhưng sư phụ chỉ coi công chúa như một món đồ chơi mới, nếu công chúa lại lún sâu vào đó, e chỉ càng thêm đau khổ”. Không để Phượng Cửu phản ứng, mắt hơi khép, nhìn xuống nói tiếp: “Có lẽ công chúa cho rằng vì ta ái mộ sư phụ, cho nên cố tình nói những lời như thế”. Cơ Hoành giọng sôi nổi: “Không giấu công chúa, ta từng có hôn ước với sư phụ, nhưng hồi đó tuổi trẻ ấu trĩ, công chúa xuất hiện làm ta nhận rõ lòng mình. Vừa rồi sư phụ ưu ái công chúa bao nhiêu, quả thực khiến ta đau lòng. Cho nên ta hỏi xin quả bần bà, thâm tâm cũng muốn thử xem ta có phân lượng thế nào trong lòng chàng. Vốn cũng e ngại, ngày trước ta với chàng đã lỡ một lần, không biết liệu có cơ tiếp tục tiền duyên, nhưng sư phụ không do dự, tặng ngay cho ta”. Cơ Hoành trầm ngâm một lát, “Ta muốn cùng sư phụ mãi mãi, xin công chúa, xin đừng chen vào giữa hai chúng ta”.
Cơ Hoành rời đi đã lâu, Phượng Cửu vẫn đứng ngây chỗ cũ. Gió thành ngoại mỗi lúc một lớn, xua cả ánh mặt trời, bầu trời càng nặng nề. Vừa rồi lúc Cơ Hoành bỏ đi nàng đã nói gì? Hình như đã nói những lời khách khí, chúc công chúa và Đế Quân thiên trường địa cửu. Khi Cơ Hoành đã bộc bạch thẳng thắn nỗi niềm riêng, vậy mà nàng có thể đón nhận với thái độ bình thản như vậy, sau đó Cơ Hoành đáp lại thế nào, Phượng Cửu lại không nhớ. Hình như nàng ta hân hoan khách khí khen rằng từ lâu đã biết công chúa Cửu Ca là người thông tỏ lẽ đời.
Quả thật nàng là người thông tỏ lẽ đời. Để có được quả bần bà, nàng đã bỏ ra bao nhiêu công sức, chịu đựng bao nhiêu khó nhọc, nhưng không địch nổi mấy câu bình thường của Cơ Hoành trước mặt Đông Hoa, lòng cũng tủi thân cay đắng, nhưng có thể làm gì, thâm tâm nàng cũng có thể thông cảm, Cơ Hoành là người trong lòng Đông Hoa, lại thêm vừa rồi hai người có mâu thuẫn chưa hóa giải, Đông Hoa dùng quả bần bà dỗ dành Cơ Hoành, mong hóa giải mâu thuẫn của hai người, cũng chẳng có gì quá đáng. Đông Hoa cũng không muốn làm nàng phật lòng, đến tận chỗ Thiên Hậu nương nương xin một lẵng đào cho nàng, cũng coi như chiếu cố đến tiểu bối này. Mình bực bội có lẽ là vô lý.
Tiểu Yến từng nói, Đông Hoa giao du với nàng đã là một sự chiếu cố, Tiểu Yến đã đánh giá nàng quá cao, nhưng chàng ta nói đúng, Đế Quân chỉ là nhất thời cảm thấy vô vị, thiếu một người mới mẻ bầu bạn. Lời Tiểu Yến tuy thẳng, nhưng thành ý thật lòng, nàng tự ái muốn phản bác vài câu nhưng không biết nói thế nào. Tất cả những cái đó cơ hồ cũng chứng tỏ Đế Quân xưa nay luôn dùng nàng để chọc tức Cơ Hoành, những lời Cơ Hoành vừa nói với nàng, nếu Đế Quân nghe được nhất định rất vui. Nghĩa là, nàng có thể tác thành cho họ, coi như cũng hữu dụng. Cơ Hoành nói muốn cùng Đế Quân mãi mãi, chẳng phải đó cũng là ước nguyện của chàng? Nếu hai người có thể hòa giải, như vậy không cần đến nàng nữa? Chàng đương nhiên sẽ chuyển khỏi Tập Phong Viên trở về cùng với Cơ Hoành sớm tối bên nhau, đương nhiên không cần nàng hầu hạ ngày ba bữa, đương nhiên cũng không cần ép nàng luyện tập trên cọc băng. Như vậy, thực ra rất tốt.
Nàng không hiểu, sau khi đã làm rõ mọi việc như vậy, lòng lại càng buồn, gió lạnh thổi qua, nàng nheo mắt, giơ ống tay áo lên dụi, khi mở ra đã thấy trăm dặm băng tuyết đã nhập nhòa trước mắt.
Phượng Cửu run run ngồi xuống ven đường chốc lát, khi lòng đã yên, lại nghĩ đến quả bần bà. Cảm thấy vẫn nên trở về Tật Phong Viên lần nữa, vì nó nàng đã nỗ lực đến nay, Cơ Hoành không thích nàng, không muốn chia cho nàng, nhưng nếu thỉnh cầu Đông Hoa biết đâu có thể được. Đông Hoa sẽ dỗ Cơ Hoành, còn rất nhiều bảo bối quý giá khác có thể đền cho nàng ta, nhưng nàng muốn cứu Diệp Thanh Đề, nhất định phải có quả bần bà mới được. Cho dù những ngày qua Đông Hoa chỉ coi nàng là người mua vui mới mẻ, nàng cũng thấy mình là người mua vui không tồi, nếu chàng bằng lòng chia cho một ít, nàng có thể tiếp tục làm người mua vui cho chàng, hơn nữa bảo gì nàng cũng sẽ nghe theo.
Mặc dù cũng thoáng thấy mình làm vậy quá mất tự tôn, nhưng sự đã đến nước này không còn cách nào khác. Nếu khóc lóc cầu xin không được, nàng sẽ níu tay áo chàng khóc thảm thiết, nhưng có lẽ Đông Hoa sẽ không bận tâm tới nước mắt của nàng, ngoài một số ít người chàng bận tâm, những người khác chẳng là gì với chàng hết, giống như việc chàng trao quả bần bà cho Cơ Hoành, khi đó hẳn chàng cũng không hề bận tâm tới thành ý và nỗ lực của nàng, về mặt này nàng quá hiểu Đông Hoa.
Một lúc sau, Phượng Cửu lau nước mắt, đứng dậy đi về phía Tật Phong Viên, trên đường vấp phải đá, ngã một lần.
Tật Phong Viên cổng mở toang, Phượng Cửu đứng ngoài, nhìn xuống dòng suối trong vắt, chỉnh qua loa xiêm áo, nhìn xuống nước thấy mắt mình hơi đỏ, liền vơ nắm tuyết trên bờ đắp lên, nhắm lại ngồi một lúc, sau đó lại soi xuống nước, thấy không còn vết đỏ, chắc chắn tất cả đều ổn mới quay người đi vào lạc viên. Trong sân vô cùng yên ắng, mặt ao vẫn còn lơ thơ mấy phiến sen tàn, bình thường vào lúc này Đông Hoa hoặc thiền tọa dưỡng thần ở hậu viên, hoặc buông cần câu bên bờ ao, Phượng Cửu hít sâu một hơi đang định đi về phía hậu viên, lại nhìn thấy một người áo chùng đen tuyền từ cửa vòm thong dong bước ra, Tiểu Yến giơ tay vén mấy dây hoa leo rủ xuống vòm cửa, nhìn thấy Phượng Cửu có vẻ ngạc nhiên, chưa kịp lên tiếng, nàng đã hỏi trước: “Đế Quân có trong đó không?”.
Đế Quân không có bên trong, Tiểu Yến cau mày, giọng ồm ồm: “Muội về chậm ba bốn bước, Mặt lạnh vừa ôm một con linh hồ bị thương trở về Cửu Trùng Thiên tìm thuốc chữa rồi”. Vẫn cau có nói tiếp: “Nghe đâu trên đường từ dốc Thanh Mai trở về Mặt lạnh nhặt được một con linh hồ bị thương chỉ còn thoi thóp, liền dùng chút tiên lực giữ mạng sống cho nó, sau đó cho ăn một viên tiên đan, rồi đưa về Cửu Trùng Thiên. Theo huynh, Mặt lạnh không giống người có thiện tâm như vậy, có lẽ cảm thấy con linh hồ đó giống con tiểu linh hồ ông ta bị mất năm xưa cho nên đột nhiên nổi lòng từ bi”. Rồi tỏ ra bất bình: “Một chút từ bi như vậy lại khiến Cơ Hoành cảm động, nếu không phải nàng tu luyện chưa đủ, không thể ra khỏi cốc Phạn Âm, chắc đã sớm đi theo ông ta rồi”. Mặt đầy phiền muộn: “Cơ Hoành đã đi tiễn ông ta, huynh không muốn gặp Mặt lạnh nên không đi, ở đây đợi muội, đưa muội đi uống rượu”. Lại tiếp: “Theo huynh ba, bốn hôm nữa Mặt lạnh chưa chắc quay về được, muội tìm ông ta có việc gì gấp không?”. Vừa dứt lời, đột nhiên nghĩ ra: “Hình như Mặt lạnh… đã làm xong mọi việc ở đây, có lẽ không quay lại nữa?”. Tiểu Yến còn lẩm bẩm gì, Phượng Cửu cơ hồ không nghe thấy, chỉ có nửa câu sau của chàng lọt vào tai, ngây ngây hỏi: “Huynh nói Đế Quân dù quay về cũng phải ba bốn ngày nữa ư?”.
Ba, bốn ngày quả thực hơi dài. Nàng đã nghe Lý Manh nói tới những quy định của vương cung khi hái quả bần bà. Cây thần vốn trời sinh trời dưỡng, như thần hoa cỏ ở Đông Hải năm xưa được các hung thú bảo vệ, quả bần bà được mãng xà trong bia đá đêm ngày canh giữ. Trước khi hái quả, nữ vương phải lấy máu ở đầu ngón tay nhỏ vào bụng mãng xà trong bia đá, đợi một ngày một đêm mãng xà ngủ say, mới có thể đến gần cây hái quả. Chính vì vậy, xưa nay, sau khi cuộc đua tài ở học phủ kết thúc, ngay đêm đó nữa vương sẽ lấy máu ở ngón tay nhỏ vào bụng mãng xà, đợi đến cùng giờ đêm sau mới đến hái quả.
Đêm mai hoặc nhiều nhất là ngày kia, quả bần bà sẽ được đưa đến tay Cơ Hoành.
“Cầu cứu Đông Hoa, hình như không được rồi”.
Còn cách nào nữa không? Hoặc có nên thử đi cầu xin Cơ Hoành lần nữa? Nghĩ đến đây Phượng Cửu bỗng giật mình, một sự nhục nhã như vậy nàng cũng định làm, có nghĩa quả thật đã đến đường cùng. Cầu xin Đông Hoa, có thể chàng còn thương tình chia cho một ít, nàng cảm giác thực ra chàng cũng không ghét mình. Nhưng đi cầu cứu Cơ Hoành, cho dù thảm thiết đến đâu, chưa chắc nàng ta động lòng, mình là cái gai trong mắt Cơ Hoành, điều này chính nàng ta đã nói. Nếu mình chỉ là con tiểu hồ ly đơn thuần, mất thể diện một chút để cầu may cũng không sao, nhưng mình là nữ vương Đông Hoang, đế cơ của Thanh Khâu, thể diện của Thanh Khâu không thể để người ta làm nhục, không, việc này tuyệt đối không thể. Chi bằng nhân lúc quả bần bà chưa bị hái, lẻn vào suối Giải Ưu thử vận may xem sao. Ý nghĩ vừa nảy trong đầu, nàng đột nhiên vỡ lẽ, khi vạn bất đắc dĩ, thực ra đó cũng là con đường hy vọng, mà bây giờ chính là lúc vạn bất đắc dĩ.
Lẻn vào suối Giải Ưu, nguy hiểm thế nào, nàng hiểu hơn ai hết. Nếu có thể nàng cũng không muốn mạo hiểm, nhưng nàng nợ Diệp Thanh Đề một đại ân, bằng ấy năm không có cách nào báo đáp, mang trên vai gánh nặng ân tình, luôn canh cánh nặng lòng, ngẫu nhiên lọt vào cốc Phạn Âm gặp cơ duyên có thể cứu chàng, nàng không muốn bỏ lỡ. Không phải chưa nghĩ đến những cách thức an toàn hơn để có được quả bần bà, không phải không cố gắng, chỉ là có lúc ý trời nông sâu khó dò, có lẽ năm xưa Diệp Thanh Đề xả thân vì nàng, ông trời thấy không thể để nàng trả ơn nhẹ nhàng, nhất định phải mạo hiểm tính mạng để trả ơn mới công bằng, ông trời vốn dĩ công bằng. Nghĩ đến đây cảm thấy không có gì khó lý giải, nhìn sắc trời, thầm nghĩ muốn lấy trộm quả bần bà, cũng chỉ có mỗi đêm nay.
Tiểu Yến thấy nàng vượt qua chàng, đi thẳng vào cửa, nghi hoặc hỏi: “Không đến Túy Lý Tiên uống rượu với huynh à?”. Nàng ậm ừ, để hôm khác, dù nói vậy, nhưng bụng nghĩ, còn phải xem vận may đêm nay. Nếu vận may kém, không biết hôm khác đó phải đợi đến bao giờ. Tiểu Yến nói dỗi một câu, bước nhanh ra cổng lạc viên. Khi sắp ra khỏi, nàng cất tiếng gọi, chàng phấn khởi quay lại: “Huynh biết, muội vẫn nghĩa khí muốn đi cùng huynh”. Phượng Cửu nhìn Tiểu Yến một lượt từ đầu xuống chân, nói: “Vẫn nên để hôm khác, chỉ là muội cảm thấy chúng ta dù gì cũng kết giao huynh muội một thời, muốn ngắm huynh thêm chút nữa”. Tiểu Yến ngơ ngác gãi đầu: “Trông muội giống như sắp có chuyện quan trọng, vậy thì thôi. À, nghe nói Túy Lý Tiên thay đầu bếp mới, có cần huynh mang về cho muội vài món không?”. Nàng gật đầu: “Cũng được, nhưng dạo này muội ăn nhạt, bảo họ cho vừa ớt thôi”.
Đêm không trăng, trên trời lác đác mấy ngôi sao, mật đạo Tiểu Yến tạo ra nửa tháng trước vẫn còn dùng được, do lần trước đi nhầm đường, lần này rút kinh nghiệm, thận trọng men theo mật đạo đi thẳng tới suối Giải Ưu, Phượng Cửu thầm nghĩ, quả nhiên ở đời vạn sự đều tương đối, đều tương quan, đó chính là duyên phận mà đạo Phật nói.
Suối Giải Ưu một dòng nước xanh biếc long lanh, cây bần bà trên bờ giống như một đám mây lớn dày đặc, giữa đám mây đó khảm một trái đỏ tươi phát quang rực rỡ, bốn tấm bia đá xung quanh im lìm không một tiếng động, không biết bốn con mãng xà lúc nào sẽ phá đá lao ra. Đông Hoa từng hỏi, có phải nàng sợ nhất đi đêm, bởi hồi nhỏ có lần đi đêm bị sa vào ổ rắn. Đúng, nàng sợ nhất đi đêm, trong các loài cầm linh thú quý của thế gian nàng đặc biệt sợ rắn. Nhưng lúc này, trong đêm tối đứng giữa nơi có loài rắn lớn nhất, lại không thấy sợ bao nhiêu. Bởi vì người ta chỉ sợ khi lo lắng điều gì, mà trên đường đến đây, nàng đã lường đến tình huống xấu nhất, chuẩn bị tâm lý đón nhận tất cả, nên mọi thứ chỉ như phù vân.
Chỗ này cách cây bần bà gần trăm trượng, muốn đánh bại lũ mãng xà trong khoảng cách trăm trượng này, lấy quả bần bà là không thể, giống như thái tử Dạ Hoa cô phụ của nàng, năm xưa dù tiên pháp trác việt đến Thương Châu Đông Hải lấy trộm cỏ Thần Chi cũng bị linh thú canh cỏ nuốt mất một cánh tay, đi theo đường chiến đấu trực diện như vậy nàng không dám.
Ý định của nàng là, dốc toàn bộ ba vạn năm tu luyện vào tiên chướng hộ thân, mặc mãng xà tấn công thế nào, vẫn dứt khoát xông về phía quả bần bà, sau khi hái được quả quý, mới quay ra chống lại mãng xà. Làm như vậy sẽ thử thách tốc độ của nàng, nếu chạy nhanh, tiên chướng mang tiên lực tu luyện cả đời của nàng có thể trụ được đủ thời gian lấy quả bần bà, mặc dù tiên lực tu luyện ba vạn năm đều trút hết vào đây, nhưng sau này có thể tu tiếp cũng không sao. Nhưng, nếu tốc độ không nhanh, tiên chướng không trụ được cho đến khi nàng thoát khỏi lãnh địa của mãng xà, kết cục thế nào cũng khó nói.
Có điều, nghe Đông Hoa nói, lồng Thiên Cương của chàng vẫn ở trên người nàng, mặc dù lồng Thiên Cương có linh khí, ngoài chủ nhân của nó không ai điều khiển được, nhưng nàng mang trên người, nó sẽ tự khắc bảo vệ tính mạng nàng khi gặp nguy cấp, dù tình huống xấu nhất cũng không bị mất mạng, thật ra cũng không có gì đáng lo lắng.
Gió đêm ù ù, Phượng Cửu giơ ngón tay ấn quyết, hô tiên chướng hộ thân, đột nhiên nghĩ, nếu mình may mắn lấy được quả bần bà, nhưng làm Cơ Hoành giận dỗi, khiến Đông Hoa đến ép mình trả lại thì sao? Nàng không chắc liệu Cơ Hoành có làm như vậy. Ôi, cho dù thế, nàng nhất quyết không trả, cùng lắm là tuyệt giao với Đông Hoa. Nghĩ vậy bỗng thấy lòng yếu đuối, nếu Đông Hoa đối tốt với mình chỉ bằng một phần đối với Cơ Hoành cũng được, nàng cũng không cần nhiều, chỉ một phần là đủ, nếu nàng cũng có thể chỉ cần thuyết phục là Đông Hoa bằng lòng nhượng cho thì tốt biết bao, nhưng chuyện này hơn ba trăm năm trước không xảy ra, ba trăm năm sau đương nhiên cũng chỉ là ảo tưởng. Ảo tưởng đó không khỏi khiến Phượng Cửu não lòng.
Nàng hít một hơi, nhìn ra màn đêm tĩnh mịch đầy nguy hiểm, ấn quyết gọi ra tiên chướng, lại nhắm mắt truyền hết tiên lực vào tiên chướng, cùng với tiên lực mất dần, sắc mặt cũng dần tái nhợt, đồng thời tiên chướng quanh người từ màu hồng ban đầu chuyển thành màu vàng kim chói mắt.
Chùm kim quang đột nhiên phóng về phía suối Giải Ưu, mặt đất tức thì ầm ầm rung chuyển, núi rùng mình ngả nghiêng, cùng với tiếng rú như quỷ khóc, bốn con mãng xà phá bia đá lao ra, miệng há hoác phì phì phun nọc độc, hàm răng dài nhọn hoắt đâm tua tủa, chùm kim quang bất chấp tấn công của bốn con mãng xà vẫn lao về phía suối Giải Ưu, bốn con mãng xà trợn mắt phẫn nộ, ngửa miệng lên trời gầm thét, lửa cùng với sét từ những cái miệng đỏ ngầu như máu phun ra, từng đợt phun vào chùm kim quang, tốc độ của chùm kim quang giảm dần, nhưng vẫn lao nhanh về phía cây bần bà, chớp mắt lao đến gốc cây lẩn vào tán lá dày đặc. Có lẽ sợ cây thần bị thương, mãng xà giảm tấn công, chỉ đứng bên ngoài quật đuôi làm trời rung đất chuyển, suối Giải Ưu bị khuấy đảo nước vọt cao cả trượng. Phượng Cửu môi tái nhợt lau mồ hôi toát đầy trán, run run hái quả thần trên cây, mãng xà phẫn nộ lao tới, nàng vội ép người vào thân cây mới tránh được bộ răng kinh khủng của chúng. Những đợt tấn công của mãng xà làm tiên chướng bắt đầu rạn nứt, mấy con hung thú lợi hại hơn nàng tưởng, lúc quay ra sẽ rất khó khăn, đề phòng tiên chướng không trụ được, lửa và sét từ miệng mãng xà mặc dù tấn công vào tiên chướng nhưng cũng đả thương không ít đối với cơ thể nàng, dù không gây vết thương, nhưng gân cốt toàn thân đau nhức, Phượng Cửu chưa từng nghĩ lại có thể đau đớn như vậy.
Đã hái được quả thần, mấy con mãng xà điên cuồng gầm thét, càng tấn công dữ dội khi nàng quay ra, trên trời mây đen ùn ùn kéo đến trùm kín một vùng, sấm sét ầm ầm đánh xuống tiên chướng, toàn thân Phượng Cửu tê buốt từng trận, thậm chí nghe thấy tiên chướng quanh người nứt vỡ. Toàn thân đau buốt như dao cắt, mắt đổ đom đóm, đầu choáng váng, chân bước mỗi lúc một chậm, chùm kim quang bao bọc quanh người từ vàng chói chuyển thành phớt hồng rồi yếu dần thành màu bạc, còn khoảng mười bước nữa là thoát khỏi lãnh địa của mãng xà, đột nhiên một tiếng nổ long trời, tiên chướng vỡ toác, Phượng Cửu kinh hãi ngẩng đầu, một chùm sét từ trên không nhằm thẳng vào đầu nàng, phía sau ánh sét là đôi mắt mãng xà đỏ rực như hai quả cầu lửa, răng độc tựa bàn chông nhằm vào nàng xông tới, Phượng Cửu né tránh một cách bản năng, răng độc tuy chỉ sượt qua tay áo, nhưng luồng gió bạt, hất nàng ra xa hơn một trượng, từ xa nhìn thấy những quả cầu lửa từ miệng mãng xà bay về phía mình, tiên lực tu luyện ba vạn năm của nàng đã cạn, chỉ còn một chút pháp lực không thể chống trả, trong một thoáng chớp mắt, nàng đã nghĩ, vậy là tất cả đã hết, trái tim đột nhiên như rơi xuống vực băng tuyết, đang định nhắm mắt đón nhận, lại thấy quả cầu lửa chỉ cách mình một trượng đột nhiên lại bắn trở lại. Phượng Cửu kinh ngạc, chính là lồng Thiên Cương, đến giây khắc cuối cùng, quả nhiên nó vẫn cứu mạng nàng.
Nàng vùng vẫy bò dậy, trước mắt cách hai, ba trượng đột nhiên lại xuất hiện mãng xà, nhưng nàng ôm quả thần vừa bước ra hai, ba bước lại lập tức lùi về, Thiên Cương không kịp di chuyển theo nàng. Lúc này mới hiểu, khí pháp của lồng Thiên Cương công dụng không có gì khác tiên chướng hộ thân, nhưng lại không thể di chuyển theo cơ thể như tiên chướng hộ thân. Vùng đất quanh suối Giải Ưu rung chuyển dữ dội, chớp mắt không biết người từ đâu kéo đến xem rất đông. Trước đó nàng cũng đã nghĩ, tình cảnh sẽ thế nào sau khi quả bần bà bị mất, có lẽ Đông Hoa, Cơ Hoành và Lý Manh sẽ đoán ra đó là kiệt tác của nàng, nhưng không có chứng cớ cũng chẳng làm gì được. Nhưng lúc này, nếu cứ núp trong lồng Thiên Cương để giữ tính mạng không chịu di chuyển, mọi người kéo đến nhìn thấy mình bị trói giữa pháp trận, đương nhiên hiểu ra. Nhưng sự đã đến nước này, một cuộc chiến tranh giữa Tỷ Dực Điểu và Thanh Khâu e là khó tránh.
Bất luận thế nào, nàng phải thoát khỏi pháp trận này. Chặng đường chỉ mười bước hy vọng có thể thoát, không được hoảng sợ, chỉ cần mắt đủ sáng, đầu đủ tỉnh táo, vận hết khí lực cuối cùng, nàng không tin mình không thoát ra được. Phượng Cửu thầm tự động viên, mắt đã bắt đầu mờ vì mồ hôi, nhưng rất bình tĩnh quan sát động tĩnh của bốn con mãng xà. Mãng xà sau những đợt tấn công vào lồng Thiên Cương cứng như bàn thạch cũng thấm mệt, tranh thủ cơ hội để thở, Phượng Cửu nhân cơ hội bất ngờ vọt khỏi lồng Thiên Cương, nhanh như chớp phóng về phía rìa pháp trận, chỉ còn hai ba bước là thoát ra, chân lại đột nhiên bước hụt, trên đầu vang lên tiếng gầm như sấm của mãng xà, hình ảnh cuối cùng nàng nhìn thấy là tia lửa phẫn nộ không hiểu sao bỗng tiêu tan trong đôi mắt đỏ rực của mãng xà, từ đôi mắt to đỏ ngầu như máu nước mắt bỗng ứa ra, nàng chưa bao giờ nhìn thấy nước mắt mãng xà, bỗng chốc sững sờ, trên không trung chợt có tiếng gọi rất lạnh rất nhỏ, hơi nghẹn ngào, “A Lan Nhược điện hạ!”. Nàng nghe rõ chính là tiếng mãng xà. Chuyện về A Lan Nhược, Phượng Cửu cũng nghe loáng thoáng, nhưng không hỏi kỹ. Cùng với tiếng gọi từ hư không, hơi lạnh đang tấc tấc thâm nhập vào cơ thể nàng, cơn đau buốt lan khắp toàn thân, cuối cùng đau như xé thịt. Từ khi bước vào pháp trận mãng xà cơn đau chưa lúc nào buông tha, nhưng nàng vẫn nín nhịn không rên một tiếng, lúc này cuối cùng không thể chịu đựng bật ra tiếng rên, ý thức dần dần mất đi trong cơn đau vô tiền khoáng hậu.
Trọng Lâm, trưởng tiên cai quản cung Thái Thần, dạo này đang có nỗi băn khoăn, Đế Quân sau khi từ cốc Phạn Âm trở về có gì đó bất thường. Đương nhiên Đế Quân xưa nay luôn kín đáo, không dễ bộc lộ, Trọng Lâm dù đã theo hầu nhiều năm cũng không nắm bắt được, nhưng lần này, sự bất thường bộc lộ hơi rõ.Ví dụ, tay cầm cuốn sách ngơ ngẩn suốt nửa ngày vẫn không giở sang trang, ví dụ khi pha trà không dùng nước sôi, lại dùng nước lạnh, ví dụ khi dùng bữa, tay cầm đũa nhưng suốt bữa ăn không biết đang ăn gì. Có lần lại còn hỏi ông, giả sử muốn loại bỏ một người, nhưng phải để không ai cảm thấy người đó đã biến mất, ông có cao kiến gì không. Trọng Lâm cả đời là một vị tiên sứ chính trực, đương nhiên về chuyện này không thể đưa ra cao kiến gì có thể tham khảo, Đế Quân dường như tỏ ra thất vọng. Ông nhận ra dạo này Đế Quân quả thực hồn vía để tận đâu đâu.
Liên Tống Quân đã đến tìm Đế Quân ngay buổi chiều sau hôm chàng trở về cung Thái Thần. Liên Tống thường đến đây chuyện phiếm với Đông Hoa, vốn chẳng có gì lạ. Nhưng Liên tam điện hạ xưa nay lúc nào cũng mặt mũi hớn hở phởn phơ, hôm nay lai xuất hiện vẻ trang nghiêm khác thường khiến Trọng Lâm thấy lạ, lâu lắm rồi không thấy sắc diện ngài như thế, lần trước hình như là lúc Thành Ngọc Nguyên Quân rời cõi trần, lên Thiên giới hơn bốn trăm năm trước. Con linh hồ bị trọng thương mà Đế Quân mang về, hôm nay mới được hai tiểu đồng cáng về từ phủ của lang y, dưới bàn tay thần diệu của lang y, nó đã không có gì nghiêm trọng, giương đôi mắt hàm ơn cảm động nhìn Đế Quân, đây là con hồ ly có thể hóa thành người.
Thực ra Đế Quân xưa nay không phải là bậc đại từ đại bi, sẵn lòng cứu người, lần này lại cứu một con hồ ly, Trọng Lâm cũng cảm thấy có phần khó hiểu, nhưng nhìn bộ lông đỏ của con hồ ly, đột nhiên ông nhớ tới con tiểu hồ ly thông minh hiếu động ba trăm năm trước cung Thái Thần từng nuôi. Đế Quân có lẽ đang nhớ chuyện xưa, mới phát thiện tâm cứu nó. Con tiểu hồ ly năm xưa mặc dù không thể hóa hình, bề ngoài cũng không có gì đặc biệt, nhưng có linh khí hơn nhiều các tiên cầm tiên thú có thể hóa hình, khiến Đế Quân vô cùng yêu thích, bằng ấy năm, ông thấy Đế Quân cưng sủng con hồ ly đó hơn tất cả mọi thứ, nhưng không biết tại sao nó lại đi mất, có lẽ là duyên phận với Đế Quân hơi mỏng.
Trọng Lâm mơ màng nhìn xa, thở dài, đang định đi đến chính điện thu xếp công việc, đột nhiên phát hiện Liên Tống Quân vừa rồi đã đi lại quay về đang đứng trước mặt mình, nâng chiếc quạt trong tay hỏi: “À, Đông Hoa bây giờ đang ở hậu viên, chính điện hay tẩm điện? Ta không muốn đi oan đường”.
Trọng Lâm trưởng quản quả thật luôn nắm chắc hành tung của Đế Quân, Liên Tống đến thẳng tẩm điện của Đông Hoa không phải đi oan một bước nào, nhìn thấy Đông Hoa đang bày bàn cờ nhưng trên bàn chỉ có mấy quân cờ, trong tay cầm quân cờ cũng mãi không đặt xuống, xem chừng không giống đang suy tính bước đi, mà giống như đang thất thần ngẩn ngơ. Sau bức bình phong có cái ổ nhỏ, một con hồ ly đỏ đang rụt rè thò đầu ra, đôi mắt đen láy e dè nhìn Đế Quân.
Liên Tống đến đây là có việc, đi thẳng tới trước mặt Đông Hoa, chàng sực tỉnh liếc nhìn, ý bảo ngồi xuống, Liên tam điện hạ thần sắc nghiêm trọng tự đi lấy chiếc đế dài ngồi xuống , vào thẳng câu chuyện: “Quả bần bà của bộ tộc Tỷ Dực Điểu năm nay cố công dụng hoàn lại xương thịt cho người phàm đã chết, điều này hiền huynh có nghe nói?”.
Đông Hoa đặt một quân đen vào ô cờ, lại nhấc lên một quân trắng, lơ đãng đáp: “Có nghe, sao?”.
Liên Tống Quân cau mày: “Nghe nói Phượng Cửu đã lấy một phàm phu để báo ân, sau khi phàm phu đó chết, nàng mới trở về Thanh Khâu, mặc dù Ti Mệnh nói, nàng và phàm phu kia không có gì. Nhưng nếu gắn với chuyện quả bần bà, đệ thấy rất kỳ quái, sáng nay liền gọi Ti Mệnh đến cung Nguyên Cực uống rượu. Ti Mệnh tửu lượng kém, chỉ mấy chung, bao nhiêu chuyện để trong bụng, đệ chưa kịp hỏi, đã vô ý lộ ra một chuyện khác”. Ngẩng đầu: “Chuyện này liên quan đến hiền huynh”.
Quân trắng rơi xuống bàn cờ, Đông Hoa thủng thẳng: “Chuyện của Tiểu Bạch liên quan đến ta là rất bình thường”. Ra hiệu cho chàng ta tiếp tục.
Liên Tống Quân ngập ngừng, tiếp: “Nghe Ti Mệnh nói, năm xưa, để cứu người Phượng Cửu đã đem bộ lông của mình bán cho Nhiếp Sơ Dần quân vương Huyền chi của Ma tộc. Nhiếp Sơ Dần sau khi chiếm bộ lông của nàng, đã cho nàng mượn bộ lông đỏ khác khoác lên người”. Chăm chú nhìn Đông Hoa nói: “Chuyện này vừa hay xảy ra ba trăm lẻ năm năm trước”.
Đông Hoa cơ hồ sửng sốt, bàn tay đặt quân cờ trên bàn mãi vẫn giữ nguyên: “Ý đệ là, con tiểu hồ ly ta bị mất chính là Tiểu Bạch?”.
Liên Tống rót cốc trà, nhấp một ngụm, nhuận khẩu, tiếp tục: “Nghe nói hồi nhỏ nàng được hiền huynh cứu mạng một lần, từ đó không thể quên huynh. Hơn bảy trăm năm trước khi cung Thái Thần tìm nữ tỳ, nàng đã yêu cầu Ti Mệnh đưa vào cung của huynh làm nữ tỳ, không hiểu sao mãi không được huynh chú ý, về sau hay tin huynh bị nhốt trong Thập ác liên hoa cảnh, nàng đi cứu huynh, hóa thành con tiểu hồ ly ở bên huynh, nghe nói là muốn làm huynh động lòng, nhưng về sau huynh định thành hôn với Cơ Hoành…”. Nói đến đây liếc Đông Hoa lúc này đang bị chấn động mạnh, đắn đo tiếp: “Có phải đã xảy ra một chuyện thế này, trước hôm huynh thành hôn với Cơ Hoành, nàng làm Cơ Hoành bị thương, sau đó huynh sai Trọng Lâm nhốt nàng, rồi bỏ mặc rất lâu?”. Thấy Đông Hoa cau mày gật đầu mới nói tiếp: “Nghe đâu, về sau Trọng Lâm thấy nàng đáng thương mới tự ý thả ra, lại bị con sư tử trắng của Cơ Hoành dày vò suýt chết, may được Ti Mệnh cứu sống. Lúc Ti Mệnh say xỉn đã than thở, lần đó nàng bị thương rất nặng, phải dưỡng thương ba ngày trong phủ ông ta mới tỉnh. Còn huynh vẫn mặc kệ, không đoái hoài, không đi tìm khiến nàng buồn bã, nản lòng cho nên sau khi bình phục liền quay về Thanh Khâu”. Sau đó nói như than: “Hèn chi huynh tìm khắp Thiên giới, Phàm trần cũng không thấy nàng. Hồi đó đệ cũng thấy lạ, chỉ một tiểu hồ ly, cho dù mất tích, cũng không thể biệt vô âm tín như vậy”. Lại tiếp: “Đệ nghĩ mãi những điều này, cảm thấy có lẽ huynh không biết, cho nên đến báo với huynh. Gần đây thấy quan hệ giữa hai người ngày càng tốt, có điều Phượng Cửu có thể còn những khúc mắc với huynh”.
Đế Quân xưa nay ít bộc lộ tình cảm, lúc này lại phá lệ, bối rối tay xoa huyệt Thái Dương. Liên Tống nhìn chàng thấy lạ, hỏi: “Huynh sao thế?”.
Giọng Đông Hoa hơi khác thường: “Đệ nói đúng, có lẽ nàng còn hận ta, ta đang nghĩ nên làm thế nào”.
Liên Tống hình như nhớ tới điều gì, nói: “À, cuộc đua tài ở học phủ Tỷ Dực Điểu hôm qua về sau đệ cũng nghe ngóng được một hai. Nghe đâu, giải nhất vốn định là quả bần bà, cuối cùng bị huynh đổi thành lẵng đào? Lúc tuyên bố giải thưởng đệ thấy sắc mặt Phượng Cửu không được tốt”. Lại liếc nhìn con tiểu hồ ly đang dỏng tai thò đầu ra khỏi bức bình phong, nói: “Con tiểu hồ ly này tạm thời đệ sẽ chăm sóc, huynh vẫn nên đi xem thế nào, e là nàng có chuyện gì bất trắc”.
Bàn tay xoa thái dương dừng lại, Đông Hoa ngẩn ra hỏi: “Sắc mặt Tiểu Bạch không tốt ư?”.
Có lẽ nói xong những bí mật vừa được Ti Mệnh tiết lộ, Liên Tống Quân cảm thấy nhẹ nhõm, mặt trở lại tươi như trước, xua tay nói: “Đệ cũng không rõ lắm”. Lại cười, liếc Đông Hoa: “Mặc dù đệ vốn hiểu tâm tư các tiểu thư, nhưng người như Tiểu Bạch quả thực rất khó đoán, chỉ là thấy bộ dạng nàng hình như rất tủi thân, cho nên mới bảo huynh mau chóng đi thăm, có thể…”.
Lời chưa dứt, đã thấy bên ngoài có tiếng huyên náo, hai người vừa đứng lên thì cánh cửa tẩm điện đã bị đẩy đánh “rầm”, Yến Trì Ngộ đã đứng ở cửa tẩm điện, hầm hầm tức giận, lướt nhìn hai người, lại nhìn con hồ ly nằm trong ổ sau bức bình phong, lớn tiếng mắng: “Khốn kiếp! Phượng Cửu lúc này đang bị giam ở pháp trận mãng xà không biết sống chết thế nào, hai người vẫn còn ngồi đây chơi cờ, ngắm hồ ly!”.
Liên Tống nhất thời chưa hiểu ra chuyện gì, sững người vì bị mắng, Đông Hoa hiểu ngay, nhưng tai không nghe lọt câu chửi của Yến Trì Ngộ, cau mày hỏi nhỏ: “Tiểu Bạch làm sao?”.
Yến Trì Ngộ trợn mắt nhìn Đông Hoa: “Ông vẫn còn mặt mũi hỏi mỗ như vậy, Phượng Cửu làm sao? Mặc dù mỗ thích Cơ Hoành, nhưng cũng không khoái ông không nói không rằng đưa thứ vốn là của Phượng Cửu cho Cơ Hoành để nịnh nàng ta. Phượng Cửu có việc cần dùng đến quả bần bà, không phải ông không biết. Ông đem nó tặng cho Cơ Hoành, muội ấy không còn cách nào khác đành lén vào suối Giải Ưu ăn trộm trước khi nó bị hái, tu luyện ba vạn nửa năm của muội ấy sao có thể địch nổi bốn con mãng xà hộ quả thần, bây giờ bị giam ở pháp trận mãng xà không biết sống hay chết. Mỗ, Lý Manh và cả nữ vương đều không biết làm thế nào…”.
Đang nói thao thao, đột nhiên một trận gió tạt qua bên cạnh, quay đầu hỏi Liên Tống: “Mặt lạnh đâu rồi?”.
Liên Tống gập cái quạt, sắc mặt trầm xuống: “Đi cứu người”. Lại tiếp: “Ta đã biết sẽ xảy ra chuyện”.
Lời vừa dứt, người cũng biến mất trên không, chỉ còn Tiểu Yến và con tiểu hồ ly đang run run trong ổ, nhìn nhau, Tiểu Yến sững người một lát, cũng vọt lên mây bay theo.
Suối Giải Ưu quang cảnh tan hoang, tường thành bốn phía sụp đổ, dòng suối trong vắt cũng không còn dấu vết, trong pháp trận mãng xà ranh giới là những tấm bia đá chỉ có cây bần bà mọc trên gò cao vẫn còn nguyên vẹn. Bên ngoài pháp trận mặt trời đã lên cao, bên trong pháp trận vẫn tối om, bốn con mãng xà nằm phục bốn phía đông tây nam bắc uy nghi cuộn tròn trấn thủ, những con mắt đỏ như đèn lồng đang cháy, chúng đang canh giữ một kết giới mù mịt khói xanh, trong đó một thiếu nữ áo trắng nhắm mắt lơ lửng giữa không trung, mái tóc dài như dải lụa đen đổ xuống, không biết là hôn mê hay ngủ say
Bên ngoài tấm bia đá đổ nát, cuồng phong từng trận gầm rít, Đông Hoa đứng trên không lặng nhìn Phượng Cửu bị treo trong kết giới. Sắc mặt dù tái nhợt, nhưng ngực vẫn phập phồng, còn may. Chàng thở phào, nét mặt vẫn bình thường. Thực ra, chàng biết nàng rất đẹp, chỉ do quá hiếu động khiến người ta chỉ chú ý tính tình của nàng, lúc này khi yên lặng nằm trong kết giới, dung mạo mỹ miều đoan nhã mới càng nổi bật, nhưng nàng không hợp với màu trắng, phải là màu đỏ chói như hoa mạn châu sa yêu dị mới xứng. Trong cõi nhân sinh dài lâu của mình, có mỹ nhân nào chàng không gặp. Phượng Cửu chưa hẳn là người đẹp nhất, nhưng duyên phận luôn lạ kỳ như thế, các mỹ nhân dù kiều diễm thế nào, vẫn không ghi dấu trong ấn tượng của chàng, duy chỉ có Phượng Cửu lúc cười, lúc nhăn mày, lúc rầu rĩ, ngay khi chun mũi làm xấu chàng đều ghi nhớ trong lòng, mỗi hình ảnh của nàng đều tươi mới. Liên Tống nói nàng chính là con tiểu hồ ly năm xưa, nếu đúng vậy thì tốt, nhưng cho dù không phải, chàng cũng không bận lòng.
Trong hư không như có tiếng niệm Phật văng vẳng, chìm trong tiếng sáo thánh thót, chỉ thoáng qua, rồi lại yên tĩnh như không. Chàng cúi đầu, ánh mắt dừng lại ở nữ vương và quân thần Tỷ Dực Điểu quỳ phục bên dưới, lạnh lùng cất tiếng: “Kết giới kia là thế nào?”.
Nữ vương và thần tử quỳ bên dưới vẫn chưa hết kinh ngạc không hiểu sao Đế Quân lại tiên giá đến đây, mãi không thấy trả lời, cuối cùng hoàng tử Lý Manh vốn là bằng hữu của Phượng Cửu, thấy nàng bị giam trong đó vô cùng lo lắng, chắp tay hồi đáp: “Bẩm tôn đế, giam giữ công chúa Cửu Ca không phải kết giới mà vẫn là A Lan Nhược chi mộng”.
Khi ba chữ A Lan Nhược vang ra từ miệng nhị hoàng tử Lý Manh, những người quỳ bên dưới ngoài Cơ Hoành tất thảy đều run lên.
Lý Manh kể rõ sự tình, chuyện thì ra là thế.
Trong truyền thuyết A Lan Nhược là một mỹ nhân tuyệt thế, nhưng không may chết oan, sau khi nàng chết, không được vãng sinh, lưu luyến hóa thành một mộng cảnh phiêu bạt trong cốc Phạn Âm, phàm người nào bị cuốn vào trong mộng, sẽ rơi vào tâm tư của A Lan Nhược khi còn sống. Người nội lực không đủ mạnh sẽ vĩnh viễn không thoát khỏi A Lan Nhược chi mộng, sẽ vĩnh viễn ngủ say trong giấc mộng đó, cho đến khi tiên lực tu luyện quanh thân bị giấc mộng hút hết sẽ tan thành khói.
Hẳn là công chúa Cửu Ca đi nhầm vào pháp trận mãng xà đúng lúc chạm vào A Lan Nhược chi mộng bay đến, cho nên bị cuốn vào. A Lan Nhược từ nhỏ đã được bốn con mãng xà trong bia đá nuôi dưỡng, công chúa rơi vào mộng cảnh của nàng, có lẽ khiến mãng xà tưởng công chúa Cửu Ca chính là A Lan Nhược, cho nên nhất quyết bảo vệ không cho người ngoài động vào.
Muốn phá A Lan Nhược chi mộng, ngoài chính người bị cuốn vào tự thoát ra, vẫn còn một cách an toàn hơn – chọn một người thân cận nhất với người đó đi vào trong mộng, đưa người đó trở về. Nhưng tình thế hiện nay, nếu muốn đi vào A Lan Nhược chi mộng, đưa công chúa Cửu Ca ra, trước tiên phải qua được pháp trận mãng xà. Đấu với bốn con hung thú không khó, nhưng A Lan Nhược chi mộng thực ra chỉ là một hóa cảnh, khi cuốn người vào trong mới hiện ra thực thể, thực thể chính là kết giới màu xanh nhạt. Thực thể hiện thân của mộng cảnh vô cùng mỏng mảnh, cuộc chiến đấu diễn ra trong đó nhất định ác liệt, nhỡ làm mộng cảnh tan vỡ, hậu quả khó lường, công chúa Cửu Ca nhẹ thì bị thương, nặng thì mất mạng.
Họ cũng từng nghĩ, liệu có thể cho người tu luyện lâu năm, có tiên chướng hộ thân vững chắc giao đấu với hung thú, sau đó tiếp cận và đi vào giấc mộng đưa công chúa ra. Nhưng A Lan Nhược chi mộng rất kỵ người có sức mạnh, ai đi vào mộng cảnh cũng phải trút bỏ tiên lực quanh người ở trăm trượng ngoài giấc mộng, dùng thân phàm trần mới có thể thuận lợi đi vào, nếu không mộng cảnh cũng có thể bị phá vỡ. Nhưng lúc này, nếu trút bỏ tiên lực, làm sao đấu lại được mãng xà, tình thế muôn vàn khó khăn, nguy cấp, không ai tìm ra cách nào, từ tối qua lúc phát hiện ra công chúa Cửu Ca bị giam đến giờ, không dám manh động là vì thế. Công chúa Cửu Ca e là lành ít dữ nhiều.
Khi Liên Tống vội vàng đi đến, thấy Lý Manh đang thao thao nói, nói những gì chàng không nghe rõ, chỉ thấy Lý Manh vừa dứt lời, những người quỳ dưới đất nhất loạt giơ tay gạt nước mắt, dù không hiểu tại sao họ khóc, nhưng nhiều người cùng trang trọng làm một động tác như thế, quả thực vô cùng cảm động.
Đang định đi lên phía trước, Đông Hoa đã quay lại nhìn thấy chàng trước.
Thần sắc Đông Hoa vô cùng bình thường, chàng lập tức yên lòng, nếu Phượng Cửu có chuyện, Đông Hoa mặc dù xưa nay vẫn bị Yến Trì Ngộ gọi là Mặt lạnh, nhưng do mối thâm giao bao năm, Liên Tống biết, thần sắc Đông Hoa nhất định không phải như thế.
Đang định chào, Đông Hoa đã đến trước mặt chàng, giọng bình thản tự nhiên như mới chế xong mấy vị trà định tặng chàng vài gói: “Đệ đến đúng lúc, đang có hai việc cần nhờ đệ”. Nói đoạn, ngước nhìn Phượng Cửu đang ngủ say trong pháp trận mãng xà: “Nếu cuối cùng chỉ có một mình nàng trở về, hãy đưa nàng bình an quay về Thanh Khâu giao tận tay Bạch Dịch, sau đó đến Côn Lôn tìm Mặc Uyên, nói là Đông Hoa Đế Quân phó thác Tuệ minh kính cho ông ta, ông ta sẽ hiểu nghĩa là gì”.
Nghe những lời đó, Liên Tống ngẫm nghĩ, sao cứ thấy giống như di ngôn, liền mỉm cười liếc nhìn kết giới nói: “Mặc dù mấy năm nay ít đánh trận, chân tay e là cũng không được nhanh nhẹn như trước, nhưng mấy con mãng xà kia muốn xiết chết hiền huynh, e cũng…”.
Lời chưa kịp nói hết, đã ngậm miệng, cho dù Thái Sơn sụp đổ trước mặt cũng không khiến Liên Tống đang cười cười bỗng mặt biến sắc, nhảy lên một bước túm lấy Đông Hoa đang điểm nhiên trút bỏ tiên lực quanh mình ung dung bước vào pháp trận mãng xà. Không ngờ bị Yến Trì Ngộ xuất hiện từ lúc nào, giơ tay ngăn lại, trong mắt Yến Trì Ngộ là vẻ trầm tư chưa từng thấy, nói khẽ: “Chỉ còn mỗi cách đó”. Mắt liếc về phía pháp trận mãng xà lúc này sấm chớp bắt đầu nổi ầm ầm, mưa như trút nước, nói tiếp: “Không còn cách nào khác, mỗ đã nghĩ suốt một đêm cộng với nửa ngày cũng không ra, mỗ không thể trút bỏ tiên lực một mình đi vào pháp trận mãng xà, mỗ chưa đủ trượng nghĩa với bằng hữu, Mặt lạnh trượng nghĩa ngút trời, mỗ kính phục ông ta”.
Trong pháp trận mãng xà trời long đất lở, trong vòng không đầy hai ngày lần lượt có hai người đến xâm phạm khiến mãng xà đại nộ, gầm thét như quỷ khóc, chùm sét cùng chùm sáng như lợi kiếm nhất tề lao về phía Đông Hoa. Không có tiên lực hộ thân, cơ thể Đông Hoa trong chớp mắt bị rạch mấy nhát, máu tứa ra lập tức bị nước mưa rửa trôi, nữ vương và chư thần quỳ bên ngoài, kinh hoàng trước cảnh tượng ấy nhưng không thể giúp gì, nhất loạt đứng ngây.
Liên Tống bị Tiểu Yến gạt ra phía sau, có lẽ đã hiểu nguyên do dấn thân của Đông Hoa, trầm ngâm không nói. Chàng và Đông Hoa là chỗ bằng hữu vong niên, thực ra nếu tính tuổi, không biết Đông Hoa nhiều hơn chàng bao nhiêu, chàng ra đời sau thời loạn chiến hồng hoang, không thể tận mắt nhìn thấy chiến tích của Đông Hoa thủa đó, nhưng trước đây từng nghe Mặc Uyên nhắc đến Đông Hoa, vị tôn thần thượng cổ đó nói là chiến trường thời viễn cổ hồng hoang mới xứng danh là chiến trường, lúc đó mới đúng là chiến trường đẫm máu, có thể can trường chịu sự khốc liệt đó phải kể đến Đông Hoa Đế Quân, mỗi khi từ chiến trận đi ra, mình đẫm máu, nhưng mặt vẫn không biến sắc, uy dũng đó không mấy ai sánh được. Trong pháp trận mãng xà, tiếng sấm sét vẫn rền vang không ngừng một khắc, áo chùng trắng trên người Đông Hoa đã nhuộm máu thành màu đỏ kim. Để tránh kích động mãng xà, có thể gây hại đến mộng cảnh Phượng Cửu đang nằm, Đế Quân luôn duy trì bước chân chậm rãi thích hợp, nước mưa nhuộm máu từ vạt áo và ống tay nhỏ xuống, một màu đỏ tươi, chàng vẫn bình tĩnh bước.
Đột nhiên ai đó trong đám người quỳ sau lưng nữ vương đứng lên, loạng choạng lao về phía Yến Trì Ngộ, xiêm áo một màu trắng muốt, chính là Cơ Hoành, mặt đầy nước mắt, túm vạt áo Tiểu Yến cầu khẩn: “Hãy cứu Đế Quân, hãy kéo Đế Quân trở về, thiếp đồng ý với chàng mọi chuyện”.
Tiểu Yến trầm ngâm, quay lưng lại, không nói gì, Cơ Hoành vẫn túm vạt áo chàng nức nở.
Phượng Cửu thoáng nghe thấy tiếng sét và tiếng mưa từ nơi nào vọng đến. Nàng cảm thấy từ khi rơi vào khoảng không, con người mình đã nhẹ lâng hư ảo. Trong mơ hồ lúc thức lúc ngủ, đầu óc càng u mê, mỗi lần tỉnh, lại quên một số điều. Lần trước tỉnh lại, không nhớ tại sao mình rơi vào khoảng không đó, liệu có phải cứ như thế này, sau nhiều lần mê, tỉnh, nàng sẽ không còn nhớ mình là ai? Lòng hoảng sợ muốn rời khỏi đây, nhưng mỗi lần tỉnh lại, hình như ý thức vẫn còn trong hôn mê, mở mắt chỉ thấy một màu lờ mờ, chân tay càng không thể nhúc nhích. Mà mỗi lần tỉnh lại, chờ đợi nàng chỉ là bóng đêm đen tịch mịch và cơn đau tê buốt toàn thân.
Nhưng lần này cơ hồ có khác, tiếng sét và tiếng mưa mỗi lúc một rõ, tiếng sét ầm ầm như đánh sát bên tai, hình như có bàn tay đặt lên đầu mình, lành lạnh, dừng một lát, lại dịch xuống má, vén những lọn tóc xõa vào sau tai. Phượng Cửu mơ màng mở mắt, nhìn thấy một chàng trai tóc nhũ trắng áo chùng tím đang cúi xuống nhìn nàng.
Lúc này, nơi này nhìn thấy Đế Quân, nếu tỉnh táo hẳn nàng sẽ vô cùng kinh ngạc, nhưng bây giờ đầu óc u u mê mê, ngay bây giờ là lúc nào, đang ở đâu cũng mơ hồ, rồi mình là Phượng Cửu hồi nhỏ hay Phượng Cửu đã lớn cũng không thể phân biệt, chỉ cảm thấy đây là chuyện rất bình thường. Nhưng người này nàng có quen, chính là Đông Hoa, lại mơ hồ nhận ra chàng là người mình rất thích, chàng đến đây tìm mình, ôi sung sướng quá! Nhưng vẫn hỏi một câu trái lòng mình: “Chàng đến làm gì?”. Ánh mắt trầm lặng của Đông Hoa nhìn nàng, không nói. Tầm nhìn rõ dần, Phượng Cửu thấy chàng khắp người ướt đẫm, vô cùng ngạc nhiên, khẽ hỏi: “Hẳn chàng lạnh lắm?”.
Đông Hoa vẫn không trả lời, chỉ lặng lẽ nhìn, rồi quàng tay kéo nàng vào lòng: “Rất sợ phải không?”.
Phượng Cửu bỗng ngây người chân tay luống cuống. Nhưng Đông Hoa hỏi nàng có sợ không. Đúng, nàng rất sợ, liền thật thà gật đầu. Chàng vuốt tóc nàng, giọng trầm trầm an ủi: “Đừng sợ, ta đã đến rồi”.
Nước mắt đột nhiên ứa ra, trong đầu một phiến hoang mang, những tủi cực chứa chất bấy lâu bất chợt trào ra, chân tay hình như đã có thể cử động, nàng thử chạm tay vào lưng Đế Quân, nghẹn ngào: “Thiếp cảm thấy thiếp luôn phải đợi chàng, cứ nghĩ chàng sẽ không đến, nhưng cuối cùng chàng đã đến, thiếp rất vui”. Tiếng Đế Quân trả lời: “Ta đã đến với nàng”.
Lòng mơ hồ cảm thấy Đế Quân hôm nay quá dịu dàng, thật sung sướng, khác hẳn Đông Hoa mọi khi, nhưng Đông Hoa mọi khi thế nào, bỗng chốc nàng cũng không nhớ được, đầu lại nặng dần, ý thức mập mờ, nắm lấy câu vừa rồi của chàng: “Mặc dù chàng đã đến, nhưng thiếp biết chàng sẽ đi ngay, thiếp vẫn nhớ hình như thiếp luôn nhìn theo bóng chàng, còn bây giờ thiếp rất buồn ngủ, thiếp…”.
Nàng thấy hình như mình lẩm bẩm nói gì, nhưng đầu óc càng chìm trong hỗn mang, chập chờn, cảm thấy được vòng tay ai ôm chặt hơn, trước khi lại chìm sâu vào giấc ngủ, câu cuối cùng của chàng thoảng bên tai: “Lần này ta sẽ không đi, ngủ đi Tiểu Bạch, nàng tỉnh dậy là chúng ta đến nhà”.
Nàng mãn nguyện, một lần nữa chìm vào giấc ngủ, bên tai cơ hồ vẫn có tiếng sét đánh, tiếng phì phì của mãng xà phun độc, nhưng lòng rất đỗi, rất đỗi bình yên, không hề sợ hãi. Trong vòng tay Đông Hoa mọi đau đớn đều tiêu tan.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...